Trở lại trang chánh của Website Thiên Lư Bửu Ṭa
|
L̉NG BAO DUNG TAM GIÁO CỦA DÂN TỘC VIỆT
NAM TRONG LỊCH SỬ
[1] LÊ ANH DŨNG
Từ
những thế kỷ I, II, ba nền tôn giáo Nho, Thích, Lăo
đă sớm được nhân dân Việt Nam tiếp
nhận và dung nạp. Các
thế kỷ X, XI, XII với các triều đại Đinh,
Lê, Lư, Trần đă đánh dấu một thời kỳ
độc lập, tự chủ lâu dài của dân tộc,
mở ra một thời kỳ hào hùng vừa giữ nước
vừa dựng nước. Hoàn cảnh lịch sử khách
quan đ̣i hỏi giới quân sự phải biết
trọng dụng trí thức. Giới Nho sĩ thời
ấy chưa h́nh thành, phải đợi đến
triều Hậu Lê mới phát triển cực thịnh.
Thậm chí, trong những buổi đầu của đất
nước vừa giành được độc lập,
trường tư của các cụ đồ có lẽ cũng
không có, nhiều người học chữ với các sư
tại các chùa. Các sư v́ muốn đọc được
kinh Phật phải học chữ Nho, mà học chữ Nho
th́ thông qua kinh sách đạo Khổng. Cho nên không lấy
làm lạ là các sư cũng giỏi cả Nho học,
nhiều sư tinh thông cả Dịch học của Nho,
khoa địa lư phong thủy của Lăo (thí dụ như
Thiền sư Vạn Hạnh). Tóm lại, tầng lớp
trí thức thời xưa tập trung chủ yếu là
giới tu hành, vừa tăng, vừa đạo sĩ. Các
nhà tu hành trí thức này có ư thức quốc gia, có ḷng yêu
nước trong sáng, học vấn uyên bác về cả giáo
lư của đạo ḿnh mà c̣n hiểu được kinh
điển của đạo khác, nên có một tinh
thần đại đồng, không bị h́nh thức
sắc tướng làm mê chấp, do đó các vị
ấy đă sớm biết đoàn kết, đứng
chung dưới ngọn cờ dân tộc để phù
trợ chặt chẽ cho chính sách, đường lối
của triều đ́nh, cả về đối nội
lẫn đối ngoại. Qua
bốn triều đại tiêu biểu là Đinh, Lê, Lư,
Trần, hoàn cảnh lịch sử đă làm cho Việt
Nam trở thành mảnh đất tốt để Tam giáo
lớn mạnh trong ḷng bao dung của người Việt. Các
vua Đinh Tiên hoàng (968-979), Lê Đại hành (980-1005), Lư
Thái tổ (1010-1028), v.v... đă chọn các đại sư,
đạo sĩ vào triều đ́nh làm cố vấn. Năm
971, vua Đinh Tiên hoàng phong Khuông Việt Đại sư
Ngô Chân Lưu làm Tăng thống, phong Thiền sư Đặng
Huyền Quang làm Sùng chân Uy nghi, phong Đạo sĩ Trương
Ma Ni làm Tăng lục Đạo sĩ. Vua Lư Thái tổ
dựng chùa Vạn tuế, cất cung Thái thanh ngay tại
kinh thành Thăng Long.[2] Vua Lư Thái tổ c̣n tôn Thiền sư
Vạn Hạnh lên làm Quốc sư. Vua Lư Nhân tông
(1027-1127) đi đâu cũng hay kề cận Thiền sư
Giác Hải và Đạo sĩ Thông Huyền. Vua có lần
thử tài hai vị, rất khâm phục nên làm thơ khen
tặng rằng: Giác Hải tâm như
hải Thông Huyền đạo
hựu huyền Thần thông kiêm biến hóa Nhất Phật, nhất
Thần tiên.[3] (Giác
Hải ḷng như biển Thông
Huyền đạo pháp lại càng huyền diệu Đều
giỏi thần thông biến hóa Một
vị là Phật, một vị là Thần tiên.) Trong
buổi đầu rực rỡ của lịch sử dân
tộc, các vua c̣n có quyết định tuyển chọn
nhân tài giúp nước thông qua hai kỳ thi về Tam giáo.
Lần thứ nhất mở năm 1195, triều Lư Cao tông.
Lần thứ hai mở năm 1247, triều Trần Thái tông. Với
tinh thần khoáng đạt, các nhà sư khi cố vấn
hoặc gián nghị các vua đều không câu chấp, lúc
th́ vận dụng Lăo, khi trưng dẫn Nho để
thuyết phục. Pháp
sư Đỗ Pháp Thuận (915-990) đă được
Vua Lê Đại hành hỏi về vận nước, Ngài
khuyên Vua dùng đường lối vô vi của đạo
Lăo: Quốc tộ như
đằng lạc Nam thiên lư thái b́nh Vô vi cư điện các Xứ xứ tức đao
binh.[4] (Đất nước như dây leo
rối rắm Nay
trời Nam đă hưởng thái b́nh Dùng
đường lối vô vi nơi triều đ́nh Xứ
xứ đều sẽ dứt cảnh đao binh.) Năm
1130, khi vào điện Sùng khai, Thiền sư Viên Thông
(1080-1151) đă mượn tư tưởng Kinh
Dịch tâu với vua Lư Thần tông (1128-1138) về cái
lẽ hưng vong, đắc thất của một nước.
Sau khi nhấn mạnh rằng một nước hưng
thịnh hay suy vong không phải tự nhiên một sớm
một chiều, Sư kết luận: “Các
bậc thánh vương đời trước đều
biết như thế nên đều bắt chước
trời, không ngừng trau đức
để sửa ḿnh; bắt chước đất, không
ngừng trau đức để yên dân. Sửa ḿnh th́
cẩn thận ở trong ḷng, run sợ như đi trên băng
mỏng. Yên dân th́ yêu mến người dưới, hăi
hùng như cỡi ngựa nắm dây cương sờn.”
[5] Năm
1202, Thiền sư Nguyễn Thường, là Tăng phó,
khuyên can vua Lư Cao tông: “Tôi
nghe bài Tựa Kinh Thi có nói: Âm nhạc của nước
loạn nghe ai oán v́ giận chính
sự nước ấy sai trái. Âm nhạc của nước
mất nghe bi thảm v́ xót dân nước ấy khốn cùng. “Nay
Chúa thượng rong chơi vô độ, chính giáo sai ĺa,
dân chúng buồn khổ. Đến nay
càng tệ. Thế mà ngày ngày lại nghe âm nhạc ai oán,
đó chẳng phải là điềm nước mất, nước
loạn hay sao?” [6] Một
số sự kiện lịch sử như trên cho thấy
trong buổi đầu, Tam giáo được giao ḥa trên
nước Việt trong ḷng bao dung của người
Việt, chính đây là sự manh nha của tư tưởng
Tam giáo đồng nguyên. LÊ
ANH DŨNG CHÚ
THÍCH [1]
Chương V đă in trong tập san Văn
hóa & đời sống, chủ đề Cái
thiện cái ác. Nxb Tp.HCM,
tháng 9-1992. [2]
Lê Quư Đôn toàn tập.
Tập II: Kiến văn
tiểu lục. Hà Nội: Nxb Khoa học Xă hội,
1977, tr. 368, 387.
Trần Văn Giáp, Phật giáo Việt Nam từ khởi
nguyên đến thế kỷ XIII. Tuệ Sỹ
dịch. Sài
G̣n: Viện đại học Vạn Hạnh, 1968, tr. 151,
153. [3] Thơ văn Lư – Trần. Tập I. Hà Nội: Nxb Khoa học Xă hội, 1977, tr. 434,435. [4] Thơ văn Lư – Trần. Tập I, tr. 204. [5] Thơ văn Lư – Trần. Tập I, tr. 142. Huệ Chi dịch. [6]
Thơ văn Lư – Trần.
Tập I, tr. 528. Phạm Tú Châu dịch. HẾT CHƯƠNG
IV |
Thiên-Lư Bửu-Ṭa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674 Website: www.thienlybuutoa.org Email Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT
|