Trở lại trang chánh của Website Thiên Lý Bửu Tòa

 

5.- HỘI BÀN ÐÀO PHÊ CHUẨN

__________

THI:

THỂ dục gieo trồng rõ trước mai,

LIÊNG thu sớm tối để chơn hoài,

TIÊN ban phước nhuận cho người sáng,

NỮ Việt Ðề-Oanh trước bửu đài.

      Chào chư Thiên-Ân nam nữ. Vậy chư Thiên-Ân thành tâm tiếp giá TÂY-VƯƠNG-MẪU. Ta chào chư hiền sĩ.

      (Tiếp điển)

THI:

TÂY tạo công tu phải chí thành,

VƯƠNG trần nhiều nỗi thảm thâm canh,

MẪU Hoàng thương nhớ con hiền ngỏ,

Ngự bút Thánh-Kinh giáo dạy rành.

      Mừng chư hiền sĩ.

THI:

Thoi dệt nhẹ đưa bóng ác thiều,

Máy Trời thu tạnh thảm muôn chiều,

Trái oan cuộc thế còn đeo đẳng,

Duyên phước cảnh Bồng ngắm quạnh hiu,

Thơ thới sen hoa chào khách tục,

Thung dung phụng trổi giọng tiêu diêu,

Thương người trần tục cơn buồn thảm,

Cảnh tỉnh khuyên mau biết luật điều.

BÀI:

       Ðiều trần hơn thiệt than đời,

Bớ chư sĩ tử nghe lời tạo tâm.

       Tu hành phải biết cao thâm,

Phải lo sửa tánh phải tầm giới thân.

* * *

      Tâm trong sạch nhứt trần bất nhiễm,

      Mới là người được chiếm Ðạo mầu,

            Tánh tình khoan hậu chẳng câu,

Thương nhơn mến vật mới hầu biết tu.

      Thờ THƯỢNG-ÐẾ công phu tâm tánh,

      Học Tiên-gia phải định chí thành,

            Cúng Trời lạy, dạ tịnh thanh,

Biến nên cam lộ đào xanh kỉnh thờ.

      Lạy Phật rán kịp giờ suy nghĩ,

      Thần quang minh chơn lý treo lên,

            Ðôi đèn sáng tỏ hai bên,

Là tâm với trí hòa nên thiện từ.

      Tấm khảm trải cho dư cho phủ,

      Là khoan hồng dạ đủ ái tha,

            Nhang trầm tư tưởng cao xa,

Mùi hương đạo đức bay xa khắp đời.

      Rót chén nước tứ thời đảnh lễ,

      Suy cho cùng có thể hiểu cao,

            Lý chơn xét kỷ mà trau,

Biết câu Bác-Ái ghi vào chớ lơi.

THI:

Lơi lả rồi qua cũng một đời,

Không tu sau chớ vội than trời,

Trời truyền THÁNH-ÐỨC cho người học,

Học Ðạo chuyên cần lúc thảnh thơi.

      Ban ơn chư hiền sĩ, khá tiếp điển LINH-SƠN THÁNH-MẪU.

      (Tiếp điển)

THI:

LINH thoàn thần tỉnh chiếu mồ khan,

SƠN thượng lịnh phê sắc tái hoàng,

THÁNH-Ðức Chơn-Kinh qui vạn loại,

MẪU từ chiếu diệu độ đời an.

      Bần-Ðạo chào chư sĩ tử.

THI:

Âm dương chuyển động cứu cơn nghèo,

Linh hoạt sánh so cứu nạn eo,

Thế dục liên hành Thiên vạn tải,

Chuyển đời mê ảo phải nương vèo.

BÀI:

            Nương vèo độ khổn trần ai,

Thoát vòng đau khổ phướng đài khá noi.

      Dụng nhơn trí tầm tòi rõ tánh,

      Ðạo lý chơn cứu cánh hoàn toàn,

            Mộng hồn thần tỉnh mộ khan,

Chưởng gieo đức tánh tham thoàn rõ mau.

      Lòng ái truất tâm bào hao kém,

      Bởi muội mê chẳng kiếm lý sâu,

            Làm cho mắc phải nạn sầu,

Lao tâm tiêu tứ khá âu độ người.

      Tìm manh mối rẻ ròi sâu cạn,

      Khá biện phân mà hản thiệt hư,

            Thoát vòng lầm lạc bấy chừ,

Mới là đáng mặt anh thư cứu đời.

      Khá thông thuộc các nơi xác đáng,

      Khá hiểu rành ngay thẳng bao lăm,

            Dạy người tỉnh giấc luân trầm,

Thoát vòng luân chuyển Ðạo thâm chuyên lòng.

THI:

Chuyên lòng đạo đức để làm gương,

Thử hỏi mấy ai kiếp đoạn trường?

Lăn lóc dày bừa cơn gió bụi,

Xót lòng mê mệt lánh tai ương.

      Vậy khá tiếp giá LƯ-SƠN THÁNH-MẪU. Ta ban ơn chư hiền sĩ.

      (Tiếp điển)

THI:

động nguyền cho chúng khỏi nàn,

SƠN xuyên đang ngộ cảnh gian nan,

THÁNH Kinh một bổn khuyên tu học,

MẪU tử tình thâm đắc phước ban.

THI:

Từ-bi trái chín để lên thờ,

Vái Ðức Thiên-Hoàng chứng dạ thơ,

Một quả lý chơn xin xẻ lột,

Tìm ăn cho được tịnh như tờ.

* * *

Như tờ lặng lẽ cả ngoài trong,

Hơn thiệt lợi danh chẳng bận lòng,

Lòng dạ thanh nhàn tâm dạ tĩnh,

Mới là rõ đặng Ðạo "Hư Không".

* * *

"Hư Không" chẳng phải biểu đừng làm,

Làm đặng mà lòng tịnh mới ham,

Chưởng đức bồi công hành thiện quả,

Lòng "Không" trong trẽo Ðạo lưu hàm.

* * *

Hàm châu huê bút cạn lời khuyên,

Thập thủ Ðạo tâm đã bố truyền,

Truyền xuống ban cho chư sĩ tử,

Học hành tu luyện khá cần chuyên.

      Chư sĩ tử thành tâm cầu THANH-HOA THÁNH-MẪU.

      (Tiếp điển)

THI:

THANH tịnh Bồng-Lai hưởng thú nhàn,

HOA thơm bát ngát rải trần hoàng,

THÁNH Kinh bố hóa đời tường lý,

MẪU ái chúng sanh mới thở than.

      Mừng chư sĩ tử.

THI:

Thập thủ liên hườn thức tỉnh đời,

Dịu dàng khuyên trẻ để từ lời,

Ðạo mầu muốn đặng ngàn thu hưởng,

Tu thiệt khuyên đừng tính luyện chơi.

* * *

Luyện chơi cho biết Ðạo cao siêu,

Từ thuở chưa ai đặng ít nhiều,

Sửa tánh tu tâm chi có chí,

Rồi sau thuốc báu mới ngưng triều.

* * *

Ngưng triều định trí học tâm cơ,

Lý chánh xét suy phải biết giờ,

Bớ khách trần gian mau hiểu Ðạo,

Ðạo tâm cao thượng chớ bơ thờ.

* * *

Bơ thờ chẳng hiểu được đường Tiên,

Mãn kiếp trong vòng nợ thảm phiền,

Hỏi Ðạo chưa ai tường lý Ðạo,

Người hiền nhiều kẻ lại khoe hiền.

* * *

Khoe hiền ngoài mặt chẳng nên chi,

Tu niệm phải cho cốt lẫn bì,

Tâm lóng sạch trong thờ chánh giáo,

Ngày sau mới khỏi lúc lâm nguy.

* * *

Lâm nguy khẩn niệm ÐỨC DIÊU-TRÌ,

Rửa sạch tâm trần đặng hiển vi,

Thờ kỉnh nơi lòng thanh tịnh Ðạo,

Cúng cầu những quả kết Từ-Bi.

* * *

Ðạo chánh xưa nay hiếm kẻ xưng,

Mà sao thế sự cũng chưa từng,

Ngoài môi ngon ngọt lời tao nhã,

Trong dạ đắng cay tiếng quá chừng,

Hiền hậu khi bàn ai cũng tập,

Dữ hung cơn đến lại không vưng,

Ác thân, ác ý, tâm thêm ác,

Như thế bảo sao khỏi đọa trừng.

* * *

Trừng trị luật Trời chẳng vị ai,

Hiền thăng dữ đọa cứ roi hoài,

Tội tình một mãi không lầm lạc,

Phước đức hai điều chẳng lợt sai,

Bủa lưới tuy thưa đời khó thoát,

Giăng dò đã rộng thế kiên oai,

Giả chơn lành dữ đều ghi chép,

Chép để thưởng răn chọn kẻ tài.

* * *

Kẻ tài nhớ giữ đặng lòng chơn,

Biết Ðạo chẳng cần sự thiệt hơn,

Giả trá một đời khôn khỏi hận,

Chơn tâm mãn kiếp chẳng ai hờn,

Trời hành tội lỗi người lòng giả,

Luật thưởng phước cao kẻ dạ chơn,

Chơn giả trong đời tua chọn lấy,

Lấy sao cho khỏi cuộc tuần hườn.

* * *

Tuần hườn chuyển thế đến nay mai,

Khổ nạn nhiều thay đọa trẻ hoài,

Trau tánh mê thân hườn bổn thể,

Kỳ duyên hội ngộ phục hườn lai.

      Vậy khá nghiêm tịnh tiếp giá ÐÀO-HOA THÁNH-MẪU. Ta ban ơn chư sĩ tử.

      (Tiếp điển)

THI:

ÐÀO viên hưởng hứng dạ thành tâm,

HOA tốt Trời xuân lá ướt dầm,

THÁNH-Ðức chuyển mê còn mộng ảo,

MẪU từ sum hiệp lúc canh thâm.

      Bần-Ðạo mừng chư sĩ tử.

THI:

Cuộc đời nghiêng ngữa giữa mùa thu,

Thánh giáo truyền gương vẹt ngút mù,

Chuyển vận kiền khôn qui bổn thể,

Xây quanh trời đất lẽ ôn nhu,

Linh quang sáng hiện hòa chơn khí,

Chơn tánh lưu thông hóa phép tu,

Linh dược trau tria bồi cửa Ðạo,

Cứu nguy sanh chúng giữa trời thu.

BÀI:

            Trời thu êm gió tươi nhuần,

Cỏ cây chim hót bâng khuâng tấc lòng.

      Thế thảm tình thong dong bước tới,

      Huỳnh cơn đông thơ thới tâm hồn,

            Chợt nhìn lố ánh non côn,

Ước ao bao thuở vĩnh tồn cứu an.

      Bầu linh dược huyền quang nhứt khí,

      Luyện âm dương biết lý chánh truyền,

            Thờ chơn nguyên thỉ non Tiên,

Ðoanh vòng nhựt nguyệt hống diên than trần.

      Chí nung nấu theo lằn thanh điển,

      Hấp thụ đồng phanh luyện chơn như,

            Hòa đồng cơ tạo khắc khư,

Chế theo linh hoạt tiêu trừ oan khiên.

      Dìu vạn loại tiền khiên trả sạch,

      Dẫn khách trần xuống bách thuyền nan,

            Vững lèo lướt sóng qua giang,

Cứu nguy nghèo ngặt Ðạo vàng rưới cho.

      Khá hiểu máy con đò Tạo-Hóa,

      Khá biện phân chí cả hoàng sinh,

            Luật Trời cơ tạo máy linh,

Chuyển xây vận mạng thân hình tùy nương.

      Lòng cải quá tang thương sắp đến,

      Chớ lòng vôi lướt đến Ðộng-Ðào,

            Nghĩ đời thế thái lòng đau,

Lòng nào yên ổn giọt đào nào nguôi.

      Dòm cuộc thế ngậm ngùi đau thảm,

      Nguyện một tình vớt đám sanh linh,

            Nơi đàng khổ hải trầm mình,

Tự mình gieo cảm cho mình chớ ai.

      Chí vẹt ngõ chương đài thí hội,

      Vén ngút sương thi đối đề văn,

            Khoa trường liếc mắt lăng xăng,

Chớ nào ai thấy lẽ hằng xưa nay.

      Chí tiến dẫn thần oai là trước,

      Chớ nào lo phận nhược liễu bồ,

            Thân hình nhi nữ lệ đồ,

Sơn xuyên khuất dạng cam lồ rưới chan.

      Lòng chí quyết noi đàng yếu lý,

      Lòng sắc son chung thỉ một lòng,

            Thảm cho phận gái quần hồng,

Thảm cho trẻ dại khuê phòng giữ trinh.

      CÔNG siêng sắn lo gìn Ðạo cả,

      Cùng mẹ cha cho thỏa lòng vui,

            Chớ cho người phải sụt sùi,

Giữ lòng thanh bạch cầm cùi náu nương.

      DUNG hãy giữ lẽ thường là gốc,

      Rán vun bồi chí dốc lo tròn,

            Hết tình tươi nhuận sắc son,

Giữ lòng cao khiết hằng bòn âm công.

      NGÔN gìn giữ một lòng cho vẹn,

      Giữ từ lời vun bén Ðạo cao,

            Làm sao rõ mặt nữ hào,

Làm sao đặng phận Nam-Tào ghi tên.

      HẠNH un đúc tâm bền trau sửa,

      Giữ nết na cư xử thanh tâm,

            Ðời cùng em chị một lòng,

Cùng người ngoài giáo cũng đồng chở che.

      Nguyện chung sức dặt dè tâm giới,

      Chiếu bảng son khá đợi nhau cùng,

            Tấm lòng càng đậm thung dung,

Phỉ nguyền mơ ước chập trùng lắm đau.

      Ðừng thái quá ngày sau thất vọng,

      Giữ điều hòa thì trúng cơ Trời,

            Cũng đừng bất cập trò ôi!

Mai sau khó đứng khó ngồi yên nơi.

      Giữ chính đính cơ Trời sẽ hản,

      Mối cơ quan ân nặng thế đồ,

            Chỉ cho người biết điểm tô,

Lưới trời lồng lộng Cực-Ðồ Bửu-Châu.

      Hằng chiêm ngưỡng canh thâm cơ Ðạo,

      Ðoạt huyền vi hóa tạo chứng tri,

            Minh hoàng lai đáo đơn vi,

Yên thông tổ thuật sáng kỳ bàn nguyên.

      Ðộng sơn khê thỉ nguyên như thử,

      Chiếm luật đồng quá khứ tường thông,

            Vị lai tương phản tương đồng,

Hiện thời thức dụng luật công lẽ thường.

      Ngày chí luận chiến đường u thảm,

      Tuyết sương gieo giao cảm tiến hành,

            Luật Trời thông thấu huyền linh,

Lựa vèo độ rổi đao binh khỏi nàn.

      Nữ Nam-Việt noi đàng hướng thiện,

      Phận quần thoa chánh kiến thành tâm,

            Giữ lòng trinh tiết cố cầm,

Huyền cơ sẽ đoạt thoát trầm mê tân.

THI:

Mê tân rán vẹt thấy cơ Trời,

Thiện nữ toan lo rõ cuộc đời,

Yếu lý tầm phăng cơn sóng bủa,

Nhiệm mầu kiếm hiểu lúc lưng vơi,

Kềm lòng thanh khiết tâm nhàn lạc,

Giữ mực công bằng chí thảnh thơi,

Chánh giác Ðạo Trời hòa nhứt mạch,

Chèo thuyền bể Bắc dạo ngoài khơi.

      Bần-Ðạo ban ơn chư sĩ tử.

      (Tiếp điển)

THI:

KIM thạch ẩn nương chỗ Ngọc-Tuyền,

QUANG huy ánh giọi động đào Tiên,

THÁNH truyền diệu pháp vì thương chúng,

MẪU yến đơm hoa phỉ dạ nguyền.

      Bần-Ðạo mừng chư hiền sĩ.

BÀI:

      Dòm bóng thảm mùi hương bát ngát,

      Ðêm canh chầy cởi hạc Kỳ-Sơn,

            Canh chầy nào nệ thiệt hơn,

Giáng phê THÁNH-ÐỨC nguồn cơn tỏ bày.

      Lòng sở nguyện gái trai nhứt dạ,

      Thấu cung Diêu ổn thỏa lòng thầm,

            Gậy nương lần vịnh canh thâm,

Thần cơ bút Thánh thâm trầm khải reo.

      Giọng rỉ rả lên đèo xuống ải,

      Chỉ cho trò quấy phải biện phân,

            Khá toan nung nấu tinh thần,

Linh quang sáng tỏ trong ngần trời thu.

      Gió thổi đến bi thu cuống ngọc,

      Gió lao rao giám đốc tự mình,

            Trời nhìn chan chứa bình minh,

Hoát khai Ðạo mạch tận tình cứu nguy.

      Ðạo Trời thật huyền vi yêm ẩn,

      Ðạo của Trời tinh tấn quang minh,

            Ðạo Thầy biết thế tùy hình,

Ðạo soi sáng tỏ phát minh khắp cùng.

      Ðạo hiểu thấu rất xinh tươi tốt,

      Ðạo của Trời giữ một không hai,

            Ðạo Thầy như bóng sương mai,

Ðạo nguyền dẫn dắt gái trai khắp cùng.

      Ðạo là Ðạo như khuôn đúc dạng,

      Ðạo của Thầy ai hản mà nên,

            Ðạo Thầy cứu cả dưới trên,

Ðạo Trời bí diệu tạc nên muôn ngày.

      Ðạo Trời vốn không lay không chuyển,

      Ðạo của Trời qua tiến thiên nhiên,

            Ðạo Thầy chẳng dụng tước quyền,

Ðạo Thầy như thể bình yên nước bầu.

      Ðạo chớ luận cơ cầu quá đáng,

      Ðạo nhiệm mầu như đám huỳnh sen,

            Ðạo Thầy không lựa trắng đen,

Ðạo không kén chọn trăng đèn sáng lu.

      Ðạo Trời thể trăng thu sáng tỏ,

      Ðạo hằng dìu dắt ngõ quần linh,

            Ðạo tâm phát triển non đình,

Ðạo thâm vi diệu dìu mình nương theo.

THI:

Nương theo thuyền bách độ nhơn nguyên,

Giữ mối cơ quan phỉ dạ nguyền,

Lóng rõ tiếng kê đang gáy sáng,

Tịnh tâm mới đoạt ngọc kim tiền,

Vàng chìm sông Lệ mau tìm vớt,

Ngọc ẩn Kỳ-Sơn khá giữ nguyên,

Giấc mộng huỳnh-lương mau thức giấc,

Lo tu học Ðạo đặng bình yên.

      Khá tiếp giá QUI-LINH THÁNH-MẪU. Bần-Ðạo ban ơn chư hiền sĩ.

      (Tiếp điển)

THI:

QUI tùng vạn pháp đắc huyền công,

LINH tánh lý chơn mối đại đồng,

THÁNH-Ðức Chơn-Kinh cơ mộng điệp,

MẪU từ hiệp tác giữ tâm không.

      Chào chư hiền sĩ.

THI:

Tâm không lặng lẽ tợ như tờ,

Ðịnh trí hiểu thông mối chuyển cơ,

THÁNH-ÐỨC qui người trong một thể,

CHƠN-KINH giác luận bổn Thiên-Thơ,

Tuyên truyền yếu lý bươn theo giỏi,

Thông thấu lý chơn thoát khỏi bờ,

Vi thiện yểu minh nghe lặng lẽ,

Kỳ truyền sẽ bước thoát gian cơ.

BÀI:

      Cơ mầu nhiệm bơ thờ sao đặng,

      Mối linh mầu đăng đẳng qui tùng,

            Châu hườn hiệp phố hư cung,

Nữ Tiên hạ giáng thung dung canh chầy.

      Ðèn tim lụn nào khuây dạ ngọc,

      Bởi dầu hao lăn lóc sương trần,

            Linh cơ chuẩn máy xoay vần,

Rọi đèn bác ái từ lần cứu mê.

      Khuyên các trẻ đường dê lóng rõ,

      Khá lãm tường linh thọ huyền vi,

            Thảm sầu máy nhiệm ly kỳ,

Tương đương phong phú ẩn vi lệ thường.

      Làm cơ chuyển ái thương ái kỷ,

      Khá vén màn chơn lý cho thông,

            Mới nên đáng mặt quần hồng,

Mới nên rạng vẽ tổ tông nước nhà.

      Chiêu liệt sĩ giác tha lập đức,

      Khuyên chí công đánh thức tâm hồn,

            Thấy hình rõ bóng hoàng hôn,

Cứu an sanh chúng vĩnh tồn hậu lai.

      Gìn đạo hạnh không lay không chuyển,

      Gìn lòng son chớ luyến tài hoa,

            Sá chi cái cuộc ngân hà,

Làm cho chịu khổn xót xa hằng ngày.

      Luật nhơn quả không sai một mảy,

      Hễ làm lành chế cải tâm không,

            Thưởng ban phước đức ân hồng,

Con người gieo cảm khó mong hưởng nhờ.

      Chi phải chịu bơ thờ lãnh đạm,

      Bởi gieo truyền ác cảm từ lâu,

            Than van rên siết được nào,

Luật công ghi chép Thiên-Tào không tư.

THI:

Không tư một mảy chúng dân nào,

Âm chất vun bồi được phước cao,

Nhỏ giọt cam-lồ cho nhuận tốt,

Hồng ân ban bố chẳng ly hào,

Ác tâm, ác miệng, gây thêm quả,

Thiện hạnh, thiện căn, tạo cảnh đào,

Công lý Thiên-Ðình hằng giữ sổ,

Hằng ngày chiếu rõ luật âm hao.

      Bần-Ðạo ban ơn chư sĩ tử. Có MẢ-LỰC TIÊN-NƯƠNG đến.

      (Tiếp điển)

THI:

MẢ hạnh trường đồ có mấy ai,

LỰC hành trông rõ sức anh tài,

TIÊN truyền Ðạo cả dìu nhơn loại,

NƯƠNG bút chuyển phê thoát cõi ngoài.

      Bần-Ðạo mừng chư sĩ tử.

THI:

Cung-điện ngự xem thấy cảnh trần,

Lao-nhao lố-nhố phải vùi thân,

Giáng trần độ kẻ lầm mê muội,

Nương bút thần cơ khuyến thế cần,

Lựa dịp mê tâm dầm động bích,

Kiếm cho hiểu thấu lẽ huyền thâm,

Thỉ tài vận hội an nhơn chúng,

Ðoái lại đau thương bởi sự lầm.

BÀI:

      Lầm lạc bến mê đồ phải lụy,

      Giải tuyết sương chí khí tu tầm,

            Ðạo nên luyện hóng thăng trầm,

Cửu quang mở hoát cao thâm ban truyền.

      Lòng từ thiện chèo thuyền độ khách,

      Lòng ái nhơn tư cách làm gương,

            Cho đời tỉnh giấc mộng trường,

Hết cơn điên đảo tai ương đưa lần.

      Chịu cảnh khổ phong trần cảm bấy,

      Bởi hôn mê chịu lấy nào than,

            Quyết tâm tầm lấy Ðạo vàng,

Cho ra manh mối nhặt khoan luân hành.

      Máy linh động cứu sanh an chúng,

      Nẽo vô-vi Thầy định riêng phần,

            Cho người biết phép Tiên Thần,

Biết phanh biết luyện tinh thần xuất dương.

      Kềm lòng chánh khoa trường chiếu giám,

      Rõ lý mầu như đám hoa thu,

            Trời trong gió mát cọng phù,

Tùy hình ẩn dạng hườn hư có ngày.

      Miễn nhứt dạ ném đai cân rảnh,

      Miễn là lo tụ đảnh nê hườn,

            Tiên-Thiên bổ óc thành đơn,

Xá-Lợi chưng hấp hườn đơn cọp rồng.

      Chí vững quyết non Bồng hứng cảnh,

      Ðộng sơn khê xa lánh cuộc đời,

            Kết tình cây cỏ chiều mơi,

Một mình thơ thới tứ thời tịnh an.

      Vậy mới rõ huyền quang chi khí,

      Vậy mới thông yếu lý nhiệm mầu,

            Cơ Trời ẩn dạng cao sâu,

Ven lằn mây phủ sơn đầu thiệt hơn.

      Tinh Khí Thần hiệp hườn nhứt thể,

      Luyện anh nhi bổn thể kim đơn,

            Nấu nung cho đúng chớ sờn,

Ðại hồng thệ nguyện linh đơn chỉ rành.

      Lòng vọng động khó rành đoạt thấu,

      Máy âm dương chưng nấu có chừng,

            Chăm nom từ phút từ lần,

Mai sau Tiên cảnh vui chơn phỉ tình.

      Cùng bạn Thánh tiên-đình hiệp hội,

      Một cội nguồn thâu nhịp ngày giờ,

            Ngâm thi vịnh phú chơi cờ,

Ngàn năm trần thế sánh so được nào.

      Chịu một kiếp tương rau khổ não,

      Ðộ khách mê mộng ảo thoát vòng,

            Nương thoàn từ huệ thẳng xông,

Ðặng ngôi thoát tục lánh vòng trần ai.

      Ngày định tịnh một hai quét sạch,

      Giữ thanh tâm như bách sông chiều,

            Trời đêm lạnh ngắt tiêu thiều,

Vẳng nghe nhạc trổi tiêu diêu giữa trời.

      Mấy vì ấy thảnh thơi quá đổi,

      Xác tục trần đã cổi từ lâu,

            Bởi người trước chịu dãi dầu,

Nên nay mới đặng thoát đầu hồi nguyên.

THI:

Hồi nguyên cựu vị lánh mê hồn,

Thoát tục khỏi rồi độ tử tôn,

Áo bả hài gai yên tịnh trí,

Cân đai ném bỏ thấm duyên tồn,

Lựa vèo rước khách bồi âm chất,

Quyết một tình nay độ tỉnh hồn,

Thơ thới tâm can lòng mới vững,

Vui thay chi xiết cảnh non Côn.

      Bần-Ðạo ban ơn chư hiền sĩ, khá tiếp giá LINH-BỬU NƯƠNG-NƯƠNG.

      (Tiếp điển)

THI:

LINH nguyên căn cũ tại nơi Trời,

BỬU pháp trao tay chiếu ánh ngời,

NƯƠNG ngọn bút đề chiêu nữ liệt,

NƯƠNG thoàn Bát-Nhã đợi chiều mơi.

      Chào chư sĩ tử.

THI:

Châu ngọc xưa nay hiếm kẻ còn,

Ðạo lành vun đắp chí vuông tròn,

Học thông lý Ðạo đường sông cạn,

Tìm hiểu cơ quan thể núi mòn,

Thanh khí Tiên-Thiên bền dạ kiếm,

Ðục trong máy nhiệm chí công bòn,

Thượng thừa qui tắc tùng noi giữ,

Thâm lý biến thiên dạ sắc son.

HỰU:

Sắc son triết lý chí nghiên tầm,

Khảo soát cho ra mới gọi rằng,

Lầm lạc khó toan tìm lý chánh,

Rõ đờn tao nhã giọng phù trầm,

Náu nương dưa muối qua ngày tháng,

Gánh vác cho nhau chí học tầm,

Vạn pháp qui tông gìn vững đạt,

Keo sơn gắn bó rõ cơ thâm.

BÀI:

            Cơ thâm yếu lý nhiệm mầu,

Học thông pháp chánh cơ cầu phá mê.

      Lòng toan tính chỉnh tề nung nấu,

      Quyết tìm ra tích dấu cơ Trời,

            Tỉnh hồn khỏi nạn hôm mơi,

Hậu lai sẽ được thảnh thơi linh hồn.

      Chớ gây dữ dập dồn oan nghiệt,

      Chớ tranh đua nhiệt liệt mà chi,

            Làm cho lỗi đạo tiết nghì,

Làm cho phải chịu ai bi tháng ngày.

      Ngày sáu khắc canh chầy tim lụn,

      Bởi lầm đường lúng túng khó ra,

            Tứ tường bao phủ xót xa,

Lụy tuôn cho trẻ thật thà chịu nguy.

      Cũng tại bởi khinh khi Tam-Giáo,

      Chẳng màng chi là đạo đức khuyên,

            Miễn lòng no ấm phỉ nguyền,

Xác thân tiêu tứ trần duyên dẫy đầy.

      Trời mở Ðạo CAO-ÐÀI cứu thế,

      Thả nhã đò phổ tế vạn linh,

            Trách thay sanh chúng tự mình,

Chớ nào phải đạo đao binh hại đời.

      Bởi những tưởng thiên thời quá vản,

      Bởi vậy nên gây cảm tội tình,

            Bao chừng thoát khỏi đao binh,

Lắm phen ứa lụy chữ trinh nào còn.

      Thân phận gái giữ tròn khiêm tốn,

      Giữ nết na chốn chốn tận lòng,

            Mới mong hiểu Ðạo HUYỀN-KHUNG,

Mới mong thoát khỏi não nùng chua cay.

      Khuyên đừng tách lá lay đôi mách,

      Chữ tiết trinh thiết thạch nơi tâm,

            Kềm lòng rõ máy cao thâm,

Diệt xô bản ngã tư tâm mới là.

      Chí đại đồng sâu xa lắm trẻ,

      Thần lý chơn nhậm lẹ ghi công,

            Chờ người lòng dạ đại đồng,

Không phân đẳng cấp một lòng như ai.

      Khá hiểu lý chương đài chiêm ngưỡng,

      Luật đại đồng ảnh hưởng chung nhau,

            Phân da nước tóc một màu,

Xem như cật ruột đồng bào thịt xương.

      Mới biết phá tứ tường bể nát,

      Mới gọi rằng hiển đạt cơ mầu,

            Linh quang phát triển cao sâu,

Giao hòa vũ trụ chung bầu kiền khôn.

THI:

Kiền khôn vũ trụ cũng trong trời,

Ai dám thoát ra thử mấy người,

Lăn lóc phong trần mơ ước mộng,

Dày vò sương tuyết lụy đầy vơi,

Bớ ai mở mắt theo đường trí,

Hỡi kẻ tu mi rán gượng cười,

Ngọn gió hắc hiu lao thổi đến,

Buồn cười cho khách trớ trêu ngươi.

      Bần-Ðạo ban ơn chư sĩ tử, có THẤT-NƯƠNG ngự.

      (Tiếp điển)

THI:

KIM thạch ẩn nương chiếu lố màu,

NHÀN thanh cứu cánh rõ âm hao,

NGỌC lành ngự bút thiên cơ chuyển,

NỮ ái Kỳ-Sơn giọt lệ đào.

      Chào chư vị Thiên-Ân, tôi đắc lịnh NHỨT-NƯƠNG giáng báo đàn, vậy chư Thiên-Ân thành tâm tiếp giá.

      (Tiếp điển)

THI:

NHỨT dạ tâm tu chốn học trường,

NƯƠNG thuyền Bát-Nhã cứu tai ương,

Giáng minh Thánh-Ðức người tường tận,

Ðàn nội trung thiên luật giáo đường.

      Chào chư hiền nam nữ.

BÀI:

      Ðường thiên lý luật công rành rạnh,

      Lẽ thiên nhiên chuông thánh reo vang,

            Thần cơ diệu bút Thánh-Hoàng,

Nương theo phưởng phất an nhàn tầm duyên.

      Ðêm canh lụn chèo thuyền xuống ải,

      Ðộ trầm luân thế thái được lên,

            Lên nơi hải-đảo cung-thềm,

Vén màn di-mị tâm bền lướt qua.

      Chư hiền khá tiếp giá NHỊ-NƯƠNG. Ta chào chư Thiên-Ân.

      (Tiếp điển)

THI:

NHỊ hiền chấp chưởng hội bàn-đào,

NƯƠNG ngọn thần cơ trí ước ao,

Tiếp giá châu phê hành thửa lịnh,

Giáng minh lý Ðạo rõ vàng thau.

      Chào chư hiền nam nữ.

BÀI:

            Vàng thau lẫn lộn khó phân,

Mở bừng mắt dậy tỏ lần mới hay.

      Khá biện lý xưa nay cho rõ,

      Hiểu cho rành lời ngỏ quanh co,

            Hết khi điên đảo đặng dò,

Thoát cơn khổ nạn xuống đò lần qua.

      Chìu theo sóng gió nà thổi mạnh,

      Giữ bườm loan thuận cảnh Tây-Phương,

            Chí thành cảm ứng thông đường,

Kêu ca thù kiết an bường mấy khi.

      Hễ biết đặng có chi là khó,

      Quyết chí tâm tìm rõ nguồn cơn,

            Tận lòng son sắc nghe tròn,

Không lay không lạc không mòn tấn lên.

      Khá hiểu Ðạo dưới trên thuận thảo,

      Thương cúc côi hoài bảo tình thương,

            Giữ lòng khoan ái cần bươn,

Ðặng dìu theo dõi náu nương qua ngày.

      Vậy chư hiền tiếp giá TAM-NƯƠNG. Ta chào chư hiền.

      (Tiếp điển)

THI:

TAM Hoàng, Ngũ Ðế phục đời an,

NƯƠNG bách thuyền nan cứu rổi đàn,

Giáng bút châu phê pho THÁNH-ÐỨC,

Ðàn minh rõ lý chiếu cung Hoàng.

      Chào chư hiền nam nữ.

THI:

Bàn-đào hội viện cứu sanh linh,

Thỏa vọng Thiên nhan ý vị bình,

THÁNH-ÐỨC chuyển đời chiêu phục mạng,

Thông linh diệu lý hội tương huỳnh.

BÀI:

            Tương huỳnh phản đối đời mê,

Khá toan lánh chốn não-nề bươn mau.

      Thân hoạt động ái đào tươi tốt,

      Cảnh màu thiền ủ dột hoa chiều,

            Tỉnh say lố cảnh hắt-hiu,

Phiêu phao chấp chưởng tâm thiều khúc nôi.

      Dắt cảnh bèo linh trôi nỗi thảm,

      Ủ dột sương gieo đám hồng sa,

            Thanh lương tri kỷ mặn mà,

Tái lòng nát ruột cỏ hoa đượm nhuần.

      Gió thổi đóa hoa tùng phưởng phất,

      Hột sương gieo ngơ ngác tâm hồn,

            Chiêu hình rù quến Tạo-côn,

Sơn-kỳ hải tú sinh tồn vạn linh.

      Qui chinh bắc sơn-đình mai ẩn,

      Bạn cỏ cây yêm ẩn một tình,

            Ai nào rõ máy tàn linh,

Ngưỡng nhờ từ huệ chứng minh cho cùng.

      Vậy chư hiền tiếp giá TỨ-NƯƠNG. Ta chào hiền sĩ.

      (Tiếp điển)

THI:

TỨ đức đề oanh hội nhứt gia,

NƯƠNG theo máy nhiệm chỉnh nhơn hòa,

Giáng đàn cơ lịnh chiêu hiền đức,

Mừng các chư nho đặng một nhà.

      Chào chư hiền sĩ.

THI BÀI:

            Nhà đồng cơ tạo, đào viên,

Một lòng bổ cứu phỉ nguyền trước sau.

      Lòng nhi nữ âm hao khổ lụy,

      Lòng xét xem bền bỉ đặng nào,

            Chất hình nặng trịu quá cao,

Làm cho linh tánh úa xào linh thông.

      Xưa kia vẫn đạo đồng nhứt mạch,

      Nay Thánh-Kinh chỉ rạch lòng ngay,

            Ðời nay trau chuốc lưỡi dài,

Tinh thần hao kém khó quày vị ngôi.

      Luật xả thân khá bồi đầy đủ,

      Lòng ái nhơn rán thủ như bình,

            Ðộ người giữa lúc hoàng minh,

Nhờ nương theo đấy thân hình khỏi nguy.

      Nầy hiền sĩ khá suy nghĩ cạn,

      Vẹt mây mù cứu nạn đồng bang,

            Rõ câu nhân ái dẫy tràn,

Hậu lai tên tạc bản vàng mới hay.

      Khá tiếp giá NGŨ-NƯƠNG. Ta chào chư hiền sĩ.

      (Tiếp điển)

THI:

NGŨ đạo quân thiên định sắc đề,

NƯƠNG qua bỉ ngạn trở hồi quê,

Giáng phê Thánh-Ðức, Thần, Tiên, Phật,

Ðàn cứu giấc say kíp trở về.

BÀI:

      Trở về nơi thâm khê tứ hải,

      Lựa dịp may chế cải tấm lòng,

            Chuộng người đạo đức tinh thông,

Cứu nhơn thoát khỏi trần hồng đăng Tiên.

      Gió thổi đến bình yên như thử,

      Chiếm thượng thừa hai chữ nhơn luân,

            Tỉnh người hồ điệp băng chừng,

Hết cơn não ruột bâng khuâng tấc lòng.

      Rán để hết tâm không suy luận,

      Phải đề phòng tỷ hứng cảnh xưa,

            Làm cho đặng sắc phụng thừa,

Thiên cơ tròn giữ sớm trưa một lòng.

      Chư hiền tiếp giá LỤC-NƯƠNG.

      (Tiếp điển)

THI:

LỤC dạ xem đời phải chạnh thương,

NƯƠNG dòng dục trí bực thông thường,

Giáng chiêu an lịnh pho Kinh báu,

Ðàn điện hoa sen nở sắc hương.

      Chào chư hiền nam nữ. Ta giáng mừng Kinh THÁNH-ÐỨC cho chúng sanh được nhuần gội, chư hiền khá tiếp giá THẤT-NƯƠNG. Ta mừng cho chư hiền.

      (Tiếp điển)

THI:

THẤT lạc bấy chừ hội hiệp đây,

NƯƠNG vèo thuận cảnh lụy vơi đầy,

Giáng khuyên lời ngọc an tâm trí,

Ðiển chớp kiền khôn khắp cỏ cây.

            Chào chư hiền nam nữ. Hôm nay hội Bàn-Ðào mừng KINH THÁNH-ÐỨC. Thiếp mừng bổn Kinh báu độ đời, ban ơn chư hiền.

----> NEXT

 

Thiên-Lý Bửu-Tòa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674

Website: www.thienlybuutoa.org     Email    Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT

Thông bạch in Kinh