Trở lại trang chánh của Website Thiên Lý Bửu Tòa

 

22.- CHƯ THẦN VIỆT-NAM MỪNG KINH

__________

THI:

KHƯƠNG hòa cơ Ðạo giữa Trời Nam,

THÁI nhựt hoàng huy độ xác phàm,

CÔNG chánh tu hành về thượng cõi,

Giáng mừng Thiên mạng hội sơn đàn.

      Chư Thiên ân thủ lễ tiếp chư Thần Nam-Việt.

      (Tiếp điển)

THI:

trào Nguyễn chúa thuở xưa nay,

VĂN võ kiêm ban mấy kẻ tài,

DUYỆT đảng nịnh thần qui chánh tính,

Giáng cơ hội thượng chốn sơn đài.

* * *

Minh-Ðài giáng bút rất vui mừng,

THÁNH-ÐỨC cứu đời thế sự vâng,

Ðạo lý rành phân câu bác-ái,

Phổ thông chánh giáo sửa phong thuần.

      (Tiếp điển)

THI:

HUỲNH hà sóng bủa gió đưa sao,

ÐỨC hạnh tu Tiên gắng dạ nào,

ÐẾ Ðạo thiện từ lòng chính chắn,

QUÂN thần cộng lạc sửa phong trào.

      Chào chư Thiên ân.

THI:

Lần dò ngọn bút chuyển trên bàn,

Mừng đặng Thánh-Kinh cứu thế gian,

Phổ hóa đông nam qui mỹ tục,

Giáo truyền vạn quốc đắc hòa an.

Kinh chương quí trọng vô điều sánh,

Ðạo lý thâm uyên tận luận bàn,

Cám đội ơn Trời cơn nắng hạ,

Thương dân cho gội trận mưa chan.

      (Tiếp điển)

THI:

lý gặp thu đượm tiết nhuần,

VĂN thần võ tướng cũng triều vưng,

QUÂN vương ẩn mặt rồng xa dạng,

Giáng thế vui trong một tiệc mừng.

      Chào chư Thiên ân.

THI:

Mừng thay chi xiết nỗi lòng mừng,

Ðạo Lý Kinh Trời dạy phải vưng,

Triết học cao sâu Kinh THÁNH-ÐỨC,

Ðạo mầu bí diệu khá mau vâng.

THI:

Mừng Ðạo ngày nay khỏi khổ sầu,

Thánh-Kinh tế độ khắp hoàn cầu,

Thức người hồ điệp về đường sáng,

Dạy kẻ học lầm kiếm lý sâu.

Ðánh nát tâm phàm không vị nể,

Phá màn hắc ám chẳng thương đâu,

Rọi đèn chơn lý dìu người tục,

Cứu cánh trần ai lánh khổ sầu.

      (Tiếp điển)

THI:

lộ từ ngày ngộ Thánh Quân,

CÔNG trình chẳng nệ ngựa chờm chơn,

TÁNH tâm đâu có nài gan sắt,

Giáng thế chào trong một tiệc mừng.

THI:

Mừng cho mối Ðạo đặng phô trương,

Pho THÁNH-ÐỨC Kinh dạy tỏ tường,

Mừng đặng cứu đời cơn mộng ảo,

Mừng vui cứu quốc khỏi tang thương.

      (Tiếp điển)

THI:

NGÔ lào xem cũng chẳng bao xa,

TÙNG lý Ðạo ban đặng hiệp hòa,

CHÂU ngọc biển hồ xưa lố dạng,

Giáng trần mừng đặng hội đào-hoa.

* * *

Mừng đặng giáng cơ chỉ dạy đời,

Mừng thay quí báu bổn Kinh Trời,

Mừng cho dân sự nhuần ân huệ,

Mừng khắp chúng sanh rõ đặng lời.

      (Tiếp điển)

THI:

CHÂU sa ngọc đổ mến thương đời,

VĂN vị mà chi với thế thời,

TIẾP lịnh qua Xiêm cầu tướng giúp,

Giáng nguy truông vắng ngộ nàn ôi!

      Chào chư Thiên ân.

THI:

Mừng thay Kinh báu rải từ đây,

Văn võ chơn truyền đặng rẻ mây,

Thức kẻ trượng phu noi chánh Ðạo,

Tỉnh người quân tử học lời Thầy.

Bổn Kinh THÁNH-ÐỨC vô vi quí,

Pho sách Thần Tiên khó sánh đây,

Cám đội ơn Trời khôn xiết kể,

Nguyện lo học Ðạo bước thang mây.

      (Tiếp điển)

THI:

QUẢNG đại lương từ mới đáng khen,

PHÁP truyền chơn giáo thể cung rèm,

CÔNG minh thức lý tầm tu học,

THẦN Thánh ngự phê quyển Thánh sen.

      Ta mừng chư hiền khanh.

THI:

Cơ đời lắm lúc phải chinh nghiêng,

Do máy hành tàng luống đảo điên,

Thức giấc mộng hồn thương sự thế,

Tỉnh say giác ngộ rõ cơ huyền.

Chung tình gánh vác bồi non nước,

Hợp lý đồng tâm sửa mối giềng,

Lắm lúc khổ cay liều gió bụi,

Ðôi phen thân phải lắm ưu phiền.

THI:

Quí trọng lời Tiên chỉ giáo rành,

Mừng thay đặng học bổn Kinh thành,

Lý chơn dạy rõ như Trời sáng,

Giáo dục phân tường thể Ðất sanh.

Muôn đội ơn Trời Kinh THÁNH-ÐỨC,

Ngàn năm nguyện giữ để nên danh,

Mừng lòng cậy bút châu lời ngọc,

Tả rõ tâm cang với chí thành.

      (Tiếp điển)

THI:

PHAN trường tiêu tứ lúc còn nguy,

CHÂU ngọc giồi trau có dễ gì,

TRINH tiết một lòng hoài Quốc Ðạo,

Giáng mừng hiền sĩ đắc khoa thi.

      Mừng các hiền khanh.

Một kiếp lo đời cũng chưa xong,

Nay vui theo Ðạo quyết tu ròng,

Tu cao cho đáng về Tiên vị,

Tu sửa tâm cang giữ thiện lòng.

Mừng bổn Kinh Trời ban xuống thế,

Mừng thay chi xiết cháu con rồng,

Mừng duyên kỳ ngộ từng muôn thuở,

Mừng học Ðạo mầu nguyện đặng xong.

      (Tiếp điển)

THI:

TỰ toại Bồng-Sơn xét cuộc đời,

ÐỨC gìn tu niệm đặng yên nơi,

TIÊN bang thương chúng dân Hồng-Lạc,

VƯƠNG Ðạo khuyên tu lánh khổ đời.

      Chào chư hiền sĩ.

Ngổn ngang trăm mối chát bên lòng,

Nhìn kỷ chúng dân với núi sông,

Tha thiết phải cam cơn nắng hạ,

Bao chừ mới gặp hội mưa đông.

Ðã tu tu gắng cho nên Ðạo,

Danh lợi đừng cam bận lấy lòng,

Ân hận chớ nên, noi THÁNH-ÐỨC,

Bền tâm thoát khỏi bến trần hồng.

BÀI:

      Bến trần hồng gió đông mưa tạt,

      Hạt sương sa lác-đác thấu xương,

            Cảnh sầu ai khéo vấn vương,

Ðem thân hào kiệt lót đường trầm luân.

      Nghĩ đến đời bâng khuâng tấc dạ,

      Xét đến thân phải trả nợ đời,

            Còn non, còn nước, còn người,

Còn tranh vân cẩu, còn trời nắng mưa.

      Giọt sương mai nhặt thưa điểm liễu,

      Ngọn gió chiều thiu-thỉu giấc kha,

            Dầu cơn cách biệt san hà,

Cũng còn thương nhớ xót xa nơi lòng.

      Biết cuộc thế bưởi bòng cay đắng,

      Nhưng khó phân cho hản tương lai,

            Lánh xong nợ gởi trần ai,

Xem trăng nhớ lúc chương đoài luận suy.

      Cơ võ-trụ ẩn vi trêu ghẹo,

      Khiến lòng người khô héo với lòng,

            Cam lồ tưới biết có xong,

Ðặng cơn hồ điệp nhớ vòng đớn đau.

      Thôi thì quyết gởi vào cửa Ðạo,

      Phú việc đời nha trảo cho đời,

            Kệ Kinh hôm sớm qua thời,

Ðã tu thì quyết cho rồi kiếp tu.

      Mặc sóng lượn cần cù dưới bãi,

      Phú cành dương gió thảy mưa rào,

            Cánh hồng liệu lượng thấp cao,

Ẩn trong vân phủ biết nào rồng bay.

      Lần lựa đến đời xây trở lý,

      Khiến lòng nầy chung thỉ cùng đời,

            Cùng đời nghe thửa những lời,

Những lời khuyên nhủ, những lời lâm ly.

      Dầu trong cuộc thạnh suy hoạn nạn,

      Chẳng qua là làm chán lấy mình,

            Như ta cũng mặc quân binh,

Mà nay nào có dạng hình chi đây.

      Kìa trận gió thổi mây cuốn ngọc,

      Nọ đàn chim đang học líu-lo,

            Chán nhìn tương đối diễn trò,

Sao bằng cảnh trí khỏi lo sự gì.

      Bớ người thế nghĩ suy cho cạn,

      Rồi biết ta mới hản lòng ta,

            Cắt tay ai chẳng thiết tha,

Nhưng trong cơ Tạo có già có non.

            Tu thân rán chí cho tròn.

THI:

Tròn học Thánh-Kinh rán luyện giồi,

Trau tâm hôm sớm bớ người ôi,

May duyên ngộ đặng Tam-Kỳ Ðạo,

THÁNH-ÐỨC CHƠN-KINH rán đắp bồi.

      Ta ban ơn chư hiền.....

      (Tiếp điển)

THI:

PHAN đào lý hạnh trổ vườn thu,

THANH khí xưa nay vẫn hiệp phù,

GIẢNG giáo phò nguy cơn nước biến,

Giáng can tế cấp kẻ thiện từ.

HỰU:

Anh kiệt không qua nổi thế thời,

Chìu theo ngọn sóng lại thêm nhồi,

Một ve thuốc độc đền ơn nước,

Ba tấc thân đây trả nợ đời.

Ai có thấu cho lòng ái chủng,

Người đâu biết đặng phận bèo trôi,

Cuộc cờ xe pháo như cơn mộng,

Lộn xộn vắng tanh với tấc hơi.

BÀI:

       Nhìn đời mà chán cho đời,

Trăm năm như bóng chiều mơi đưa liền.

       Dầu cho cảnh tục người Tiên,

Chẳng qua là nợ tiền khiên có gì.

       Màn Trời vén rõ hiển vi,

Càn-Khôn thiên lý xiết chi rộng dài.

       Xem trong đời thiệt bi ai,

Ðịa cầu ra đặng cõi ngoài khỏi nguy.

       Muôn nghìn thế giái nghĩ suy,

Cái khô đã mạt, cái thì đương xanh.

       Có đâu ai lại tranh giành,

Miễn là thoát đặng chỗ manh mối tìm.

       Còn thân, còn lợi, còn quyền,

Hết thân thì cũng khổ phiền chớ sao.

       Ôi thôi! việc thế chiêm bao,

Trong vòng luân chuyển thấp cao khó bày.

       Thiết tha thương nhớ ái hoài,

Còn dây tư tưởng thì hay đau lòng.

       Quyết lòng thôi cũng quyết lòng,

Ðoạn tình ân ái đặng xong mới là.

       Cõi Trời còn rộng bao la,

Tìm phương siêu thoát cho qua chốn sầu.

       CHƠN-KINH THÁNH-ÐỨC lo âu.

      Ta mừng chư hiền. Chư hiền thành tâm cầu VĂN-XƯƠNG ÐẾ-QUÂN.

      (Tiếp điển)

THI:

VĂN võ Ðạo tâm chiếm thượng thừa,

XƯƠNG thâm lý nhiệm bóng hồng đưa,

ÐẾ Vương đạo-đức nhà yên quốc,

QUÂN tử nệ chi nỗi lận lừa.

      Ta chào chư hiền.

      Pho THÁNH-ÐỨC nay cũng đã hoàn tất, Ta giáng mừng cho chư hiền được một dịp rất nên may mắn mà lập đại kỳ công. THÁNH-ÐỨC rất quí mầu vô giá, dầu của muôn tiền triệu cũng không thể nào so sánh đặng!!! Vì THÁNH-ÐỨC cứu cánh cho nhơn sanh được giải thoát lưới trần, biết luật Trời mà gìn tâm tu niệm.

      Ôi! rất quí hóa thay! lưu truyền vạn đại, bất câu là hạng dân nào, tôn-giáo nào, hễ để tâm vào quyển THÁNH-ÐỨC thì ăn-năn giác ngộ liền.

BÀI:

      Nơi cảnh Thánh khuôn Trời sẽ hản,

      Chốn trần gian gieo cảm cho đời,

            Phá mù vẹt lối khắp nơi,

Thức người tỉnh giấc chiều mơi hồi đầu.

      Quyển THÁNH-ÐỨC đâu đâu cũng nể,

      Chuyển mê hồn chớ để khờ ngây,

            Trông vào sẽ rõ luật Thầy,

Hết cơn ảo tưởng vui vầy tốt tươi.

      Thánh-Kinh Trời vui cười khách Ðạo,

      Nhớ từ-bi chỉ bảo tương tri,

            Thanh thanh gió mát vân phi,

Non Tần đảnh khứu tuyết thì pha sương.

      Lẩn thẩn chốn non chương ngâm phú,

      THÁNH-ÐỨC truyền bao phủ Kiền-Khôn,

            Phá say cho tỉnh tâm hồn,

Vén màn mê mộng non Côn hưởng nhàn.

      Thành tâm tiếp điển MAU-TOẠI CHƠN-NHƠN.

      (Tiếp điển)

THI:

MAU chơn bước lẹ thoát dinh hoàn,

TOẠI chí hưởng nhàn được vẹn an,

CHƠN giả biện phân cho thấu đáo,

NHƠN luân Kinh luật nẽo vu san.

      Bần-đạo chào chư hiền sĩ.

THI:

Giáng mừng THÁNH-ÐỨC cứu đời an,

Thoát chốn trần gian khỏi lụy tràn,

Tỉnh giấc hoàng lương mau bước kịp,

Ngộ kỳ đại-hội đến Tiên bang.

* * *

Tiên bang thi hội đoạt kỳ công,

Công đức trau tria thoát khỏi lòng,

Lòng dạ thanh cao mong hiểu đặng,

Ðặng rồi mới đến cảnh Lai-Bồng.

* * *

Lai-Bồng vui hưởng mấy nghìn thu,

Thu thủy trong veo thoát ngục tù,

Tù túng trần gian hoài đến thác,

Thác đành uổng một kiếp công phu.

* * *

Công phu hôm sớm ấy là tu,

Tu sửa kỷ cang vẹt ngút mù,

Mù mịt khó toan quày trở bước,

Bước lên thượng đảnh thú muôn thu.

* * *

Muôn thu toại hưởng chí thanh nhàn,

Thanh khiết tâm trần được vững an,

Lành dữ hai đường tùy ý chọn,

Cảnh Tiên mau đến hội Tiên bang.

* * *

Tiên bang cảnh đẹp lúc trăng tròn,

Tròn méo biện rành dạ sắt son,

Son sắt tận lòng toan nhứt dạ,

Dạ tu thì cũng hưởng ân còn.

* * *

Ân còn cội lý lúc mưa dào,

Dào đẩy sương gieo gió thổi rao,

Rao nhịp thanh tân đờn Tạo-Hóa,

Hóa châu phun ngọc chí tâm hào.

* * *

Tâm hào chí khí vững đăng Tiên,

Tiên Thánh ngự phê huấn giáo truyền,

Truyền lại cho đời mau tỉnh ngộ,

Ngộ Kinh THÁNH-ÐỨC vững lòng yên.

* * *

Lòng yên thanh tịnh thật là hay,

Bận bịu hồng trần rất khổ thay,

Thay đổi chi người không có chí,

Chí mong hưởng phước chớ lòng hai.

* * *

Lòng hai khó vẹn tấm màn trời,

Trời chuyển cơ quan cứu nạn đời,

Ðời Ðạo hai nơi tùy lựa chọn,

Mới mong thoát khỏi chỗ trần vơi.

* * *

Trần vơi lắm lúc chịu tai nàn,

Nạn lánh động Tiên định tĩnh an,

An tịnh chỗ nhàn chim vượn hú,

Hú kêu khách tục thoát lầm than.

BÀI:

            Chuông vàng khánh ngọc kêu vang,

Vang đầy cảnh tỉnh Ðạo vàng cứu nhơn.

      Nhơn sanh thức giọng đờn cứu khổ,

      Khổ lắm thay vì chỗ bảo bùng,

            Bùng than lắm lúc lao lung,

Lao lung qua khỏi anh hùng mới cao.

      Châu lệ thảm phong trào quốc thể,

      Bể trầm luân tìm kế thoát thân,

            Thân hình lắm chịu phong trần,

Trần ai tai nạn lắm lần tang thương.

      Thương cho đời chưa tường lý Ðạo,

      Ðạo cao siêu bổ báo ơn nhà,

            Nhà an quốc thạnh san hà,

Hà đồ sắp đặt cho ra vẽ người.

      Người quân tử thanh tươi chí hạnh,

      Hạnh người tu phải tránh cuộc đời,

            Ðời tàn lao lý an nơi,

Nơi lòng lo học Ðạo Trời quang minh.

      Minh lý chánh huỳnh-đình sơn thượng,

      Thượng chơn-tâm qui hướng thiên-cơ,

            Cơ Trời phẳng lặng như tờ,

Tờ mây gió mát cuộc cờ thanh tân.

      Tân dân Ðạo bước lần học hỏi,

      Hỏi Thánh Kinh tìm tỏi đêm ngày,

            Ngày giờ nhặt thúc chớ say,

Say mê vật chất khó quày đường chơn.

      Chơn-Lý Ðạo keo sơn gắn chặt,

      Chặt lòng tu son sắt một màu,

            Màu trời đủ sắc tiêu dao,

Dao du Bắc-Hải ngạt ngào cung trăng.

      Trăng tỏ rạng đêm rằm phăng phắt,

      Phắt như tờ đặc sắc gió êm,

            Êm chèo xuôi nước cung thềm,

Thềm Tiên rán lánh phù diêm cho thành.

      Thành tâm chí Ðạo lành hướng thiện,

      Thiện nhơn luân tân tiến thường tình,

            Tình đời ngán ngẩm linh đinh,

Ðinh ninh nhứt dạ Thiên-Ðình nêu gương.

THI:

Gương thơm chiếm giải đoạt công đầu,

THÁNH-ÐỨC CHƠN-KINH rán chí thâu,

Bớ khách tài hoa tròn đức hạnh,

Học thông chánh Ðạo hết than sầu.

      Bần-đạo ban ơn chư hiền, khá tiếp lịnh THẦN-HOÀNG BỔN-CẢNH.

      (Tiếp điển)

THI:

THẦN ẩn cứu dân khỏi nạn sầu,

HOÀNG trình cực nhọc đã từ lâu,

BỔN Kinh Thánh-Ðức dìu sanh chúng,

CẢNH Ðạo dạy rành rõ lý sâu.

      Ta mừng chư nho sĩ.

BÀI:

      THÁNH-ÐỨC Kinh nhị pho kết liễu,

      Chí tu cầu rán hiểu từ câu,

            Trông ra sẽ đoạt cơ mầu,

Chạnh lòng hiếu đạo dãi dầu nệ chi.

      THÁNH-ÐỨC Kinh huyền vi lắm bấy,

      Máy linh cơ đưa đẩy quá mau,

            Làm cho những bực anh hào,

Bước lên đạo-đức chẳng ngao ngán lòng.

      Pho Thánh-Huấn giải xong tao nhã,

      Như giọng đời rỉ rả đêm khuya,

            Rán xem cho hẳn rạnh bia,

Xét suy tột lý phân chia đâu nào.

      Lòng thắt thẻo tâm bào ái truất,

      Bởi mê trần thốn thức nào an,

            Kinh Trời như thể sen vàng,

Ðen màu trổ nhụy huy hoàng thanh tươi.

      Lòng ngao ngát vui cười THÁNH-ÐỨC,

      Dạ chí lâm Tây-Vức bước lần,

            Rán mà un-đúc tinh thần,

Chí tâm tu niệm đạt lần cơ quan.

      Khá hiểu máy hành tàng vận chuyển,

      Thì tự nhiên hiển hiện nào sai,

            Phép Trời huyền diệu linh oai,

Chiếu phê Kinh Kệ giồi mài lý chơn.

      Khá hiểu giọng tiếng đờn ngâm khúc,

      THÁNH-ÐỨC Kinh hối thúc nhơn sanh,

            Tỉnh hồn lần bước đặng thanh,

Rõ lòng nhơn nguyện Thiên thành mới hay.

      Khuyên chư hiền chớ sai Kinh Thánh,

      Khá lọc lừa mà sánh bực tu,

            Cảnh Tiên quí báu ngàn thu,

Trần gian lao khổ, diêm phù long đong.

      Chiêu trí thức chí công an tịnh,

      Chọn nhơn tài chính đính nương nhau,

            Kết dây thân ái một màu,

Vững tâm mới rõ sen đào thơm tho.

      Giữ giòng Ðạo một lò khắn khít,

      Chớ lơi tâm vấn-vít theo đời,

            Khiến cho bối rối chiều mơi,

Làm cho khó đặng thảnh thơi linh hồn.

      Thánh-Ðức CHÍ-TÔN biện lẽ,

      Quyết chung tình thì sẽ thoát vòng,

            Trần ai tục lụy não nồng,

Làm cho lao khổ khó hòng giải vây.

      Quyển THÁNH-ÐỨC nay Thầy ban rải,

      Luật ẩn vi từ mảy-mún rành,

            Chương nào cũng chỉ đành rành,

Cho người đặng hiểu đường lành lý chơn.

      Nghe dạy phải keo sơn gắn bó,

      Ðặng mà dìu dắt ngỏ chúng sanh,

            Kinh luân rán chí học hành,

Giữ tâm thanh tịnh lòng thành thoát nguy.

      THÁNH-ÐỨC Kinh nghĩ suy hiểu cạn,

      Lời dạy rành chánh đáng cơ mầu,

            Ðạo Thầy phải rán lo âu,

Kinh dìu nhơn loại thoát sầu được vui.

      Mừng THÁNH-ÐỨC ngậm ngùi tấc dạ,

      Ơn Trên bày giải cả đêm thanh,

            Nương mây đàn nội chỉ rành,

Khuyên nhơn sanh rán lòng thành thỉ chung.

      Giáng điển quang phân cùng từ dấu,

      Dạy chúng sanh cho thấu tu hành,

            Kẻo lầm tà mị đàn quanh,

Chiêu an các giáo mối manh ngọn nguồn.

      Quí hóa thay tiếng chuông THÁNH-ÐỨC,

      Cứu chúng sanh khỏi vực ái hà,

            Quả xưa rày cũng đặng qua,

Nhờ tu học Ðạo cao xa tinh thần.

THI:

Tinh thần THÁNH-ÐỨC nhị pho vàng,

Ðánh thức nhơn tâm vững trí an,

Mở mắt trông vào người nể mặt,

Làu làu gương rọi rõ huyền quang.

      Khá thành tâm tiếp lịnh NHỨT-PHẨM CÔNG-ÐỨC CHI-THẦN.

      (Tiếp điển)

THI:

NHỨT đức nhứt tâm kiếm Ðạo lành,

PHẨM Tiên ngôi Phật chức cao xanh,

CÔNG-bình, bác-ái noi gương huệ,

ÐỨC cả tầm tu rõ ngọn ngành,

CHI nhọc tấm thân mừng Thánh-Ðức,

THẦN linh ủng hộ bực tài lành,

MỤC chiêu nhơn trí tâm thanh tịnh,

THANH điển giáo thông nẽo vạn sanh.

      Bổn-Thần chào chư hiền nam nữ.

THI:

THÁNH-ÐỨC CHƠN-KINH độ rổi đời,

Cứu an sanh chúng rõ cơ Trời,

Lập thân trau tánh cho toàn vẹn,

Mới rõ thiên linh chiếu sáng ngời.

* * *

Sáng ngời điển chớp khắp Kiền-Khôn,

Bao phủ chung quanh độ các hồn,

Giải thoát mộng trần cơn nghiệp chướng,

Phá vây bốn vách đến Thiên-môn.

* * *

Thiên-môn Tiên cảnh chiếu hào quang,

Ngào ngạt mùi hương khắp thế gian,

Ðiên đảo hết cơn nhờ học Ðạo,

Non Tiên động Thánh chí thanh nhàn.

BÀI:

            Thanh nhàn nghĩ đến đời thương,

Cũng vì mộng ảo đoạn trường lắm phen.

      Thầy NGỌC-ÐẾ vén rèm thiện đức,

      Ðộ chúng sanh thoát vực hố hầm,

            Ban Kinh THÁNH-ÐỨC cao thâm,

Giải rành lý nhiệm đò thần các nơi.

      Khá rõ máy cơ Trời luân chuyển,

      Luật Tạo-Công thiên biến vạn hình,

            Cứu an sanh chúng non huỳnh,

Rõ thông Ðạo mạch sân trình công phu.

      Khá mở mắt vẹt mù thấy rõ,

      Rõ linh cơ hầu ngỏ độ đời,

            Chiêu an bá tánh chiều nơi,

Hết cơn khổ nạn thạnh thời nhà an.

      Khuyên chư nho lo giềng Ðạo cả,

      Rán lập công bồi quả hiện thời,

            Thánh Kinh nhị quyển luật Trời,

Chí công hành Ðạo lánh đời chớ sai.

      Tầm mối Ðạo một hai sẽ hản,

      Hản cuộc đời như đám phù vân,

            Vân phi bao phủ non Tần,

Non Tần qua khỏi muôn phần ngao du.

      Pho THÁNH-ÐỨC lo tu giải thoát,

      Thoát mộng trần thắng đoạt tai nguy,

            Nguy nàn lắm phải trễ kỳ,

Kỳ Long-Hoa hội khó thi đặng vào.

      Mừng Thánh-Ðức một màu chơn lý,

      Lý cao siêu ám chỉ tâm người,

            Người đời giả cuộc thương ôi,

Ôi là đau thảm bồi hồi lòng đây.

      Bộ Kinh vàng của Thầy ban rải,

      Rải tứ phương chế cải tâm phàm,

            Phàm phu tục lụy còn ham,

Ham mê nên nổi bị vàm quỉ ma.

      Thần giáng mừng Ðạo nhà thực tế,

      Tế ngôn từ cải chế vạn linh,

            Linh hồn hưởng phước cao minh,

Minh tường lý lẽ vân trình động Tiên.

      Kinh THÁNH-ÐỨC tỉnh khuyên khách tục,

      Tục thế đời lắm lúc đau thương,

            Thương cho sanh chúng đoạn trường,

Trường đồ mã lực phô trương lý mầu.

      Quyển Kinh báu gìn câu bác-ái,

      Ái thu đông khẳng khái cao siêu,

            Siêu bờ Ðạo ngạn Thánh triều,

Triều đưa ánh Ðạo bóng thiều trở xây.

      Quyển Kinh Trời cứu bầy khờ dại,

      Dại nên khôn khá cải tâm trần,

            Trần hoàn bị vướng sa chân,

Chân tay cử động trở thân dễ dàng.

      Chuyển mê hồn tâm càng phát triển,

      Triển mối manh tâm tiến quán thông,

            Thông thường mọi lẽ đại-đồng,

Ðồng tình liên kết một lòng đởm đương.

      Chuyển mê mộng dẫn đường chúng khổ,

      Khổ vì nơi tại chỗ mịt mờ,

            Mờ nào thấy đặng Thiên cơ,

Cơ quan phát hiện cuộc cờ công minh.

      Chuyển mê đời công trình cực nhọc,

      Nhọc lao tâm cho vóc giải rành,

            Rành lời châu ngọc đêm thanh,

Thanh thao êm dịu khá hành theo mau.

      Chuyển mê chúng tiêu dao hưởng hứng,

      Hứng sương mai cảm ứng tâm lòng,

            Lòng hay có biết chăng lòng,

Lòng nào tường tấc đại đồng hậu lai.

      Chuyển mê ảo ra tài vén ngút,

      Ngút mù mây phá đục lóng thanh,

            Thanh nhàn vui hưởng chí thành,

Thành tâm ngưỡng vọng mối mành tường thông.

      Chuyển giấc điệp sửa lòng cao khiết,

      Khiết đặng rồi mới biết Trời cao,

            Cao xanh chứng mạng kẻ hào,

Hào hoa tuấn kiệt một màu tu mi.

      Chuyển cơ đời kịp kỳ đại hội,

      Hội Hoa-Long tương đối tương đồng,

            Ðồng tình nương dựa thần công,

Công-bình bác-ái đại đồng lý chơn.

      Chuyển mê trần rõ đờn vô phiếm,

      Phiếm không dây ai kiếm đặng nào,

            Nào đời tranh thấp giành cao,

Cao rồi xuống thấp, thấp cao cũng đồng.

      Chuyển mê tỉnh rõ lòng chánh kỷ,

      Kỷ cương vưng chỉ lý độ đời,

            Ðộ đời chan chứa chẳng lơi,

Ðời văn minh lắm thì bời rời nhau.

      Chuyển nhơn chúng lòng cao khiết thức,

      Thức đừng rời hữu đức trượng phu,

            Phu tình độ bạn sòng tu,

Tu tâm giải khổ nghìn thu an nhàn.

      Chuyển chúng khổ được an vui chí,

      Chí vững lòng chung thỉ nào phai,

            Phai lòng trần tục chớ sai,

Say sưa sau phải đắng cay muôn phần.

      Chuyển mê tâm ân cần sốt sắng,

      Sốt sắng nên phẳng lặng êm trời,

            Trời dìu chủng loại khắp nơi,

Nơi nơi an tịnh rõ thời cuộc xây.

      Chuyển khắp chốn vui vầy nhứt thống,

      Thống một đường linh động cội nguồn,

            Nguồn Trời Ðạo mạch như khuôn,

Khuôn lồng hãm nhốt như tuồng mê man.

      Chuyển cơ hội chiêu an sanh chúng,

      Chúng linh tàng hành đúng cơ Thiên,

            Thiên ân Ðạo cả một giềng,

Giềng ba nắm mối như nguyền nhứt tâm.

      Chuyển mê chúng cơ thâm phá lối,

      Lối mê man tội lỗi trần hồng,

            Hồng gian chen lấn chim lồng,

Lòng người ám muội khó trông thoát sầu.

      Chuyển có lý cạn sâu bi diệu,

      Diệu cơ Trời khá hiểu cho cần,

            Cần lo hôm sớm từ lần,

Lần dò xét nét cân phân tận lòng.

      Chuyển phá lối não nồng đau khổ,

      Khổ lắm hiền lố nhố tại ai,

            Ai người vui đắm mê say,

Say mùi Ðạo lý Bồng-Lai được kề.

      Chuyển nhơn tâm được về chánh giác,

      Giác mê hồn hiểu đạt quang minh,

            Minh tâm kiến tánh Ðạo Huỳnh,

Huỳnh môn mở cửa rước linh quang từ.

      Chuyển nhơn loại chơn như qui tựu,

      Tựu điển quang ký chú tu hành,

            Hành công quả vẹn tận lành,

Lành rồi mới biết cao xanh diệu mầu.

      Chuyển chủng loại gồm thâu một mối,

      Mối Thiên-cơ một khối tinh thần,

            Thần Tiên Thánh Phật giáng trần,

Trần ai nương giải lần lần hết tai.

      Chuyển mê ngó thiên oai cảm hóa,

      Hóa nên người như cá hóa cù,

            Cù nằm đáy biển cù tu,

Tu thành rồng phép muôn thu hưởng nhờ.

      Chuyển cơn mê đặng thờ Ðạo cả,

      Cả tiếng kêu nho nhã quần sanh,

            Sanh ra mấy kiếp tu hành,

Hành theo THÁNH-ÐỨC đường lành trổi chơn.

THI:

Trổi chơn gặp bạn hiệp tâm đồng,

Giải quyết nổi điều tạc cả xong,

THÁNH-ÐỨC CHƠN-KINH tường nghĩa vụ,

Tu hành hôm sớm mới ghi lòng.

      (Tiếp điển)

THI:

THỔ nương mây bạc giáng Kỳ-Sơn,

HÀNH đạo đức cao dạ chớ sờn,

TÔN pháp qui tông tuân chiếu lịnh,

Mừng pho Thánh-Ðức rõ hiền nhơn.

Thánh truyền chánh lý qui đồng loại,

Ðức giáo Chơn-Kinh giải mộng hồn,

Chuyển các tánh tâm hườn nhứt thống,

Mê đời tỉnh giả đặng về chơn.

BÀI:

      Về chơn kịp khoa trường thi hội,

      Chiếm bảng son tuyệt đối lý mầu,

            Khá toan kiếm lý cao sâu,

Vẹt cơn mộng ảo thoát cầu giải vây.

      Rán lóng đờn không dây ru dắt,

      Tỉnh say rồi lật đật lo tu,

            Chí tâm quyết thoát diêm phù,

Tận tình cương quyết nghìn thu hưởng nhàn.

      Vậy mới khỏi lầm than đau khổ,

      Tỉnh giấc nồng tìm chỗ tinh thần,

            Nương thuyền Bát-Nhã kề gần,

Bôn hành dậm thẳng lần lần cứu nhơn.

      Rưới cam-lồ được đơn tươi nhuận,

      Cho hết mê tạo dựng tu hành,

            Xem qua thấy rõ ngọn ngành,

Chí thành cảm ứng hiệp thành thiên cơ.

      Ai khéo sắp cuộc cờ chạnh dạ,

      Mà lá lay ổn thỏa chìu lòn,

            Mấy phen khó nhọc gánh đòn,

Cho đồng một mực vuông tròn không sai.

      Lòng thốn thức ai hoài than thở,

      Lòng xem qua chẳng nở vui mừng,

            Não nề cuộc thế bâng khuâng,

Nhờ Kinh THÁNH-ÐỨC tưới nhuần rưới chan.

      Giọt cam-lồ độ an khắp chỗ,

      Huấn giáo ban ôn cố tu tầm,

            May sau khỏi chốn luân trầm,

Rõ ràng cơ chuyển huyền thâm thế nào.

      Gió hướng bắc lao rao thổi đến,

      Thuyền rồng kề bên bến vớt người,

            Biết tu tâm chí thanh tươi,

Mau chơn bước lẹ kịp người đò đưa.

      Hễ trễ nãi thì chưa thấy bến,

      Tâm trù trì khó đến chỗ xưa,

            Làm sao đến đặng thượng thừa,

Khá mau tỉnh giấc tương dưa tu tầm.

      Chăm từ nét suy tầm nghiên cứu,

      Khá biện rành bổ cứu cho nhau,

            Vững tâm vững dạ yên hào,

Ðạo mùi ngào ngạt giọt đào thơm tho.

      THÁNH-ÐỨC vốn một lò triết lý,

      Nghĩ suy cùng ý chí kềm lòng,

            Thanh cao thực hiện đại đồng,

Mới là kết cuộc thành công đoạt tài.

      Mới đáng phận râu mày anh tuấn,

      Ðứng nam nhơn tỷ hứng tiên chơn,

            Ðạt cơ máy nhiệm keo sơn,

Hiệp hòa liên ái khảy đờn vô dây.

      Tiếng phù trầm cứu bầy Hồng-Lạc,

      Giọng thanh tao lác-đác tạc vào,

            Phun châu nhả ngọc tiêu dao,

Huỳnh tương yến ẩm phiêu phao Lai-Bồng.

      Chí nung nấu nho phong an lạc,

      Phấn tâm bền vững đạt dìu nhơn,

            Hiền tài mấy bực du sơn,

Quên câu chung trí nguồn cơn rõ lòng.

      Dầu cho phải tinh thần hao kém,

      Miễn độ đời vun bén Ðạo tâm,

            Cho người thoát khỏi hố hầm,

Mới trang anh kiệt rõ thâm cơ huyền.

      Lý mầu vi thâm uyên bí diệu,

      Máy chuyển xây đơn chiếu độ trần,

            Cho người thức giấc lao tân,

Hết cơn điên đảo lần lần thoát tai.

THI:

Thoát tai vượt khỏi đám sương mù,

Chấn chỉnh Ðạo nhà mới hạnh tu,

Chiêu mộ hiền nhơn cho vững chắc,

Cơ mầu lý tưởng lệ ôn nhu.

PHÚ:

      Xem cuộc trần nghĩ thảm cho thân đau đớn.

      Dòm lại người đáng buồn thay trưa sớm khéo cần chuyên.

      Rán chí tâm đặng bước xuống đạo-đức ấy con thuyền.

      Hết cơn mộng mới rõ liền cơ xây chuyển.

      Xem thế thái nhơn tình còn quyến luyến.

      Bởi say mê nên khổ phận khó biện nẽo chánh tà.

      Ớ người khá mở mắt thần mà dòm ngó cho xa.

      Mới đặng hiểu mối Ðạo nước nhà Tam-Kỳ Phổ-Ðộ.

      Ðạo của Thầy cứu an sanh chúng thoát vòng đao khổ.

      Khuyên người đời khá tỉnh giấc mộng trường đặng tìm chỗ ẩn nương.

      Rồi mới rõ THÁNH-ÐỨC CHƠN-KINH là con đường Tiên-Thiên Ðại-Ðạo.

      Chí tâm thành rán lo mà bổ báo.

      Hiểu lý chơn hết mộng ảo khỏi sầu não thoát lần lên.

      Khá gắng cần ôn cố tâm bền.

      Lòng chơn chánh biết nghe đờn thanh thao tao nhã.

      Xem cuộc đời mà phải lụy rơi lả-chả.

      Bớ khách trần mau nhả bả lợi danh.

THI:

Danh lợi say mê phải lụy tràn,

Tu hành chơn giáo khỏi lầm than,

Chí công học tập bồi âm chất,

Thoát khỏi trầm mê chiếm bảng vàng.

      Bần-đạo ban ơn chư hiền.....

 

----> NEXT

Thiên-Lý Bửu-Tòa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674

Website: www.thienlybuutoa.org     Email    Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT

Thông bạch in Kinh