Trở lại trang chánh của Website Thiên Lư Bửu Ṭa

 

L̉NG BAO DUNG TAM GIÁO CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

TRONG LỊCH SỬ [1]

LÊ ANH DŨNG

Đây là Chương IV, quyển CON ĐƯỜNG TAM GIÁO VIỆT NAM TỪ KHỞI NGUYÊN ĐẾN THẾ KỶ XIX. Xuất bản ở Việt Nam năm 1994. LC control Number: 94945152. Trọn tác phẩm này sẽ lần lượt được giới thiệu trên Thiên Lư Bửu Toà.

Từ những thế kỷ I, II, ba nền tôn giáo Nho, Thích, Lăo đă sớm được nhân dân Việt Nam tiếp nhận và dung nạp.

Các thế kỷ X, XI, XII với các triều đại Đinh, Lê, Lư, Trần đă đánh dấu một thời kỳ độc lập, tự chủ lâu dài của dân tộc, mở ra một thời kỳ hào hùng vừa giữ nước vừa dựng nước. Hoàn cảnh lịch sử khách quan đ̣i hỏi giới quân sự phải biết trọng dụng trí thức. Giới Nho sĩ thời ấy chưa h́nh thành, phải đợi đến triều Hậu Lê mới phát triển cực thịnh. Thậm chí, trong những buổi đầu của đất nước vừa giành được độc lập, trường tư của các cụ đồ có lẽ cũng không có, nhiều người học chữ với các sư tại các chùa. Các sư v́ muốn đọc được kinh Phật phải học chữ Nho, mà học chữ Nho th́ thông qua kinh sách đạo Khổng. Cho nên không lấy làm lạ là các sư cũng giỏi cả Nho học, nhiều sư tinh thông cả Dịch học của Nho, khoa địa lư phong thủy của Lăo (thí dụ như Thiền sư Vạn Hạnh). Tóm lại, tầng lớp trí thức thời xưa tập trung chủ yếu là giới tu hành, vừa tăng, vừa đạo sĩ.

Các nhà tu hành trí thức này có ư thức quốc gia, có ḷng yêu nước trong sáng, học vấn uyên bác về cả giáo lư của đạo ḿnh mà c̣n hiểu được kinh điển của đạo khác, nên có một tinh thần đại đồng, không bị h́nh thức sắc tướng làm mê chấp, do đó các vị ấy đă sớm biết đoàn kết, đứng chung dưới ngọn cờ dân tộc để phù trợ chặt chẽ cho chính sách, đường lối của triều đ́nh, cả về đối nội lẫn đối ngoại.

Qua bốn triều đại tiêu biểu là Đinh, Lê, Lư, Trần, hoàn cảnh lịch sử đă làm cho Việt Nam trở thành mảnh đất tốt để Tam giáo lớn mạnh trong ḷng bao dung của người Việt.

Các vua Đinh Tiên hoàng (968-979), Lê Đại hành (980-1005), Lư Thái tổ (1010-1028), v.v... đă chọn các đại sư, đạo sĩ vào triều đ́nh làm cố vấn. Năm 971, vua Đinh Tiên hoàng phong Khuông Việt Đại sư Ngô Chân Lưu làm Tăng thống, phong Thiền sư Đặng Huyền Quang làm Sùng chân Uy nghi, phong Đạo sĩ Trương Ma Ni làm Tăng lục Đạo sĩ. Vua Lư Thái tổ dựng chùa Vạn tuế, cất cung Thái thanh ngay tại kinh thành Thăng Long.[2] Vua Lư Thái tổ c̣n tôn Thiền sư Vạn Hạnh lên làm Quốc sư. Vua Lư Nhân tông (1027-1127) đi đâu cũng hay kề cận Thiền sư Giác Hải và Đạo sĩ Thông Huyền. Vua có lần thử tài hai vị, rất khâm phục nên làm thơ khen tặng rằng:

Giác Hải tâm như hải

Thông Huyền đạo hựu huyền

Thần thông kiêm biến hóa

Nhất Phật, nhất Thần tiên.[3]

(Giác Hải ḷng như biển

Thông Huyền đạo pháp lại càng huyền diệu

Đều giỏi thần thông biến hóa

Một vị là Phật, một vị là Thần tiên.)

Trong buổi đầu rực rỡ của lịch sử dân tộc, các vua c̣n có quyết định tuyển chọn nhân tài giúp nước thông qua hai kỳ thi về Tam giáo. Lần thứ nhất mở năm 1195, triều Lư Cao tông. Lần thứ hai mở năm 1247, triều Trần Thái tông.

Với tinh thần khoáng đạt, các nhà sư khi cố vấn hoặc gián nghị các vua đều không câu chấp, lúc th́ vận dụng Lăo, khi trưng dẫn Nho để thuyết phục.

Pháp sư Đỗ Pháp Thuận (915-990) đă được Vua Lê Đại hành hỏi về vận nước, Ngài khuyên Vua dùng đường lối vô vi của đạo Lăo:

Quốc tộ như đằng lạc

Nam thiên lư thái b́nh

Vô vi cư điện các

Xứ xứ tức đao binh.[4]

(Đất nước như dây leo rối rắm

Nay trời Nam đă hưởng thái b́nh

Dùng đường lối vô vi nơi triều đ́nh

Xứ xứ đều sẽ dứt cảnh đao binh.)

Năm 1130, khi vào điện Sùng khai, Thiền sư Viên Thông (1080-1151) đă mượn tư tưởng Kinh Dịch tâu với vua Lư Thần tông (1128-1138) về cái lẽ hưng vong, đắc thất của một nước. Sau khi nhấn mạnh rằng một nước hưng thịnh hay suy vong không phải tự nhiên một sớm một chiều, Sư kết luận:

“Các bậc thánh vương đời trước đều biết như thế nên đều bắt chước trời, không ngừng trau đức để sửa ḿnh; bắt chước đất, không ngừng trau đức để yên dân. Sửa ḿnh th́ cẩn thận ở trong ḷng, run sợ như đi trên băng mỏng. Yên dân th́ yêu mến người dưới, hăi hùng như cỡi ngựa nắm dây cương sờn.” [5]

Năm 1202, Thiền sư Nguyễn Thường, là Tăng phó, khuyên can vua Lư Cao tông:

“Tôi nghe bài Tựa Kinh Thi có nói: Âm nhạc của nước loạn nghe ai oán v́ giận chính sự nước ấy sai trái. Âm nhạc của nước mất nghe bi thảm v́ xót dân nước ấy khốn cùng.

“Nay Chúa thượng rong chơi vô độ, chính giáo sai ĺa, dân chúng buồn khổ. Đến nay càng tệ. Thế mà ngày ngày lại nghe âm nhạc ai oán, đó chẳng phải là điềm nước mất, nước loạn hay sao?” [6]

Một số sự kiện lịch sử như trên cho thấy trong buổi đầu, Tam giáo được giao ḥa trên nước Việt trong ḷng bao dung của người Việt, chính đây là sự manh nha của tư tưởng Tam giáo đồng nguyên.

LÊ ANH DŨNG

CHÚ THÍCH

[1] Chương V đă in trong tập san Văn hóa & đời sống, chủ đề Cái thiện cái ác. Nxb Tp.HCM, tháng 9-1992.

[2] Lê Quư Đôn toàn tập. Tập II: Kiến văn tiểu lục. Hà Nội: Nxb Khoa học Xă hội, 1977, tr. 368, 387. Trần Văn Giáp, Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến thế kỷ XIII. Tuệ Sỹ dịch. Sài G̣n: Viện đại học Vạn Hạnh, 1968, tr. 151, 153.

[3] Thơ văn Lư – Trần. Tập I. Hà Nội: Nxb Khoa học Xă hội, 1977, tr. 434,435.

[4] Thơ văn Lư – Trần. Tập I, tr. 204.

[5] Thơ văn Lư – Trần. Tập I, tr. 142. Huệ Chi dịch.

[6] Thơ văn Lư – Trần. Tập I, tr. 528. Phạm Tú Châu dịch.

HẾT CHƯƠNG IV

Cùng một tác giả Lê Anh Dũng

Đôi ḍng sơ lược về tác giả Lê Anh Dũng

 

Thiên-Lư Bửu-Ṭa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674

Website: www.thienlybuutoa.org     Email    Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT

Thông bạch in Kinh