6.-
THÁN CUỘC ÐỜI
__________
THI:
Thương
đời rán sức lập nên Kinh,
Muôn
thuở còn lưu lại thế tình,
Chẳng
nệ sức già lo thỉnh rước,
Ðàn
tiền chư sĩ rán thành minh.
* * *
KHƯƠNG-THÁI-CÔNG
Chư
thiên phong nam nữ cùng quí em:
Phải biết không mấy khi mà Hội
Quần-Tiên ra KINH THÁNH-ÐỨC để cứu độ chúng
sanh thoát khỏi vòng sông mê biển khổ.
Từ xưa đến nay chưa hề có ngày
nào đặng vậy!
Nếu chư hiền thành tâm cho đến
cùng, kết thành Kinh báu công đức vô ngần danh lưu tại thế
tiếng rạng muôn thu. Thử hỏi có chi quí bằng?
Vậy chư hiền khá nghiêm tịnh đặng
ta đi thỉnh BÁT-TIÊN.
(Tiếp điển)
THI:
Quảy
bầu linh dược với nhành dương,
Giáng
thế khuyến Kinh giáo Ðạo đường,
Hai
miệng đồng tâm ưa diễn khách,
Chữ
đề tiên bản hội huỳnh tương.
(Chiết tự bạch giải..........................................)
- Thôi dưng cho ta một cốc rượu
rồi ta giải cho:
Hai
miệng là chữ LỮ.
Chữ
Ðồng có ba chấm thí là chữ ÐỘNG.
Khách
ưa diễn luận là chữ TÂN.
Tức
là LỮ-ÐỘNG-TÂN. (cười...................)
THI:
Chơi
cho thỏa chí của Tiên-gia,
Rượu
tục sao cho sánh rượu già,
Sức
giỏi linh đơn không thế nói,
Tài
hay tiên tửu chẳng chi qua,
Thừa
ưa gặp Hội Quần-Tiên giáng,
Thỉnh
đảo đàn cơ cũng đến mà,
Ðem
phép Tiên ban cho khách tục,
Chí
tu rồi trẻ chớ không già.
Chào chư hiền nam nữ.
BI-THU
Một
năm một tiết trời Thu,
Mà
trăng như oán như thù chi ai.
THI:
Cảnh
Thu ngắm đến chạnh đau lòng,
Nhựt
nguyệt tỏ mờ chẳng vẹn trong,
Chìm
nổi cánh bèo trên lượn sóng,
Linh
đinh bọt nước dưới dòng sông,
Tiếng
quyên réo rắt trên cành bá,
Cầm
trổi nhặt khoan dưới cội tòng,
Tuyết
điểm rừng thung châu hóa ngọc,
Sầu
thu vạn vật ngóng chờ đông.
*
* *
Nương
bút tả chơi một ít hàng,
Cho
đời biết rõ cảnh sầu than,
Trăm
cay chưa dứt đường vinh nhục,
Ngàn
đắng còn vương nỗi ngỡ-ngàng,
Một
kiếp phù sanh rồi cũng rụi,
Ba
đời vinh nhục thế mau tàn,
Cõi
đời hiển hiện đời còn bận,
Nhìn
kỷ thương ai lụy chứa chan.
BÀI:
Chứa chan chạnh nỗi cuộc
đời,
Vinh
hư tiêu trưởng ai thời nghĩ suy.
Chán mắt Thánh ẩn vi vũ trụ,
Nhàm tai người có đủ tinh
thần,
Khác nào gió, khác nào vân,
Mới
than nỗi khổn, rồi ân hận lòng.
Trước thế sự não nồng danh
lợi,
Sau nhơn sanh khêu gợi lý quyền,
Người mua thảm, kẻ mua phiền,
Trăm
năm rồi cũng huỳnh tuyền xa chơi.
Lầm tưởng đặng trên đời
cao giá,
Nào hay đâu chưa thỏa lòng
vui,
Một thân ba tấc đất vùi,
Vợ
con tiền của ngậm ngùi khó theo. (Cười...)
Ðời những tưởng mình nghèo
thê thảm,
Nào hay đâu chẳng giảm sống
còn,
Dầu cho vào cúi ra lòn,
Mộ
lài cũng một tấc son khác nào.
THI:
Khác
nào mây áng mặt trăng lờ,
Cuộc
thế nhộn nhàn tạo nghiệp cơ,
Kim
cổ hỏi người còn hay mất,
Thì
gương xưa để trước sờ-sờ.
Chư hiền cầu Ðức HỚN-CHUNG-LY.
(Tiếp điển)
THI:
Tình
cờ HỚN Sở cạnh tranh ngôi,
Trách
nghĩa CHUNG tình đến ngậm ngùi,
Sanh
tử LY lưu lòng bao nở,
Thiết
tha Giáng thế tiếng hòa đôi.
Chào chư hiền nam nữ.
THI:
THÁNH-ÐỨC
Thầy ban rất quí mầu,
Xem
qua tỏ rõ thật cao sâu,
Bớ
đời lập chí ngày đêm học,
Học
Ðạo cần chuyên được nhiệm mầu.
BÀI:
Màng chi cuộc thế văn minh,
Tạo
ra những sự đao binh chiến trường.
Trời giáo Ðạo tầm phương học
biết,
Biết rèn tâm oanh liệt từ-bi,
Sửa đời cứu lúc khuynh
nguy,
Biết
đời giả dối chớ đi theo đời.
Thân
người, Trung hiếu:
Thân người ba thước giữa
trần,
Hữu
duyên đặng biết đến thân sửa giồi.
THI:
Giồi
luyện tánh thành đặng sạch trong,
Có
thân thì phải biết nơi lòng,
Mạnh
đau đâu hẹn người hay trước,
Sanh
tử nào kỳ sẽ biết đông,
Tiết
trở đủ rần thân thảm dạ,
Mưa
xây thấy chịu phận đau lòng,
Vùi
tro chải bụi lo cho thế,
Nắm
đất rồi đây khó thoát vòng.
Thoát vòng sông,
Thảm nỗi lòng,
Khó mà mong.
Mong chi danh lợi bớ người,
Biết
đâu nhiều khóc ít cười hay chăng?
Rõ thế sự lăng xăng mê mệt,
Lánh sao ngoài sự chết đặng
nhàn,
Cũng vì danh lợi buộc ràng,
Mồi
ăn chỗ ở nên than thở hoài.
Kẻ bất hiếu làm trai hổ mặt,
Người quên trung nên đặc nịnh
thần,
Hiếu trung rồi cũng xây vần,
Cuộc
đời đâu dễ vẹn phần đặng sao.
Nhớ từ lúc phong trào đổi
biến,
Nhớ sơ khai vận chuyển Tam-Hoàng,
Nhớ đời Ngũ-Ðế chứa
chan,
Nhớ
lòng thêm nỗi đoạn tràng thiết tha.
Kìa Hạ-Kiệt vua cha cầm mối,
Bởi quên điều phước tội
chẳng trung,
Sắc tài tửu khí mê chung,
Ðọa
đày trung nghĩa Long-Phùng khổ thân.
Thành-Thang cậy lòng nhân cứu
quốc,
Ðổi quốc hồn lập thất cơ đồ,
Nam-Sào Hạ-Kiệt thân cô,
Thảo
ngay Y-Doãn nghiệp đồ Thành-Thang.
Nhà Thương mới chiêu an quốc
chánh,
Ðến Trụ-Ân lại lãnh sắc tài,
Cơ đồ xã tắc khô thay,
Lầm
than dân quốc vùi mài quan trung.
Khiến xây đổi khôn cùng thể
thống,
Cả chư hầu đều chống chẳng
phò,
Văn-Xương nhơn nghĩa thơm tho,
Ðổi
ngôi thế vị như đò trở day.
Xem cuộc thế châu mày ứa lụy,
Bực quân vương còn bị não
sầu,
Huống chi người thế mà âu,
Tranh
danh đoạt lợi khó cầu cho nên.
Chư hiền tiếp TRƯƠNG-QUẢ-LÃO.
Ta ban ơn chư hiền.
(Tiếp điển)
THI:
TRƯƠNG-Lương
chiêu mộ bực tài lành,
QUẢ
lực nhơn gian chốn cảnh thanh,
LÃO
sắc chỉ phê pho THÁNH-ÐỨC,
Giáng
mừng chư vị tỏ minh rành.
Lão mừng chư hiền nam nữ.
THI:
Cuộc
đời nghĩ lại lắm đau lòng,
Nhơn
sự chia phe tách rẽ xong,
Chán
nản tinh thần xơ xác Ðạo,
Tình
thâm liên ái rán noi phòng.
BÀI:
Phòng ẩn dạng chim lồng xòe
cánh,
Ðóa hoa sen nắng hãnh tươi
nhuần,
Ðau thương cho khách nhơn quần,
Lắm
phen lao lụy vì chưng quen tình.
Lần lượt qua phù sinh mấy lát,
Phút chút đâu mây tạt gió
đùa,
Làm cho tiều tụy căn xưa,
Ðòi
phen giở táp chỉnh thừa nơi tâm.
Há chẳng rõ Ðạo thâm lố dạng,
Lý mầu vi thấp thoáng bày hình,
Tinh thần nung nấu sử kinh,
Toàn
xong nghĩa vụ mới xinh lòng Trời.
Ðời hỗn độn Ðạo Trời ra
mặt,
Phổ tế nhơn còn mắc tứ tường,
Thân hình mắc phải tai ương,
Linh
quang ban cấp khá thương giống dòng.
Ngày tháng lụn cứ mong chen lấn,
Chẳng màng chi những đấng cứu
tinh,
Các vì Tiên Thánh hội huỳnh,
Thả
thuyền Bát-Nhã non đình hồi nguyên.
Vầng nhựt nguyệt phỉ nguyền
ao ước,
Lùm sen vàng tha thướt vân mây,
Thỏa lòng cúc trổ sum vầy,
Linh
căn hội hiệp đó đây một nhà.
Yến ẩm thưởng thức hoa từ-ái,
Niệm tâm tình chế cải phù
ba,
Làm cho rõ mặt san hà,
Làm
cho thức giấc nam-kha thấy hình.
THI:
Hình
bóng chiêu gương đã lố màu,
Vầng
hồng xây trở bước thang đào,
Chỉnh
xem thế sự dường mây chớp,
Phút
chút tiêu tan lượn gió rào.
Chư hiền thành tâm tiếp giá TÀO-QUỐC-CỰU.
Ta ban ơn cho chư hiền.
(Tiếp điển)
THI:
Chỉnh
đời TÀO nguyện cứu nhơn sanh,
Chỉ
bảo QUỐC gia rõ ngọn ngành,
Ðạo
luật CỰU nguyên qui bổn thủ,
Ta
hồ Giáng tiếp chỗ đua tranh.
Chào chư hiền nam nữ.
THI:
Giang
hồ giấc điệp tựa sương gieo,
Cứu
cánh linh căn phải lựa đèo,
Thả
Bát-Nhã đò sông vị khởi,
Quần-Tiên
Hội Thánh cứu cơn nghèo.
BÀI:
Cơn nghèo gặp hội rồng mây,
Vững
tâm phấn đấu trần ai vén rèm.
Lòng chí sĩ cung thềm chinh bắc,
Não nề tâm sẽ đắc như nguyền,
Cành thung gió tạnh mưa yên,
Hết
cơn xơ xác thủy nguyên chung đồng.
Lưu loát hiểu nho phong quốc tổ,
Chiếm bảng son thi thố trung
cang,
Quyết lòng vững chắc sơn
giang,
Rạng
danh quốc đạo mở mang sử đề.
Chí dõng mãnh đề huề đảnh
khứu,
Nhìn non sông lụy ứa đôi hàng,
Ngặt đời nhiều nỗi tân
tang,
Khiến
cho xáo lộn nhiều đàng thảm cay.
Ngán cho đời miệt mài thế
cuộc,
Gẩm cho trần bó buộc mấy khi,
Tự nên mình tạo lỗi nghì,
Cho
nên tai nạn khuynh nguy khắp cùng.
Miếng đỉnh chung não nùng giành
giựt,
Ðám hoa tàn ai rứt mà tranh,
Làm cho tiều tụy tinh thần,
Hớ
hinh xác tục não nồng giấc say.
Luồng hắc khí quá dày bao phủ,
Bủa chung quanh vần vũ mịt mù,
Rọi đèn bác-ái ôn-nhu,
Chuyển
mê nhơn chúng diêm phù thoát tai.
THI:
Tai
nàn thoát khỏi chốn vinh hư,
Ao
ước phỉ tâm chốn mịt mù,
Vầy
lũ hiệp đoàn toan dốc chí,
Phù
vân cổi sạch nạn tiêu trừ.
Chư hiền thành tâm tiếp giá HÀ-TIÊN-CÔ.
(Tiếp điển)
THI:
HÀ
đồ phanh luyện khí Tiên-Thiên,
TIÊN
nữ hóa mây giá ngự truyền,
CÔ
quả học Tiên nên có phép,
Giáng
minh Thánh-Ðức lý cơ huyền.
Chào chư hiền nam nữ.
Nay Bần-Ðạo đắc lịnh giáng mừng
THÁNH-ÐỨC. Ðức NGỌC-ÐẾ hội Quần-Tiên mà phát
minh truyền pho THÁNH-ÐỨC đặng thức tỉnh nhơn tâm cho bớt
cơn điên đảo.
Pho THÁNH-ÐỨC cũng tỷ như
ngọn đuốc soi khắp cả năm châu. Ðó là một dịp rất may mắn
ít khi có đặng.
Vậy chư Thiên-Ân phải để hết
tâm cầu nguyện cho các Ðấng Thiêng-Liêng giáng truyền linh điển
hầu lập Kinh THÁNH-ÐỨC được giá trị cao siêu, mới
có đủ tinh thần mà vẹt ngút mây mù cho nhơn sanh thấy cái
ánh sáng, nương theo chế cải nhơn tâm hấp thụ những tinh thần
của các vị Tiên Thánh mới đủ nghị lực can đảm chống chỏi
với các cảnh đau thương, thoát khỏi vòng trụy lạc. Noi KINH THÁNH-ÐỨC mà thực hiện, thì điểm linh-quang lần
lần sẽ phát triển tiếp xúc giao cảm cùng điển quang trong võ
trụ, thì linh hồn mau tiến thủ lắm, mà lại được thấu triệt
các luật ẩn vi huyền bí của Trời.
THI:
Luật
Trời thẩm thẩm lý mầu vi,
Chuyển
động âm dương bước kịp thì,
Un
đúc linh căn hồi cựu vị,
Ðồng
thoàn nương náu đoạt khoa thi.
BÀI:
Khoa thi đoạt máy cơ Trời,
Tỏ
lòng hiểu Ðạo năm nơi hội nguyền.
Ðời mê mẫn tước quyền tiền
của,
Mãng đắm say theo đóa phù vân,
Lấn xô bóc lột xây vần,
Tung
hoành võ lực nhọc nhành lao thân.
Ngày đêm lụn ai hòng rõ thấu,
Mối cơ Trời tranh đấu mãi
nhau,
Khiến nên xơ xác úa xào,
Làm
cho tiêu tứ nan đào bôn phi.
Mê trần thế lắm khi đau khổ,
Mê mùi đời lố nhố lao lung,
Luân hồi trả quả bao lần,
Thân
hình lắm lúc nhọc nhằn đớn đau.
Ăn năn muộn cớ sao chịu thảm,
Bởi vì chưng mê đám vinh hoa,
Khiến cho u ám linh gia,
Của
Trời ban cấp thiết tha lắm lần.
THI:
Lắm
lần chua xót xác thân hình,
Chịu
nỗi đòi phen ứa lụy tình,
Cội
phúc vun nền cơ đạo-lý,
Cuộc
đời hình bóng trớ trêu mình.
Chư hiền thành tâm tiếp giá
Ðức LÝ-THIẾT-QUẢ. Ta ban ơn chư hiền.
(Tiếp điển)
THI:
Nương
mây lần bước đến Tiên đàn,
LYٍ
Ðạo thành minh thọ sắc ban,
THIẾT
thạch lời châu khuyên thế tỉnh,
QUẢ
nhiên cứu cánh buổi thương tang.
Chào chư hiền nam nữ.
THI:
Bởi
đời cùng cuối khiến đua tranh,
Nên
nhọc Phật Tiên giáng dạy lành,
THÁNH-ÐỨC
ban truyền ơn cứu tử,
CHƠN-KINH
chỉ rõ nghĩa dìu sanh,
Quyết
đem thuyền bách đưa người tục,
Bao
quản thiêng liêng lối nhọc nhành,
Kỉnh
tụng tu cầu là phước đức,
Dày
vò chê hủy tội cam đành.
HỰU:
Cam
đành chớ trách quả cùng căn,
Lý
chánh lời chơn chớ gọi rằng,
Chư
sĩ đêm hôm cầu chẳng nệ,
Thần
Tiên giáng dạy để khuyên răn,
Ngữa
nghiêng cảnh thế rồi đây khổ,
Lận
đận nhơn sanh khó nỗi phăng,
Một
bộ Kinh vàng đưa khách tục,
Khuyên
đời kỉnh tụng đặng siêu thăng.
HỰU:
Siêu
thăng thượng giới học Tiên truyền,
Hơn
chốn phàm trần vướng nợ duyên,
Lần
lựa cánh hồng cam gió ngữa,
Tiêu
tan thuyền nhỏ sóng nhồi nghiêng,
Cam
lồ đem đở cơn phiền muộn,
Ðạo
chánh giúp cho lúc chẳng yên,
Trọng
Ðạo trọng Kinh về cựu vị,
Khinh
Tiên dễ Phật xuống huỳnh tuyền.
Chư hiền thành tâm tiếp giá LAM-THỂ-HÒA.
Ta mừng cho chư hiền nam nữ.
(Tiếp điển)
THI:
LAM
bườm lướt gió đến đài Tiên,
THỂ
đức ngọt bùi chỉ trái duyên,
HÒA
hiệp cũng đồng trong cảnh thế,
Lai
đàn bước thẳng
đến đào nguyên.
Chào chư hiền nam nữ.
BÀI:
Ðào nguyên tịnh tọa vui vầy,
Thương
đời lao nhọc kiếp chầy tang thương.
Chỉ truyền thánh chiếu lương
phương,
Thuốc
thần THÁNH-ÐỨC cứu ương cho đời.
Ðời lẫn lộn nhiều người,
nhiều bực,
Bực trượng phu hữu đức mấy
ai,
Ai ôi! tỉnh giấc mộng hoài,
Hoài
công chen lấn có ngày khổ tâm.
THI:
Tâm
truyền lời ngọc tỉnh đời mê,
Lợi
lộc mà chi tiếng nhún chề,
Cuộc
khổ đẩy đưa lừa khách tục,
Tuồng
đời qua lại ghẹo người quê,
Vành
trăng dầu sáng không gần đặng,
Ngọn
lửa dẫu lu được cận kề,
Danh
lợi bày trò trong một lúc,
Sao
bằng đạo đức đến bồ-đề.
HỰU:
Bồ-đề
lãnh đặng mới là hay,
Hay
giỏi bườm trương lượn sóng dài,
Dày
gió dạn sương đừng não dạ,
Dạ
cam đành chịu nỗi chua cay,
Cay
co rồi đặng ngàn thu hưởng,
Hưởng
của trần gian đặng mấy ngày,
Ngày
tháng lần theo con sóng lượn,
Lượn
lừa khó nhọc bởi vì say.
HỰU:
Say
sưa nên mới lỗi năm thường,
Ðạo
nghĩa đành cam thất mọi đường,
Nhắc
hiếu dầu thua lòng Thuấn-Ðế,
Khuyên
trung cũng rán học Trương-Lương,
Hung
nô Tô-Võ xa ngàn dặm,
Thành
Tống Nhạc-Phi chịu đoạn trường,
Trường
thế chọn lừa người tuấn kiệt,
Thành
danh trung nghĩa để nêu gương.
HỰU:
Gương
trong chỉ vẽ rạng danh thơ,
Ðạo
đức truyền Kinh lịnh kịp giờ,
Giờ
đã hầu gần khuyên chữ dạ,
Tiếp
HÀNG-TƯƠNG-TỬ đến đàn cơ.
Ta ban ơn chư hiền.
(Tiếp điển)
THI:
Trễ
đò HÀNG phải đến giờ sau,
Nam
nữ TƯƠNG xin một tiếng chào,
Chào
bạn TỬ sanh còn lận đận,
Rán
lo tu niệm đặng thanh cao.
THI:
Thanh
cao mới đặng hưởng phần cao,
Cuộc
khổ cũng như cửa mở vào,
Bước
trái học đòi gương Phật-tử,
Ðường
ngay chớ tập tánh Ngưu-Cao,
Bắn
xa nhờ sức trương cung mạnh,
Ðứng
vững cậy nơi khỏi gió rào,
Tiếng
dạy thông thường nhiều ý nghĩa,
Khuyên
đời lãnh hội trước cùng sau.
Chư quí vị BÁT-TIÊN giáng
đủ mặt, vậy chư hiền thành tâm, ta dạy bài "THÁN CUỘC
ÐỜI":
BÀI:
Cuộc đời dời đổi rủi may,
Ngẩn
ngơ khách mến vùi mài người mê.
KINH THÁNH-ÐỨC đầu đề
tỏ cạn,
Hội Bát-Tiên dạy hản sự lòng,
Bớ ai trong cõi trần hồng,
Mau
mau tỉnh giấc mặn nồng thiết tha.
THI:
Thiết
tha từ trước đến đời nay,
Người
thế mê man mảng miệt mài,
Cha
chết con noi gương lấn một,
Vua
băng tôi nối chí tranh hai,
Lần
lừa đắp điếm sương cùng cát,
Qua
lại ẩn thân dưới dạ đài,
Kim
cổ thường tình nào sót một,
Biết
thân đừng trọng, đến Thiên đài.
PHÚ:
Ðài Bạch-Ngọc dạy Thánh-Kinh
khuyên người đời cần tu học.
Chốn phàm gian truyền đạo đức
cứu thế rán trau vóc đặng lo lường.
Mối chơn truyền xưa đã đặng nên
gương.
Nền luân-lý luật cang-thường sẽ
sắp phong cương mà thành tựu.
Kìa khách tục mơ màng chẳng khác
như người còn đang mê ngủ.
Nọ nhân gian chưa đủ trí thông
thần.
Cõi hồng trần mảng trọng lấy cái
xác thân.
Nơi dị lộ mà chẳng gần chi cho đặng.
Xác là thuyền, thuyền rán trương
bườm hầu dặm thẳng.
Ðạo như nước, nước phải lo
cho mau đặng có hoài.
Bớ người đời biết cạn chớ
hề sai.
Rán lãnh hội đừng để cho sự
rủi may của xác thịt.
Phật-Tổ Sĩ-Ðạt-Ta xưa Thế-Tôn
cứu độ người đời còn phải Niết-Bàn nhập tịch.
Thái-Thượng Lý-Lão-Quân
đắc Tiên ban đặng thanh nhàn độ thế còn ẩn thân hầu để
tiếng ích máy huyền vi.
Ðời Tam-Hoàng khai sáng nên
dân nước được trị vì.
Ðến Nhị-Ðế dạy đời đều
y như thuần phong mỹ tục.
Nhưng mà nào mặt Tam-Hoàng hay tay
Nhị-Ðế trong lúc thế kỷ hai mươi nầy.
Tần-Thủy-Hoàng bạo ngược
quyết gồm xây.
Lập tràng-thành thâu lục quốc,
mà nào hưởng đặng đến ngày nay tái thế.
Than ôi! Hạng-Vương
trước tám ngàn người môn đệ, oai danh bốn bể nhưng cuối
hạ-nguơn nầy còn thấy chi đâu.
Nã-Phá-Luân chọc nước
khuấy trời.
Danh tể tướng năm châu đều
khiếp mặt.
Mà hưởng cuộc đời có chắc
bao lâu.
Sống trường sanh 800 tuổi Ðức Bành-Tổ
biết đặng Ðạo mầu.
Nhưng đến hậu thế có thấy đâu
là hình với tướng.
Chết quá yểu 31 tuổi Nhan-Uyên
thật là yểu tướng.
Số định rồi khó nỗi van cầu.
Nghèo ai hơn Tăng-Sâm với Yến-Tử,
tơi tả áo xiêm, dày vò gió bụi mà Ðạo mầu hằng trau học.
Giàu đâu sánh Thạch-Sùng, Vương-Khải,
của muôn xe tận số thì hình vóc cũng chẳng còn.
Xét cho cùng thương cuộc thế rất
chìu lòn.
Cuộc giả tạm thiệt rằng không
nên chí lý.
Nhắc cho kỷ cổ kim với chung thỉ.
Phân từ lời nhỏ tý đặng
khuyên đời.
Xưa Phật Thánh Tiên còn bỏ xác
mới về Trời.
Huống chi người phàm tục hầu
chiều mơi lo sang đoạt.
Ðời nháy mắt bóng quang-âm nhặt
đưa thắm thoát.
Mượn chiếc đò thần hầu gánh
vác mối Ðạo mầu.
Lập công đừng nệ sự dãi dầu.
Ðưa khách tục rán làm cầu cho
sanh chúng.
Thoảng mảng ngày qua rồi tháng lụn.
Rảnh nợ duyên hầu đến chốn
thanh nhàn.
Bạn Phật Tiên bỏ giấc vu sang.
Về Bạch-Ngọc lãnh bộ Tiên ban
thiệt là thanh nhàn thú vị.
Bớ khách trần rán tâm mà suy với
nghĩ.
Dầu khó khăn chung thỉ rán cho tròn.
Tu sao cho vẹn nước non...
THI:
Nước
non đứng giữa cõi trần ai,
Lăn
lóc tu hành mựa đắm say,
Xác
tục đừng lầm trau quá rủi,
Tinh
thần chẳng sái học là may.
BÀI:
May với rủi mấy ai biết đặng,
Thạnh cùng suy rồi chẳng làm
gì,
Lánh đời cầu khỏi hồn nguy,
Xác
thân dầu trọng làm chi cho bền.
Kìa những kẻ ngồi trên thiên
hạ,
Hống hách oai quyền đã ngang
tàng,
Hầu trong kỵ nữ muôn ngàn,
Vệ
ngoài nha trảo rộn ràng lửa binh.
Rồng chầu mạng trước đình
vân phủ,
Quân hầu thân có đủ võ văn,
Nào hay một nắm mộ lăng,
Sương
gieo nắng táp bóng trăng soi chồn.
Kìa những khách quyền môn thế
cả,
Trên quân vương dưới tả lính
chầu,
Mà nay trong cuộc bể dâu,
Nằm
yên dưới cỏ ngấc đầu không lên.
Tài ra trước đường tên mũi
đạn,
Sức long trời đất hạng chẳng
vừa,
Muôn binh ngàn tướng bẩm thưa,
Mà
nay thân phải dày bừa bụi tro.
Kìa những kẻ văn nho tột bực,
Nọ những trang hiền đức xưa
nay,
Có tài thiệt rất có tài,
Mà
không qua khỏi mộ lài cỏ hoang.
Những nữ sắc hường nhan tươi
tốt,
Gót rải sen nhạn thốt cá cười,
Rồi trong hơi thở cát vùi,
Nào
ai thăm viếng tới lui bao giờ.
Bực phú quí khôn chờ giá
rạng,
Tài nam nhơn chiếm bảng quán
quân,
Mà nay dưới đất mấy từng,
Bên
truông ve khóc, dựa rừng dế than.
Thương cuộc thế chứa chan giọt
lụy,
Rán cậy cơ bút chỉ cho tàng,
Ðời ôi! đời rất ngỡ ngàng,
Lâm
ly chết thảm, lở làng sống vui.
Cảnh tục lụy sóng vùi mà lụy,
Ðường Tiên bang ai nghĩ đến
cùng,
Cạn lời chỉ dạy thỉ chung,
Bớ
ai trong cuộc lao lung thức nào.
Ðức công hôm sớm dồi
trau...
THI:
Trau
gương kim cổ xét cho rành,
Sự
thế lạ gì tục với thanh,
Biết
Ðạo biết mình tua biết phận,
Ðừng
ham tài sắc lợi cùng danh.
----> NEXT |