T̀M HIỂU KINH CAO ĐÀI |
GIẢI
NGHĨA KINH VÀO HỌC |
Lê Anh Dũng
KINH VÀO HỌC
(Giọng
nam xuân)
Đại từ phụ xin thương khai khiếu,
Giúp trẻ thơ học hiểu văn từ.
Gần điều nên, lánh lẽ hư,
4. Nương gươm thần
huệ đặng trừ nghiệt căn.
Ḍ đường thánh khó khăn chẳng nại,
Tùng Khuôn hồng nhỏ dại lớn khôn.
Buộc yêu thương bạn đồng môn,
8. Nghĩa nhân vẹn giữ
xác hồn trăm năm.
Nguyện tam cang ǵn tâm trọn đạo,
Nguyện ngũ thường hiếu thảo làm khuôn.
Nguyện nên hương hỏa tông đường,
12. Nguyện thương lê
thứ trong trường công danh.
Cầu khẩn đấng chơn linh nhập thể,
Đủ thông minh học lễ học văn.
May duyên gặp hội Long vân,
16. Thuyền thơ ngọn
gió các Đằng xuôi đưa.
Nam mô Cao Đài Tiên ông Đại bồ Tát Ma ha tát
(niệm 1 lần)
GIẢI NGHĨA
1. Kinh vào học được đọc trước khi bắt đầu một buổi
học trong Đạo. Giảng viên và các học viên đứng ngay ngắn, chắp tay đặt trước
ngực.
2. Giọng nam xuân: Giọng đọc kinh theo làn điệu nhạc lễ
truyền thống của dân tộc, nhịp hơi nhanh, biểu thị nét vui tươi, ḷng thơ thới.
(C̣n một giọng khác là nam ai, nhịp chậm, biểu thị nét buồn thảm, bi ai. Kinh
đọc trong đám tang đều theo giọng nam ai.)
Câu 1-2:
Đại từ phụ xin thương khai khiếu,
Giúp trẻ thơ học hiểu văn từ.
1. Đại từ phụ:
người cha rất hiền, rất thương con. Tức
là đức Chí tôn, đức Cao Đài, Đức Ngọc Hoàng Thượng đế.
2. khai khiếu:
a.
khiếu:
khả năng
đặc biệt, năng lực về phương diện tinh thần. Thí dụ: khiếu thẩm mỹ (biết thưởng
thức nghệ thuật hoặc biết sáng tạo nghệ thuật), khiếu văn chương (biết thưởng
thức văn chương hoặc biết làm thơ, viết văn).
b.
khai khiếu:
mở trí
thông minh, làm cho tâm trí sáng suốt.
3. trẻ thơ:
con trẻ c̣n khờ dại. Khi vào cửa Đạo,
một người dù tuổi đời 70, 80 hay hơn nữa, th́ trước đức Chí tôn (đấng Cha Trời)
hay đức Phật mẫu (đức Mẹ) cũng chỉ là đứa con ngây thơ trẻ dại.
4. văn từ: văn chương, chữ nghĩa. Tức là lời
kinh, thánh ngôn thánh giáo có trong bài học; kể luôn cả lời văn, lời nói của
giảng viên lúc giảng bài.
Đại ư câu 1-2:
Cầu xin Đại từ phụ (Thượng đế) thương chúng con, mở trí thông minh cho chúng con
có đầy đủ sáng suốt, học hiểu được hết những lời văn, chữ nghĩa diễn bày đạo lư.
Câu 3-4:
Gần điều nên, lánh lẽ hư,
Nương gươm thần huệ đặng trừ nghiệt căn.
1. điều nên: điều phải, điều hợp với đạo đức.
2. lánh: xa lánh.
3. lẽ hư: điều xấu xa, sai trái, không hợp với
đạo đức.
4. nương: dựa vào, nhờ cậy vào.
5. gươm thần huệ:
a.
thần huệ:
trí huệ
thần diệu (nhiệm mầu). Sự sáng suốt mầu nhiệm, nhờ đó con người biết phân biệt
để bỏ điều sai lầm mà làm theo điều chân chính.
b.
gươm thần huệ:
gươm trí
huệ thần diệu. Con người muốn khỏi đau khổ, phiền năo phải dùng trí huệ thần
diệu suy xét các nguyên nhân tạo ra năo phiền, đau khổ và rồi cương quyết cắt
đứt mọi sự ràng buộc, mọi mối liên hệ với chúng. Do đó, trí huệ thần diệu được
ví như thanh gươm sắc bén. Truyện thơ dân gian Việt Nam Quan Âm Thị Kính có câu:
Này
gươm trí huệ mài đây,
Bao
nhiêu phiền năo cắt ngay cho rồi.
6. đặng trừ: để trừ bỏ được, để tiêu diệt được.
7. nghiệt căn: mầm mống xui khiến con người tạo ra
tội ác.
Đại ư câu 3-4:
Chúng con xin gần gũi điều tốt lành, xa lánh điều xấu xa. Chúng con xin nương
nhờ vào sức mạnh trí huệ của chúng con, lấy nó làm gươm bén để chặt đứt mọi mầm
mống gây tạo ra tội ác.
Câu 5-6:
Ḍ đường thánh khó khăn chẳng nại,
Tùng Khuôn hồng nhỏ dại lớn khôn.
1. ḍ: ḍ dẫm, lần bước đi từ từ để
t́m hiểu, học hỏi.
2. đường thánh:
con đường trau dồi phẩm hạnh để con người trần tục trở nên thanh cao như các vị
thánh hiền. Giáo lư Cao Đài dạy người đời tu học cho nên bậc thánh hiền, tiên
phật; do đó đường thánh cũng có nghĩa đường lối tu hành theo giáo lư Cao Đài.
3. khó khăn chẳng nại:
chẳng v́ khó khăn mà ngại, e sợ.
4. tùng:
noi theo, đi theo.
5. Khuôn hồng:
a. hồng:
to lớn. Thí dụ: hồng ân là ơn to tát
(của đức Chí tôn ban cho).
b. khuôn:
cái khuôn đúc ra đồ vật. Từ Hán-Việt
gọi là quân.
c. Khuôn hồng: Hồng quân.
Cái khuôn lớn đúc ra con người
và muôn vật trong vũ trụ này; tức là Trời, Thượng đế. (Khuôn thiêng cũng
đồng nghĩa.)
6. nhỏ dại lớn khôn:
a. từ lúc
c̣n nhỏ dại cho đến khi khôn lớn;
b. từ đàn
em em nhỏ dại cho đến bậc đàn anh đàn chị đă khôn lớn.
Đại ư câu 5-6:
Chúng con dù là đàn em nhỏ dại hay bậc
anh chị khôn lớn cũng đều nguyện noi theo đức Chí tôn, lần bước theo đường lối
tu học của đạo Cao Đài, không sợ khó khăn trở ngại.
Câu 7-8:
Buộc yêu thương bạn đồng môn,
Nghĩa nhân vẹn giữ
xác hồn trăm năm.
1. buộc: phải, bắt buộc.
2. bạn đồng môn: bạn cùng học một Thầy, một Đạo.
3. nghĩa: cách sống hợp lẽ phải, đạo đức. Thí
dụ: nghĩa thầy tṛ, nghĩa vợ chồng.
4. nhân: ḷng thương người, thương vật.
5. vẹn giữ: giữ ǵn cho trọn vẹn.
6. xác hồn trăm năm: suốt cả cuộc đời, từ lúc sống cho tới
ngày chết.
Đại ư câu 7-8:
Chúng con bắt buộc phải thương yêu bạn đồng đạo, suốt cuộc đời xin giữ tṛn vẹn
cách sống nhân nghĩa (thương người thương vật, cư xử đúng lẽ phải).
Câu 9-10:
Nguyện tam cang ǵn tâm trọn đạo,
Nguyện ngũ thường
hiếu thảo làm khuôn.
1. nguyện: tự nhủ, tự cam kết sẽ làm đúng những
điều mà bản thân coi là thiêng liêng.
2. tam cang: tam cương. Ba giềng mối, ba mối quan
hệ:
a. quân thần cang:
xưa là quan hệ vua (quân) và tôi
(thần); nay là quan hệ công dân và Nhà nước. Tức là dân phải trung với nước.
b. phụ tử cang:
quan hệ cha (mẹ) và con cái. Tức là con
hải hiếu với cha mẹ.
c. phu thê cang:
quan hệ chồng (phu) và vợ (thê). Tức là
chồng vợ phải thương yêu nhau, tôn trọng nhau, chung thủy với nhau.
Tam cang là căn bản đạo làm người,
trung thành với Tổ quốc, hiếu thảo với cha mẹ, thương yêu, tôn trọng người bạn
đời của ḿnh (vợ
hay chồng).
3. ǵn tâm trọn đạo: giữ ḷng chân chánh để thực thi trọn
vẹn đạo lư ở đời.
4. ngũ thường: năm hằng. Năm đức tính mà con người
phải luôn luôn có:
a.
nhân; b. nghĩa:
xem giải
thích câu kinh 4.
c. lễ:
sự trang
nghiêm, khuôn phép, đứng đắn trong tư tưởng và hành vi. Thí dụ: ăn nói tục tằn
là trái lễ; xem những h́nh ảnh, sách vở thô tục là trái lễ...
d.
trí:
sáng
suốt, biết phân biệt phải trái, biết lúc nào tiến lúc nào lui. Thí dụ: Ông
Trương Lương sau khi giúp Lưu Bang lập nên nhà Hán, đă từ quan v́ biết Lưu Bang
ḷng dạ không chung thủy, sẽ giết hại công thần. Nhờ có trí nên Trương Lương
thoát nạn. C̣n Hàn Tín ở lại làm quan to, sau bị Lưu Bang lập mưu giết đi. Hàn
Tín v́ thế bị chê là thiếu trí.
e.
tín:
đối với
bản thân th́ tự tin ở ḿnh; đối xử với người khác th́ không dối trá, lừa gạt;
đối với các đấng Thiêng liêng th́ làm đúng những ǵ đă nguyện hứa.
5. hiếu thảo: thương kính, nhớ ơn và biết phụng
dưỡng cha mẹ.
6. làm khuôn: làm thành khuôn phép, quy củ để noi
theo.
7. hiếu thảo làm khuôn: Người xưa bảo “Nhân sinh bách
hạnh, hiếu vi tiên.” Nghĩa là người đời có trăm đức hạnh th́ đứng đầu là hiếu.
Do đó, tuy câu kinh nói rộng ra gồm các đức hạnh như tam cương, ngũ thường nhưng
căn bản vẫn lấy đạo hiếu làm khuôn phép.
Đại ư câu 9-10:
Chúng con nguyện giữ ḷng chân chánh, sống trung hiếu, thủy chung, sao cho nên
người có đủ nhân, nghĩa, lễ, trí, tín mà hiếu thảo là khuôn phép căn bản.
Câu 11-12:
Nguyện nên hương hỏa
tông đường,
Nguyện thương lê thứ trong trường công
danh.
1. hương
hỏa:
nhang và đèn (lửa). Tức là việc thờ cúng tổ tiên.
2. tông
đường:
nhà thờ tổ tiên.
3. lê
thứ:
dân chúng.
4. trường
công danh:
môi trường làm việc có danh vọng, quyền chức ở đời.
Đại ư câu 11-12:
Chúng con nguyện rằng nơi gia đ́nh th́ giữ trọn đạo hiếu, tôn kính phụng thờ tổ
tiên. Ra xă hội, nếu chúng con có quyền chức th́ xin nguyện thương yêu phục vụ
dân chúng.
Câu 13-14:
Cầu khẩn đấng chơn
linh nhập thể,
Đủ thông minh học lễ học văn.
1. cầu
khẩn:
thiết tha cầu xin.
2. nhập thể: nhập vào thể xác. (Nhưng trong câu
kinh này cần hiểu thoát ư. Xem chú giải 3 bên dưới.)
3. đấng chơn linh: Trong Thánh ngôn hiệp tuyển
(quyển II, 1966, tr. 66), đức Chí tôn dạy: “Thầy đă nói rằng nơi thân phàm
các con, mỗi đứa Thầy đều cho một chơn linh ǵn giữ cái chơn mạng sanh tồn. Thầy
tưởng chẳng cần nói, các con cũng hiểu rơ rằng đấng chơn linh ấy vốn vô tư, mà
lại đặng phép giao thông cùng cả chư thần thánh, tiên phật và các đấng trọn lành
nơi Ngọc Hư cung.” Chơn linh ấy cũng chính là lương tâm, tánh trời tự nhiên
của mỗi người. Khi con người gây ra lỗi lầm đó là lúc tánh phàm lấn lướt tánh
trời, che lấp lương tâm, làm cho con người trở nên mê muội, tối tăm. Vậy cầu
khẩn đấng chơn linh nhập thể không có nghĩa là cầu đấng chơn linh ở ngoài
thân nhập vào trong thân xác; câu kinh có nghĩa thúc giục phần tánh trời trổi
dậy chế ngự tánh phàm, để con người trở nên sáng suốt, thông minh.
3. học lễ học văn: Truyền thống dân tộc có câu Tiên
học lễ, hậu học văn, hoặc Có học phải có hạnh. Văn (kiến thức, học
vấn, tài năng) phải đặt trên nền tảng lễ (đạo đức, hạnh kiểm), có như vậy mới
biết đem tài giúp đời, giúp đạo. Người tài càng cao mà thiếu đức th́ gây hại cho
đời cho đạo càng nghiêm trọng. V́ thế nền giáo dục Cao Đài coi trọng cả đức dục
(lễ) lẫn trí dục (văn).
Đại ư câu 13-14:
Chúng con tha thiết cầu xin cho phần chơn linh sáng suốt sẵn có trong thân trợ
giúp chúng con phát huy trí thông minh để học hỏi, trau dồi cả về đức lẫn tài.
Câu 15-16:
May duyên gặp hội
Long vân,
Thuyền thơ ngọn gió các Đằng xuôi đưa.
1. may duyên: gặp cơ hội tốt, thuận lợi.
2. hội Long vân: hội Rồng mây. Có câu Rồng gặp mây, cá
gặp nước; ư nói người tài đức gặp cơ hội thuận tiện, được Nhà nước tin dùng, có
thể thi thố tài đức ra giúp đời, giúp đạo.
3. thuyền thơ: con thuyền chở sách vở (thư, thơ); ư
nói thuyền của người học tṛ.
4. các Đằng: gác Đằng, tên đầy đủ là Đằng vương
các.
5. Thuyền thơ ngọn gió các Đằng xuôi đưa:
Ngọn gió đưa con thuyền của người học tṛ đến thẳng Đằng vương các. Nhà thơ Tô
Đông Pha (đời Tống, Trung Hoa) có câu Thời lai phong tống Đằng vương các,
nghĩa là khi thời vận tới, gió thổi thuyền tới gác Đằng vương, ngụ ư kẻ có tài
gặp cơ hội thuận lợi th́ thành công lẫy lừng.
ĐIỂN TÍCH:
Gác Đằng vương dựng ở đất Hàng Châu (Trung Hoa) để ghi nhớ công trận của Lư
Nguyên Anh (được phong tước Đằng vương). Sang đời Đường, Vương Bột 14 tuổi, vượt
biển thăm cha làm thứ sử Giao Châu (Việt Nam), t́nh cờ một trận gió lớn thổi bạt
thuyền đến gác Đằng vương. Nơi đây đang tổ chức tranh tài thi phú, Vương Bột
liền làm ngay hai bài thơ xuất thần, chinh phục mọi người, lưu danh thiên cổ.
Cũng nhờ thế Vương Bột lại được tiến cử lên vua, hưởng vinh hoa phú quư.
Đại ư câu 15-16:
Chúng con cầu xin gặp được cơ hội thuận lợi, để đem tài học ra thi thố giúp đời,
giúp Đạo được thành công lừng lẫy.
TÓM TẮT ĐẠI Ư TOÀN BÀI KINH VÀO HỌC
Cầu xin Đại từ phụ (Thượng đế) thương chúng con, mở
trí thông minh cho chúng con có đầy đủ sáng suốt, học hiểu được hết những lời
văn, chữ nghĩa diễn bày đạo lư.
Chúng con xin gần gũi điều tốt lành, xa lánh điều
xấu xa. Chúng con xin nương nhờ vào sức mạnh trí huệ của chúng con, lấy nó làm
gươm bén để chặt đứt mọi mầm mống gây tạo ra tội ác.
Chúng con dù là đàn em nhỏ dại hay bậc anh chị khôn lớn cũng đều nguyện noi theo
đức Chí tôn, lần bước theo đường lối tu học của đạo Cao Đài, không sợ khó khăn
trở ngại.
Chúng con bắt buộc phải thương yêu bạn đồng đạo,
suốt cuộc đời xin giữ tṛn vẹn cách sống nhân nghĩa (thương người thương vật, cư
xử đúng lẽ phải).
Chúng con nguyện giữ ḷng chân chánh, sống trung
hiếu, thủy chung, sao cho nên người có đủ nhân, nghĩa, lễ, trí, tín mà hiếu thảo
là khuôn phép căn bản.
Chúng con nguyện rằng nơi gia đ́nh th́ giữ trọn đạo
hiếu, tôn kính phụng thờ tổ tiên. Ra xă hội, nếu chúng con có quyền chức th́ xin
nguyện thương yêu phục vụ dân chúng.
Chúng con tha thiết cầu xin cho phần chơn linh sáng
suốt sẵn có trong thân trợ giúp chúng con phát huy trí thông minh để học hỏi,
trau dồi cả về đức lẫn tài.
Chúng con cầu xin gặp được cơ
hội thuận lợi, để đem tài học ra thi thố giúp đời, giúp Đạo được thành công lừng
lẫy.
CHỦ ĐỀ TƯ TƯỞNG CỦA BÀI KINH VÀO HỌC
Bài kinh này
ngoài tác dụng vô vi (siêu h́nh) là cầu xin Ơn Trên giúp sức, mở trí cho người
học đạo lại c̣n có giá trị về luân lư theo nhân đạo Nho giáo. Mỗi khi tụng đọc
bài kinh, ấy là lúc người đi học tự nhắc nhở ḿnh phải giữ ǵn đạo làm người:
đối với nước, với đồng bào, với gia đ́nh tổ tiên, với vợ chồng, với bạn bè.
Bài kinh dạy
cho người đi học một bài luân lư rằng có học, có tài phải có hạnh đức. Đă thọ ơn
Trời mà học hành giỏi giắn th́ phải biết đem tài học ấy ra giúp đời, giúp dân,
giúp nước, giúp Đạo.
Hiểu sâu ư
nghĩa bài kinh, người tín đồ Cao Đài biết xa thêm rằng không phải chỉ tụng kinh
này khi học giáo lư nơi cửa Đạo, mà ngay cả trên con đường học hành ở ngoài đời,
vẫn có thể tụng kinh này, với ư hướng cao thượng là học cho thành tài không phải
để vinh thân ph́ gia, mưu cầu lợi ích riêng tư, mà học để giỏi giang, có đủ đức
tài tâm hạnh đem ra phụng sự đời và Đạo.
Lê Anh Dũng
Cùng
một tác giả Lê Anh Dũng
Đôi
ḍng sơ lược về tác giả Lê Anh Dũng
|