Trở lại trang chánh của Website Thiên Lư Bửu Ṭa
|
ĐẠI ĐẠO VÀ TÔN GIÁO Các người theo Đạo thường lẫn lộn Đại Đạo và Tôn Giáo, nhưng các bậc hiền minh, thánh triết th́ thấy Tôn Giáo và Đại Đạo hết sức khác nhau. Lecomte Du
Nouy chủ trương Chân Đạo phát xuất từ
một nguồn, sau biến thiên thành nhiều tôn giáo. Ngày
nay các tôn giáo phải cố sao t́m lại tương
đồng nguyên thủy ấy. (Lecomte Du
Nouy, La Dignité humaine, p. 143) Trong bài
tựa cuốn “Kim Liên Chính Tông” của Đạo Lăo,
ta thấy có quan niệm tương tự: “Đạo
không đầu cuối, Giáo có
trước sau.” Hỏi:
“Vậy Đạo và Giáo khác nhau sao?” Thưa:” Khác.” “ Đạo
thời chân thường siêu việt; giáo thời
dạy cách độ người. Đạo là Bản
Thể qua muôn ngàn đời không hề biến dịch;
giáo là công dụng có lúc thịnh, có lúc suy.”(Kim Liên Chính
Tông Kư, tr. 1) Cao Hoàng
luận về Tam Giáo có viết : Thiên Hạ vô nhị
Đạo, Thánh Nhân vô nhị Tâm. (Xem Ng. Văn Thọ, Tính
Mệnh Khuê Chỉ, tr. 14) Thẳng
thắn mà xét th́ vấn đề “chính đạo
tại tâm” là một quan niệm mà chỉ có một
số ít chính nhân, quân tử, hiền thánh mọi nơi
mọi đời chấp
nhận. Nó đ̣i
hỏi một sự suy xét sâu xa, một tâm hồn tế
nhị có thể thâu nhận được những ư
niệm từ đáy ḷng hiện lên tâm thức. Đó là
công việc mà những người tầm thường không
làm nổi. Mục
Đích của Đại Đạo: Dạy con
người thực hiện Thiên Tính Dạy con
người Tiến Hóa, tiến tới Toàn Thiện (Trung
Dung, Đại Học) Mở
rộng tầm mắt bao quát vạn vật và không gian
thời gian, ta thấy vũ trụ như có hai chiều hướng
biến dịch, tiến hóa. Một
chiều tiến hóa theo các định luật vật
chất ngày một tiến tới bất động ù ĺ,
tối tăm, lạnh lẽo, hỗn loạn. Một
chiều tiến hóa theo các định luật tinh thần
ngày một tiến tới tinh vi, kỳ ảo, linh động
sáng tươi, đẹp đẽ, trật tự, ḥa
hợp. Và khi tinh thần tiến tới chỗ tinh hoa,
tuyệt diệu, th́ vật chất sẽ tiến tới
chỗ hỗn loạn và triệt tiêu. Ta cũng
thấy song song với các đạo giáo và triết
thuyết hiện hành c̣n có một thứ triết
thuyết và đạo giáo của các nhà huyền học
tứ phương. Về
triết lư các nhà huyền học chủ trương con
người gồm đủ Tam Tài Thiên Địa Nhân. Nghĩa là
con người gồm có: Xác (Địa) Tâm (Nhân) Thần
(Thiên) Đó là
quan niệm Tam Tài mà chính Thánh Kinh cũng đă nhiều
lần đề cập tới. (1 Thessaloniciens, 5, 23; Mat. 22,
37) Suy rộng
ra, th́ con người có ba bổn phận: -Vật
đạo: Lo cho xác thân được khang kiện,
chế ngự được ngoại cảnh. -Nhân
Đạo: Lo cho tâm hồn được khinh khoát, thoát
ṿng kiềm tỏa của dục t́nh, ăn ở xứng
đáng với danh nghĩa con người, tiếp nhân
xử kỷ cho phải phép. -Thiên đạo: Vươn lên tới b́nh diện tâm linh, sống phối hợp cùng Thượng Đế, bỏ lốt phàm tâm, thể hiện “Thiên Tâm”. Đó là giai đoạn “tâm tử, thần hoạt” của Lăo Giáo, hay “Tận nhân dục tắc Thiên lư hiện” của Nho gia. Như vậy, con người sinh ra chưa phải là con người thực, c̣n phải tốn công mài giũa, tu luyện lâu lai mới thành người; từ con người, đến địa vị thần thánh, cũng thực là nhiêu khê, vất vả. Sinh ra là phàm nhân, con người phải dùng đời ḿnh để cố gắng trở nên những con người xứng đáng, trở nên hiền thánh. Như vậy th́ càng về chiều, càng về già, thời gian càng trở nên quí báu, quan trọng. Và con người không bao giờ được ngừng nghỉ, mà phải tiến bước măi để đạt đích hoàn thiện. Con người chỉ trở nên bất tử, khi thực hiện được Thiên Tâm. Các h́nh thức bên ngoài, các giáo lư mới đầu, rất cần thiết v́ nó hỗ trợ con người trong công tŕnh đi t́m chân lư, nhưng khi đă nh́n thấy con đường nội tâm, và đă biết những phương pháp suy tư, định tâm, định trí bên trong, th́ tất cả các phương thức bên ngoài trở thành tùy thuộc. Tất cả các phương thức chỉ có giá trị ở chỗ giúp đỡ con người t́m ra được Chân Thần, sống cao siêu, phối hợp được cùng Thượng Đế ngay từ khi c̣n ở gian trần này. Khi đă đạt đích, th́ mọi sự không c̣n cần yếu nữa. Con người cần phải chứng nghiệm được những giai đoạn ḿnh đă băng qua, những kết quả đă thâu lượm được, ngay từ khi c̣n ở trần hoàn; cho nên mới đầu th́ phải nhờ người hướng dẫn, sau dần đà phải tự ḿnh điều khiển, lèo lái lấy cuộc đời ḿnh, theo đúng đường lối, gương tích các bậc thánh hiền tiền bối. Định mạng con người cũng như định mạng nhân quần rất là sang cả, rất là cao siêu. Nó chỉ có một, đó là Hoạt động theo Trời, sống phối kết với Trời. Nho gia xưa gọi thế là Dữ Thiên đồng đức, hay Thiên Nhân hợp phát. Công Giáo nói Hăy trở nên hoàn thiện như Cha ta ở trên Trời (Mat. 5, 48.) Trung Dung
cũng viết: ” Hoàn Toàn
là Đạo của Trời Trở nên
hoàn thiện, đạo Trời xưa nay” ( Thành giả
Thiên chi Đạo dă,Thành Chi giả Nhân chi Đạo dă.
Trung Dung Chương 20, Nguyễn Văn Thọ, Trung Dung Tân
Khảo, tr. 380.) Đại
Học viết “Chỉ ư Chí Thiện “ Chỉ
dừng chân nơi Chí Thiện (Đại Học, Chương
I) Tóm lại, tiến sâu vào đáy ḷng, cố dẹp bỏ thú tính, cố sống cho cao siêu, khinh khoát, để thể hiện nơi ta một tâm hồn siêu đẳng. Đó là chốt then của sự Tiến Hóa để tiến tới vinh quang, tới Định Mệnh sang cả của con người, theo đúng Thiên Ư. Những
Danh Từ dùng để chỉ Đại Đạo. Người
xưa dùng chữ Phối Thiên (Trung Dung Chương 26, 31;
Đạo Đức Kinh (chương 68), Nirvana (Bà La Môn,
Phật) Giám mục Nathan Soderblom, trong quyển La Vie future d’après le Mazdéisme, chủ trương rằng Niết Bàn là một từ ngữ Phật giáo đă vay mượn nơi Ấn Giáo: Nó tương đương với trạng thái huyền đồng, hay đời sống phối kết với Thựợng Đế trong Ấn Giáo. Trong Ấn Giáo, Nirvana nhiều khi đi đôi với chữ Brahma... (Std. tr. 363) II-Đạo
Huyền Đồng (Mysticism) và thuyết Thiên Địa
Vạn Vật đồng nhất thể. Đạo Huyền đồng là sống một đời đạo giáo kết hợp với Trời ngay từ khi c̣n ở gian trần này. Al-Ghazali phê
b́nh: “Khi nhà huyền học sống phối kết
với Một, th́ đă đi tới giai đoạn
tiến hóa chót của con người. Con
người không thể nào đi xa hơn thế
được, v́ đă đi đến Một là không c̣n
Vạn, không c̣n ǵ bác tạp nữa. 7 (Al-Ghazali
comments: “When the mystic enters into the pure and absolute Oneness of the
One and into the Kingdom of the One and Alone, mortals reach the end of their
ascent... No higher ascent for the soul
is possible, for there is no height beyond the highest and no multiplicity in
the face of the Unity... Evelyn
Underhill, Mysticism, A meridian Book, p. 174-175.) 8
With Thy Sweet Soul, this soul of mine, Had
mixed as Water doth with Wine, Who
can the Wine and Water part, Or
me and Thee when we combine? Thou
art become my greater Self, Small
bounds no more can me confine. Thou
hast my being taken on, And
shall not I now take on thine?... Hal
Bridges, Mysticism, A meridian Book, p. 426 9
God, says Plotinus, is not external to anyone, but is present with all things,
though they are ignorant that He is so. Mysticism,
Everlyn Underhill. P. 99. 10 God,
says Echkart, is nearer to me than I am to myself: He is just as near to wood
and stone, but they do not khow it. Mysticism,
p. 101. 11 All
that a man has here externally in multiplicity is intricically one. Here
all blades of grass, wood and stone, all things are one. Hal Bridges,
American Mysticism, Harper and Row, 1979, p. 3. Jalalu'd Din có
thơ:
Hồn ta, hồn Chúa tuy hai,
Như nước và rượu, ḥa hài với nhau.
Chúa, Ta ư hiệp, tâm đầu,
Nước kia, rượu nọ, ai hầu phân ra?
Ngài nay đă trở thành ta,
Ta nay đă thoát cơi bờ nhỏ nhoi!
Ngài nay đă chiếm ta rồi,
C̣n ta cũng đă thành Ngài c̣n đâu? (
With Thy Sweet Soul, this soul of mine, Had
mixed as Water doth with Wine, Who
can the Wine and Water part, Or
me and Thee when we combine? Thou
art become my greater Self, Small
bounds no more can me confine. Thou
hast my being taken on, And
shall not I now take on thine?... Hal
Bridges, Mysticism, A meridian Book, p. 426) Đạo
Huyền Đồng chủ trương Thượng đế
là Bản Thể con người, là cốt lơi con người,
và luôn luôn tiềm ẩn trong ḷng con người (God is
immanent in man). Plotinus nói: “Thượng đế không
ở ngoài con người, nhưng ở ngay trong ḷng
vạn hữu. Chỉ tại
ta ngu dốt không biết điều đó mà thôi. ( God, says
Plotinus, is not external to anyone, but is present with all things, though they
are ignorant that He is so. Mysticism,
Everlyn Underhill. P. 99.) Eckhart cũng
nói: “ Thượng đế gần tôi hơn chính tôi,
Ngài cũng gần gỗ đá như vậy, nhưng chúng
không biết điều đó. (
God, says Echkart, is nearer to me than I am to myself: He is just as near to
wood and stone, but they do not know it. Mysticism,
p. 101.) Mục
tiêu của Đạo huyền đồng: Trở về
với Nhất thể. Một người theo đạo huyền đồng chân chính phải biết rằng muôn vật sinh xuất ra từ Một, và có hiểu rơ lẽ sinh hóa từ Một mới là người theo đạo huyền đồng. (Mysticism). Eckhart
cho rằng: Cái mà con người nh́n thấy thù tạp,
phân hóa bên ngoài, thật ra là Một mà thôi. Ở
đây, một ngọn cỏ, một tấm gỗ,
một phiến đá thật ra cũng là một. (
All that a man has here externally in multiplicity is intricically one. Here all
blades of grass, wood and stone, all things are one. Hal Bridges, American
Mysticism, Harper and Row,
1979, p. 3.)
Tennyson
viết:
Little flower - but if I could
understand
What you are, root and all, and all in all.
I shoud know what God and man is. Dịch:
Bông hoa bé nhỏ con con,
Nếu tôi hiểu được nguồn cơn, gót
đầu.
Nếu tôi hiểu nó cho sâu,
Trời, Người bao chuyện nhiệm màu, cũng
thông. Phật Giáo
cũng chủ trương Vạn loài đồng thể.
Trong quyển Zen and Japanese Culture, nơi tr. 352, Daisetz T. Suzuki
trích lời thư Tăng Triệu như sau:
Heaven and earth and I are of the same root,
The ten thousand things and I are of one substance. Đó chính
là Thiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất
Thể. Biết
được, theo được đạo huyền
đồng là cái duyên mà trời đất ban cho
những người có căn cơ, gốc gác, cho
những người biết lập quyết tâm đi t́m
Đạo, t́m Trời. Người xưa nói : Tinh thành
sở chí, kim thạch vi khai, Ai mà có ḷng thành tín, th́ vàng
đá sẽ mở ḷng ra. Không
biết rằng ḿnh phát xuất ra từ một, không
biết rằng muôn loài là một, là chính ḿnh, th́ không
bao giờ vào được đạo huyền Đồng. Lă Đồng
Tân viết :
Ta có một vật báu,
Giá chẳng đáng đồng tiền.
Nếu ai mà hỏi giá,
Muôn vạn lạng hoàng kim.
Đạo tặc chẳng cướp được,
Hỏa thiêu cũng y nhiên.
Ở đời không kẻ biết,
Chí thân cũng không truyền.
Ta từ Vân Động đến,
Tới nay quá thiên niên.
Hận là không kẻ biết,
Trong ḿnh vẫn giữ nguyên.
Nó chẳng đứt, chẳng liền,
Tung ra trùm trời đất,
Thu nhỏ lọt đầu kim.
Nếu ai mà biết được,
Tu đạo, sẽ thành tiên. Bạn hăy kiếm điểm lại,+
Có chăng tại thân biên! Bài này là
một bài kệ của Lă Đồng Tân. Một hôm,
vào khoảng năm 1976, tôi và nhà tôi xuống thăm chùa
Đạo Lăo là Chùa Khánh Vân, ở đường Ḷ Siêu,
Chợ Lớn, tôi thấy trụ tŕ đem dưng bài
kệ trên cho thiên hạ đọc. Tôi ghi chép lại, và
đem về dịch ra tiếng Việt, và cũng đem
biếu vị trụ tŕ một bản. Bài này,
sang Mỹ rồi, nhà tôi mới đem ghi chép lại. Có
thể là thiếu đi ít câu, nhưng đại ư
chỉ có vậy. Thực ra,
Trời là cốt lơi muôn loài, và là chiều sâu con người,
nhưng con người đâu có biết có hay. Họ
chạy đi t́m những đạo mới lạ, chỉ
duy là đă có sẵn đạo cao siêu nhất ở ngay
trong ḿnh, th́ lại bỏ qua luôn, không thèm để ư
tới. Thế chính là Bụt chùa nhà không thiêng.
Thế là có của báu trong nhà mà vẫn phải ngửa
tay đi ăn xin người. Một hôm,
tôi sang Paris, lên tháp Eiffel ngắm cảnh. Tôi thấy trăng
sao, trời mây ở Paris, là trăng sao, tôi vốn có
từ Việt Nam. Tôi nhớ lại đồ ăn,
thức uống ở Paris, tôi cũng thấy có ê hề
ở Việt Nam. Nghĩa là cái ǵ cần cho con người
như đồ ăn, thức uống, như không khí, th́
Trời đă cho tôi có đủ ở Việt Nam. Như
vậy, nếu có cái Đạo cần cho con người,
th́ tôi phải mang nó sẵn trong tôi, chứ nó không
thể là cái đạo nhập cảng. Phật nói Ngài
là ngón tay chỉ trăng, chứ Ngài không phải là trăng.
Đạo Nho nói: Đạo quân tử, phát xuất
tự thâm tâm (Cố quân tử chi đạo, bổn chi
ư Thân. Trung Dung chương
29). Chính v́ vậy mà tôi đă dành nửa đời
người để đi t́m cho ra cái đạo tự
nhiên, vĩnh cửu mà trời đất đă ban cho tôi
từ khi ra đời. Khi c̣n
trẻ, tôi đă đi theo đạo này, đạo
nọ, nhưng những ǵ họ rao giảng, mà không
hợp t́nh, hợp lư, không hợp với tự nhiên,
với Thiên Lư, với những định luật vĩnh
cửu của trời đất là tự nhiên nó
truội đi, như nước đổ đầu
vịt. Thánh
hiền các đạo giáo đều dạy lẽ Qui Nguyên
Phản Bản: Lăo tử viết:
Muôn loài sinh hóa đa đoan,
Rồi ra cũng phải lai hoàn bản nguyên.
Hoàn bản nguyên an nhiên phục mệnh,
Phục mệnh rồi trường vĩnh vô cùng. (Xem
bài Qui Căn, chương XVI, Đạo đức Kinh) Các
đạo giáo Á đông đều dạy “qui căn
phản bản”, hay “qui nguyên, phục thủy”. Bà La Môn
dạy ta:
Tiến từ Hư Vọng, tới Chân Thực.
Từ tối tăm đến Ánh sáng.
Từ Tử Vong đến Bất tử. (Brih. 1.3.28). Đạo
Phật dạy 4 chữ Thường, Lạc, Ngă, Tịnh:
Tiến tới Thường Hằng, Hạnh Phúc, Đại
Ngă (Phật tính, Chân Tâm), Thanh Tịnh. Đạo
Nho dạy: Khử nhân dục (Vọng Tâm), Tồn Thiên Lư
(Chân Tâm) và hễ Nhân Dục thắng, th́ Thiên Lư vong, Và
phải sống sao cho ḷng được Quang, Minh, Chính
Đại. Như
vậy, giác ngộ là t́m ra được Chân Tâm, Chân Ngă
khuất lấp sau bức màn vô minh và hiện tượng. Tóm
lại, Thuyết Thiên địa vạn vật đồng
nhất thể sẽ trở thành một học thuyết
đạo giáo hết sức cao siêu, nếu ta thay chữ
Bản Thể bằng những danh từ như Thượng
đế, Allah, Chân Như, Đạo v.v... Tuy nhiên, nó
hết sức khác với tôn chỉ của các đạo
giáo công truyền, v́ nó chủ trương: *
Con người có Thiên Tính. *
Thượng Đế ngự trong ḷng sâu vạn hữu. *
Mọi người đều có một giá trị siêu
việt, đều có sẵn nơi ḿnh những khả năng
vô biên, vô tận, đều có thể tiến hóa vô biên
vô tận. *
Mọi người phải tương ái, tương thân,
v́ đều có cùng một Bản Thể. *
Mọi người phải đem t́nh yêu ban rải
tới chúng sinh, v́ chúng sinh có đồng một bản
thể như ḿnh. *
Phải đi vào Tâm mà t́m Đạo, t́m Trời. *
Làm chính trị, hay lănh đạo dân là phải lo cho dân
ấm no, sung sướng, *
Lănh đạo nhân quần là phải hướng dẫn
nhân quần tới Chân, Thiện, Mỹ. *
Phải biết đoàn kết để giải quyết
mọi nỗi dở dang, chếch mác c̣n có trên đời
này. *
Mục đích của đời sống là sống cao
khiết, kết hợp nhất như với Thượng
đế ngay từ khi c̣n ở gian trần này. * Khi c̣n
ngây thơ, th́ trông vào tha lực, khi đă trưởng
thành, đă giác ngộ, th́ trông vào tự lực. *Lương
tâm là Thiên Thư duy nhất, không nhiễm mầu thời
gian và không gian: Không ai có thể manh tâm sửa đổi
được. Nếu
quả thật con người sinh ra ở cơi đời này
là cốt để thực hiện cái Bản Thể cao
đại của ḿnh, thực hiện một cuộc
sống cá nhân và xă hội lư tưởng, th́ chúng ta
mới t́m ra được một lẽ sống đích
thực cho cá nhân và cho nhân loại. Nếu quả
thật chúng ta sống ở đời cốt là để
thực hiện một cuộc sống lư tưởng cho ḿnh
và cho người, ta sẽ t́m ra ngay những thiếu sót
mà mỗi người chúng ta, mỗi quốc gia, xă
hội đang c̣n mắc phải. Chúng ta c̣n
đói khỗ? c̣n bệnh tật? c̣n lầm than? chúng ta c̣n
ngu si, dốt nát? chúng ta c̣n đầy sân hận? chúng ta
c̣n bị dục vọng dày ṿ? Hoặc xă hội chúng ta
c̣n đang lạc hậu, đang bị bóc lột, đang
bị cùm xiềng? Khi đă t́m
ra căn bệnh rồi, t́m ra thuốc chữa không c̣n
phải là khó. Cái khó là chính v́ chúng ta không chịu suy tư,
không chịu vươn vượt, không chịu đoàn
kết để mà xây dựng tương lai. Nếu chúng
ta không cùng nhau ra tay t́m ra nguyên nhân mọi chếch mác
dở dang, mọi khổ đau của nhân quần,
nếu chúng ta không chịu sửa sai, sửa lỗi, th́
không bao giờ chúng ta có một cuộc sống tiến
bộ, đáng sống. Tin vào
sức mạnh ḿnh, tin vào những khả năng vô biên
tận của con người, tin vào sức mạnh vô biên
của sự đoàn kết, của sự tương kính,
tương thân, con người sẽ tạo cho ḿnh
một đời sống cực lạc, hạnh phúc - cho
ḿnh và cho mọi người- Đó là định
mệnh con người trong tương lai, mai hậu. Và tôi liên
tưởng đến bài thơ Plein Ciel của Victor Hugo:
Thuyền Nhân loại hướng về đâu tá?
Thuyền quang hoa băng ngả thần tiên.
Tiến về mai hậu siêu nhiên,
Tiến về đức hạnh nguyên tuyền tinh
hoa.
Ánh khoa học Trời xa lóng lánh,
Thuyền quang hoa băng cảnh thần tiên,
Tiến về đẹp đẽ tinh tuyền,
Tiến về Thượng giới, về miền muôn
sao. Hiện
đại dùng chữ: Realization of God, Atonement, Self-Realization,
Mysticism. Đạo Huyền Đồng (Thiên Nhân Hợp Phát),
Vô Vi, Non-dualism, Advaita, Non-duality. Realization of
God là Thực Hiện Thượng Đế; Atonement = At
one ment là Đắc Nhất; Self-Realization là
Thực Hiện Đại Ngă Ramakrishna
viết: “Uổng thay, con người đă được
cái may mắn làm người, mà không thực hiện
được Thượng Đế trong kiếp này”
(L’Enseignement de Ramakrishna, p, 5 Triết
học của Đại đạo: Thuyết Thiên
Địa Vạn Vật nhất thể,
hay Thuyết Phóng Phát tán phân (Emanation &Division Theory) Đại
Đạo tiến hóa có chu kỳ: Vạn Vật tuần
hoàn chung nhi phục thủy.- Nhất tán vạn, Vạn Qui
Nhất; Thủy Chung như nhất. Thuyết
Thiên địa vạn vật đồng nhất thể
chủ trương rằng Vũ trụ này là từ
một Bản Thể Duy Nhất sinh xuất ra. C̣n đạo
Huyền Đồng chủ trương vạn sự trong
trời đất này chung qui sẽ phải trở về
với Bản Thể đó. Một đàng th́ đi ra,
một đàng th́ đi vô. Hai chiều ráp lại thành ṿng
Đại Tuần Hoàn của vũ trụ. Thuyết
Thiên địa vạn vật nhất thể là chiều
sinh Nhân, sinh Vật, c̣n Đạo Huyền Đồng là
chiều sinh Thánh, sinh Thần. Chiều đi ra là chiều
xuôi, chiều đi về là chiều ngược. Kinh
Dịch chung qui là dạy con người Chiều Ngược
này, v́ thế nói: Dịch, nghịch số dă. Từ Vô
Cực, Thái cực xuống tới âm Dương, sinh hóa
vạn vật, đó là chiều thuận. Đó là
chiều từ Thái cực ra đến 64 quẻ của
Phục Hi. Đạo gia gọi thế là Giáng Bản Lưu
Mạt. Từ vạn vật, trở ngược về Bản Thể, hay nói cách khác, từ 64 quẻ trở về tứ tượng, âm Dương, Thái cực, gọi là chiều nghịch. Đạo gia gọi thế là từ ngọn trở về gốc, (Tự mạt phản bản). Như vậy, chiều thuận sẽ sinh nhân, sinh vật, chiều nghịch sẽ sinh Thánh, sinh Thần. Hay nói cho
đúng hơn, chiều Thuận là đi từ Thái
Cực, đến âm Dương, Tứ Tượng đến
32 quẻ âm phía trái, tức là từ Cấu, đến
Khôn. C̣n chiều Nghịch là chiều đi từ quẻ
Phục, đến Kiền rồi trở về Thái
Cực. Chính v́
thế mà nơi quẻ Phục có câu: Phục kỳ
kiến Thiên Địa chi tâm hồ? “Con người
biết đàng trở về là khi thấy được
trong ḷng ḿnh có Thiên Địa chi tâm”. Con người
thường đi theo chiều Thuận từ bé đến
khoảng 35 tuổi. Rồi từ 36 đến già sẽ
đi theo chiều nghịch, nếu có duyên may, hiểu
đạo. Con
đường trở về Nho gia gọi là Phản Cung,
hay Phản Thân, tức là quay lưng lại với thế
giới vật chất, và hướng về thế
giới tinh thần, về Thái Cực, Vô Cực. Âu
Châu gọi “hướng ngoại trục vật” là
Extroversion: Gọi “hướng nội hồi Thiên là
Introversion. Gọi “phản quan” hay “nội quan” là
Introspection. Phật giáo gọi Chiều Nghịch là “Nội quan”, hay “Nội quan quán chiếu”. Nh́n sang phía
Trời Âu, ta thấy nhiều triết gia cũng đă
đề cập đến 2 chiều Thuận Nghịch
của cuộc tiến hóa. Hegel mô
tả đại khái như sau: Tinh Thần thoạt kỳ
thủy xuất phát để phá tán vào vạn vật,
rồi qua nhiều thời kỳ văn minh, nhiều
chặng đường lịch sử vất vả,
lại phục hồi được chân thể, về
được với Thượng đế. Các
triết gia Alexandrin và Thomist cũng chủ trương
một ṿng tuần hoàn từ Thượng Đế
xuống, rồi dần dần quay lại. Denis
Areopagites một triết gia và một nhà huyền học
Aẹu Chẩu thế kỷ thứ 5 sau Công Nguyên cũng
chủ trương vũ trụ vận chuyển theo 2
chiều : chiều sinh hóa từ Thượng đế phát
ra, và chiều phản bản qui nguyên, trở về
với Thượng Đế. 1 Gần
đây, Claude Tresmontant cũng viết: “ Có một vấn
đề siêu h́nh thường ám ảnh tư tưởng
Âu Châu : Đó là sơ đồ một ṿng tuần hoàn
từ Nhất sa đọa xuống Vạn, rồi từ
Vạn lại phản hoàn về Nhất.” Hai
chiều Thuận, Nghịch của vũ trụ cũng
dần dà được các khoa học gia xác định.
Chiều
Thuận tức là chiều Dương tiêu, âm trưởng
đă được Carnot Clausius chứng minh. Quan niệm
này được gọi là Nguyên Lư thứ 2 của
Nhiệt Động Học, hay nguyên lư Carnot-Clausius. Nguyên
lư này đại khái như sau: a-. Năng
lực trong vũ trụ có một số lượng
nhất định. b-. Năng
lực có thể phân tách thành hoạt lực, và tiềm
lực. c-. Khi tác dụng hoạt lực sẽ tiêu hao, suy giảm dần và không thể phục hồi nguyên trạng. d-. Rốt
cuộc, hoạt lực sẽ tiêu hao dần và có một
lúc sẽ triệt tiêu. e-. Khi
ấy, tiềm lực sẽ tăng lên đến mức
tối đa (Maximal Entropy), nhưng vô dụng, và thế
giới sẽ tận số trong im ĺm, lạnh lẽo. Mới
đầu các khoa học gia tưởng thế giới
chỉ chuyển động theo một chiều nói trên.
Dần dà, các nhà sinh lư học (biologist) và các nhà sáng
tạo các máy móc tự động (Cybernetician) đă
nhận thấy rằng Nguyên Lư Carnot-Clausius chỉ áp
dụng cho vật chất vô tri, chứ không áp dụng cho
sinh vật, nhất là cho con người. Trong con người
rơ ràng có 2 chiều biến chuyển : -Tiêu
(Catabolism) Chiều thuận. - Tức
(Anabolism) Chiều nghịch.
“Đi
theo chiều thuận, trong th́ bị thất t́nh, lục
dục làm mê muội, ngoài th́ bị trăm điều,
ngh́n việc quấy đảo tâm thần, lấy giả
làm chân, lấy tà làm chính, lấy khổ làm vui, cứ
bị lôi cuốn theo dục vọng, cho đến khi tiêu
hao hết tinh thần. Người đại trí, đại tuệ đi theo chiều nghịch sẽ thoát ṿng kiềm tỏa của các định luật tạo hóa, sẽ không c̣n bị âm dương nung nấu, không c̣n bị vạn vật lôi cuốn, dùng đời để tu đạo, lấy nhân đạo để chu toàn Thiên Đạo. Nghịch
đây là trở về với Tuyệt đối Thể
y như một kẻ bỏ nhà ra đi thật xa xôi, nay
trở lại nhà. Tuy gọi là “Nghịch Hành”, nhưng
thực là đi theo đúng lẽ Trời, đó là “cái
đại thuận” trong cái nghịch. Nghịch đây
bất quá là đi ngược với đường
lối của thế nhân thông thường.” 2 Dịch
kinh trọng chiều nghịch và dạy người quân
tử đi theo chiều nghịch, v́ thế gọi
Dịch là Nghịch Số. Lăo tử
trọng chiều nghịch, v́ thế mới nói Phản
giả đạo chi động. (Đạo
Đức Kinh, chương XL) Các đạo
gia cũng hết sức trọng chiều nghịch. Các ngài
chủ trương cần phải băng qua hào quải
(Hoàn cảnh) trở về Thái Cực, băng qua hiện
tượng trở về Tuyệt đối. Các ngài
chủ trương muôn loài rồi ra cũng trở về
với Tuyệt đối. Các Ngài
chủ trương muôn loài rồi ra cũng trở về
với Thái Cực. 3 Ngộ Chân
trực chỉ có thơ:
Vạn vật vân vân các phản côn,
Phản côn, phục mệnh tức trường
tồn.
Tri thường, phản bản, nhân nan hội,
Vọng tác chiêu hung văng văng văn. Dịch:
Vạn vật rồi ra cũng phản côn,
Phản côn, phục mệnh sẽ trường
tồn.
Tri thường, phản bản người đâu rơ,
Nên mới chiêu hung, sống mỏi ṃn. Lưu
Nhất Minh có thơ:
Huyền quan nhất khiếu thiểu nhân tri,
Hoảng hốt yểu minh hàm lưỡng nghi.
Thuận khứ qui lưu phiền năo lộ,
Nghịch lai tiện thị thánh hiền ki. Dịch:
Huyền quan một khiếu, ít người tri,
Phảng phất mơ màng đủ lưỡng nghi.
Đưa đẩy xuôi ḍng vương khổ năo,
Ngược chiều, hiền thánh tạo căn ki.5 Trên đây
đă: 1.- Minh xác
hai chiều thuận nghịch, cùng ư nghĩa và mục
địch của 2 chiều thuận nghịch. 2.- Đề
cao Chiều Nghịch và nhận chân Chiều Nghịch là
chiều sinh tiên, sinh thánh, sinh thần. Tuy nhiên con
người sinh ra đời không phải lúc nào cũng
theo được chiều nghịch, mà cũng có lúc
phải theo chiều thuận. Theo
thiển ư tôi, một cuộc sống lư tưởng
nhất của con người sẽ gồm cả 2
chiều thuận nghịch. Lúc
tuổi trẻ (1-35), theo chiều Thuận, chiều Hướng
Ngoại, từ tinh thần tiến ra vật chất, ra
ngoại cảnh, ra xă hội để mưu sinh, cải
tạo hoàn cảnh, góp phần xây dựng giang sơn,
đất nước. Nửa đời sau (36-80, 90), khi
đă công thành, danh toại, sẽ đi chiều
nghịch, từ vật chất ngoại cảnh, tiến sâu
về phía tâm linh, để thần thánh hóa bản thân,
phối hợp với Thái Cực. Sách Đạo
Nguyên Tinh Vi Ca cho rằng: Trước
xuống, sau lên hợp tự nhiên.6 Như
vậy, là biết hồi hướng phải thời,
đúng lúc, theo đúng nhẽ tuần hoàn, văng lai,
phản phúc của Dịch Kinh, và của trời đất. Lúc trở
vào nội tâm, lúc đi theo Chiều Nghịch, th́ mọi
sự đều nghịch đảo hết: Cái ǵ xưa
kia cho là quan trọng, nay trở thành tầm thường;
cái ǵ xưa cho là tầm thường nay trở nên quan
trọng. Lúc
ấy, Con người thực tế (le moi empirique; The
empirical self) nhường bước cho con người lư tưởng
(le moi Idéal; The ideal self). Thượng
đế ngoại tại (God without), sẽ trở thành Thượng
đế nội tại (God within). Thượng
đế xưa kia xa cách, nay trở thành thân mật,
gần kề. Người
ngoài trông vào, tưởng ta bỏ thực, cầu hư. Ngược
lại, ta biết chắc ḿnh đă bỏ hư, cầu
thực. Đi theo
chiều thuận, hướng ngoại, hoạt động
bên ngoài là đi theo đời, “đi đời” Đi theo
chiều nghịch, hướng nội, sống một
đời sống tinh thần súc tích bên trong, là đi
theo đạo, “đi đạo”. Bổn
Phận con người: Thực
Hiện Tính Trời. Trở nên
Hoàn Thiện Các nhà huyền học xưa nay đều chủ trương: Trời Đất, vạn vật chẳng qua là thiên h́nh, vạn trạng của 1 Thực Thể duy nhất, của Tuyệt Đối Thể. Tuyệt Đối Thể này là hiện thân của Thượng Đế siêu việt, bất khả tư nghị. Tuyệt đối Thể này mỗi nơi kêu bằng một danh hiệu, hoặc là Đạo, là Chân Tâm, là Thái Cực, là Logos. Tuyệt Đối Thể này là 1 Thực Thể duy nhất bao quát cả hai phương diện Tinh Thần và Vật Chất. L.M. Teilhard de Chardin gọi Tuyệt Đối Thể này là Nguyên Thể Vũ Trụ. Nguyên Thể này có 2 phương diện Vật Chất và Tinh Thần y như chủ trương của Dịch Kinh: Thái Cực sinh Âm Dương. Nhất thể ấy sinh xuất ra quần sinh, quần sinh lại tiến hóa qui hướng về Nhất Thể, Nhất
tiến ra Vạn, rồi Vạn lại qui về Nhất,
theo nhịp điệu thời gian. Cho nên trong Trời Đất
đâu đâu cũng tràn đầy lẽ biến
dịch. Biến dịch theo hai chiều, 2 hướng:
hoặc là phân tán đào thải, hoặc là
kết tụ, súc tích để tiến tới tinh
hoa, trở về Nguyên Bản. Như vậy dưới
những lớp lang biến thiên của vũ trụ, dưới
những h́nh thức biến thiên của Tâm Hồn, c̣n có
1 thực thể viên măn, hằng cửu, viên măn, bất
diệt. Mọi công
cuộc giáo hóa, tu tŕ là cốt chỉ vẽ cho con người
nh́n nhận cho ra được Bản Thể tuyệt
đối, bất diệt và hằng cửu ấy, -Muốn t́m
Tuyệt Đối hằng
cửu, bất diệt phải trở về đáy ḷng. -Muốn t́m
Bồ Đề, Niết Bàn phải t́m nơi tâm
khảm: Đó là Chủ Trương của Thiền Tông -Chu Hi và
Nho gia chủ trương: “Quay
về ta mà t́m Đạo ấy, T́m đáy
ḷng sẽ thấy chẳng sai” (Trung Dung Chương 1,
Chú Thích của Chu Hi) Theo các nhà
huyền học Á Đông th́ vũ trụ và vạn
vật thảy đều biến hóa không ngừng. Cho nên con
người cũng phải luôn biết biến hóa hoàn
cảnh để cho đời sống vật chất
thêm đẹp tươi, Biến hóa
tâm tư, cải thiện đồng loại, để
xă hội ngày thêm công b́nh, ḥa hiệp. Biến hóa
tâm thần để
trở thành Tiên Phật Thánh: Phối Thiên, Phối
Mệnh kết hợp cùng Thượng Đế. Tuyệt
Đối Thể vừa là Căn Nguyên vừa là cùng
đích muôn loài, cho nên muôn loài phải tiến hóa để
tiến dần về Cực Điểm Tinh Hoa ấy. Lăo Tử
viết: “Muôn
loài sinh hóa đa đoan, Rồi
ra cũng phải lai hoàn bản nguyên. Hoàn
Bản Nguyên an nhiên phục Mệnh, Phục
Mệnh rồi trường vĩnh vô cùng. (Đạo
Đức Kinh, chương XVI) Tất
cả lẽ Dịch là “Nhất tán vạn, Vạn qui
Nhất”, phản phúc, văng lai, từ Thái Cực phát
xuất ra Vạn Hữu,
rồi từ Vạn Hữu lại tiến hóa Biến Thiên
để trở về Thái Cực. Thế là “Thiên Địa
tuần hoàn chung nhi phục thủy” . Thế là
“Thủy Chung như Nhất”. Thủy hay
Chung vẫn chỉ là một Thái Cực, khác nhau nguytên
ở 2 thế Ẩn và Hiện, Ẩn lúc ban sơ,
Hiện lúc Chung Cuộc. Giữa Thủy và Chung là lịch
tŕnh biến thiên tiến hóa của Vũ Trụ theo
lẽ Văng Lai, phản phúc, tuần hoàn. Vạn
sự từ trung tâm phát xuất, trước sau cũng
phải trở về Trung Tâm. Trở
về được Trung Tâm là Hoàn Nguyên, Phản
Bản, thành Thánh Thần Tiên Phật, bỏ được
Phàm Tâm, bước lên được b́nh diện Thiên Tâm,
bỏ được Tiểu Tri, Tiểu Kiến, trở
thành những bậc Đại Giác, Đại Ngộ Các
sách viết về Đại Đạo: Vạn
Vật Đồng Nhất Thể (Nguyễn Văn Thọ) Mysticism
của Everlyn Underhill Mysticism
của F. C. Happold The
Eye of the I, của David R. Hawkins The
Collected Work of Ken Weber Conversations
with God của Neale Donald
Walsch Sri
Nisargadatta Maharaj, I am That Meister
Eckhat, from whom God hid Nothing, by David Steindl-Rast, O.S.B |
Thiên-Lư Bửu-Ṭa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674 Website: www.thienlybuutoa.org Email Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT
|