Trở lại trang chánh của Website Thiên Lư Bửu Ṭa
|
Chương III KHÁI
LƯỢC VỀ LĂO GIÁO VIỆT NAM [1] LÊ ANH DŨNG Cái
học Lăo Trang trong sáu, bảy thế kỷ trước công
nguyên ở Trung Quốc (thời Xuân thu Chiến quốc)
[2] là một học thuật tư tưởng. Các đạo
gia không chủ trương những điều huyền bí.
Trước cảnh thiên hạ đại loạn họ
chọn cuộc sống ẩn dật, di dưỡng thiên
chân. Từ thế kỷ I, thời Đông Hán (Hậu Hán),
với Trương Đạo Lăng,[3] cái học Lăo
Trang biến thành một tôn giáo, gọi là Đạo giáo,
Lăo giáo. Đạo
giáo phát triển muôn vẻ. Các đạo sĩ (phương
sĩ) chuyên tâm vào bùa chú (phù chú hay phù lục), luyện
đan. Họ được gọi là phái thần tiên
đan đỉnh và phù lục. Toàn bộ kinh điển
Đạo giáo rất phức tạp, gồm 5.485
quyển, gọi chung là Đạo tạng, gồm Chính
Đạo tạng, Tục Đạo tạng.[4] Đạo
giáo có nhiều môn phái, rất phức tạp, một
số phái chủ yếu là: -
Phái Chính nhất (Thiên sư đạo), phát triển
mạnh ở phương Nam, tôn Trương Đạo Lăng
làm Thiên sư; con cháu họ Trương đời đời
làm thủ lănh. Các đạo sĩ không xuất gia,
gọi là hỏa cư đạo sĩ. -
Phái Toàn chân, xuất hiện thời Liêu Kim, phát triển
rộng ở phương Bắc, có cả đạo sĩ
và đạo cô, đều xuất gia, gọi là mao sơn
đạo sĩ.[5] Có
thể Lăo giáo du nhập Việt Nam khoảng thế
kỷ II, bấy giờ đă mang màu sắc Đạo giáo.
Nguyên v́ ở Trung Quốc, sau khi Hán Linh đế mất
(năm 189), xă hội đại loạn, người Hán
chạy sang Giao Châu lánh nạn rất đông, trong đó
có nhiều đạo sĩ tịch cốc (nhịn ăn),
luyện pháp trường sinh.[6] Quan
lại Trung Quốc sang đô hộ nước Nam hầu
như đều sính phương thuật. Theo Đại
Việt sử kư toàn thư, quyển 3, Thái thú Sĩ
Tiếp (Sĩ Nhiếp) lâm bịnh, chết đă ba ngày,
lại được một đạo nhân là Đổng
Phụng đến cho thuốc cải tử hoàn sinh.[7]
Lại chép việc Thứ sử Trương Tân (sang Giao
Châu từ năm 201) hay đội khăn đỏ, đọc
kinh sách Đạo giáo.[8] Đời Đường, năm
865, Cao Biền sang nước Nam đàn áp các cuộc
khởi nghĩa của dân Việt. Họ Cao là một
thuật sĩ có hạng, chuyên về phong thủy, ráo
riết t́m phá long mạch, trấn yểm các nơi anh
linh tú khí của nước Nam, cốt ư cho nước
Nam không c̣n sinh ra nhân tài, anh hùng hào kiệt, sẽ
phải lệ thuộc dưới ách đô hộ của
phương Bắc đời đời. Đạo
Lăo Việt Nam cũng khá phức tạp, vừa mang màu
sắc Đạo giáo, vừa chịu ảnh hưởng
các Đạo gia, và đồng thời cũng kết
hợp với Thần đạo của người
Việt; v́ thế, đạo Lăo ở Việt Nam có
nhiều khuynh hướng. 1.
MẤY KHUYNH HƯỚNG TIÊU BIỂU CỦA LĂO GIÁO
VIỆT NAM a.
Khuynh hướng phù chú và bạo động Bùa
chú trong một thời gian dài có ảnh hưởng đến
sinh hoạt xă hội. Chẳng hạn, cọp được
coi là loài thú có thể khu trừ tà ma, do đó nhiều
nhà dán bùa vẽ h́nh cọp trước cửa để
che chở gia đ́nh, và lá bùa ấy có tên “Trừ tà
trị bệnh, trấn trạch b́nh an”. Đạo
giáo có sức lôi cuốn nông dân vào các hội bí
mật, hoặc để tương trợ nhau chống
lại cường hào ác bá, hoặc để mưu
đồ quốc gia đại sự. Đời
Trần Phế đế, ở lộ Bắc Giang có
Nguyễn Bổ, năm 1379 xưng vương, hiệu
Đường lang Tử y.[9] Đời
Hồ có Trần Đức Huy cũng dùng phương
thuật thu hút đông người theo,[10] bị Hồ Quư
Ly dẹp năm 1403. Thời
kháng Pháp có đạo sĩ Trần Cao Vân (1866-1916), tên
thật là Trần Công Thọ, hiệu Hồng Việt, quê
làng Tư Phủ, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng
Nam. Miền Nam có Thiên địa hội lôi cuốn hàng ngàn
người. Có Phan Phát Sanh (Phan Xích Long) xưng hoàng đế,
nổi lên đánh Pháp (cuối tháng 3.1913); nghĩa quân
đeo bùa, mang giáo mác, gậy gộc, bất chấp súng
đạn của giặc.[11] C̣n rất nhiều những
phong trào như thế khắp cả nước, như
Mạc Đ́nh Phúc (miền Bắc), Vơ Trứ (miền
Trung), Nguyễn Hữu Trí (miền Nam)... 2.
Khuynh hướng phong thủy và sấm kư Khoa
phong thủy (địa lư) ở nước Nam và việc
tiên tri loan truyền sấm kư rất được
quần chúng ưa thích. Đời
Trần-Hồ ở lộ Tân Hưng có Trần Quốc
Kiệt làm quan chức an phủ sứ, soạn H́nh
thế địa mạch ca.[12] Đời
Mạc có Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), hiệu Bạch
Vân Cư sĩ, đời gọi Trạng Tŕnh, nổi
tiếng v́ nhiều tiên tri kư bí. Đời
vua Lê chúa Trịnh ở làng Tả Ao, tỉnh Nghệ An, có
Nguyễn Đức Huyên vang danh nhờ khoa địa lư. Đời
Tây Sơn ở huyện La Sơn, tỉnh Hà Đông có
Nguyễn Thiếp (La Sơn Phu tử) cũng nổi
tiếng về phong thủy. Sấm
kư cũng được nhiều cao tăng sử
dụng. Làng Cổ Pháp, tỉnh Bắc Ninh, trong phái
Tỳ-ni-đa-lưu-chi (Vinitaruci) có nhiều nhân vật
lừng lẫy: sư Định Không (thế kỷ VIII,
đời thứ tám); sư La Quư An (852-939, đời
thứ mười); sư Vạn Hạnh (thế kỷ XI,
đới thứ mười hai)...
3.
Khuynh hướng trường sinh bí thuật Vua
Trần Dụ tông (1341-1369) cầu đạo trường
sinh với đạo sĩ Huyền Vân tu ở núi
Niết (núi Phụng Hoàng), huyện Chí Linh, tỉnh
Hải Dương. Đời Trần Thuận tông
(1388-1398) có quan tri huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, tên
Từ Thức, người Hóa Châu. Đời Trần
Hồ ở xă Cổ Định, huyện Nông Cống,
tỉnh Thanh Hóa, có Trần Tu vào ẩn tu ở núi Nưa
(Na Sơn). Đời
vua Lê chúa Trịnh ở huyện Đông Thành có Phạm
Viên... Triều Lê Cảnh hưng có Nguyễn Hoăn, làng Lan
Khê, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa, làm quan Lại
bộ thượng thư, Viện quốc công, Quốc sư
Quốc lăo. Gia phả họ Nguyễn, mục Tiên
khảo đạo tu lục cho biết ông tu tiên từ
năm ba mươi ba tuổi (Ất Sửu 1745), đọc
Đạo đức kinh. Năm bốn mươi
bốn tuổi lập tĩnh thất để tu luyện
ngay trong nhà. Năm bốn mươi tám tuổi thờ
thần Ngũ Nhạc. Sau lại xây thêm tháp mười
hai tầng để luyện khí âm dương... V́
cuồng vọng, ông về sau đi lạc sang tà đạo.
Mất năm 1792, thọ tám mươi tuổi.[13] 4. Phương hướng
thanh tĩnh, nhàn lạc Triết
lư vô vi thanh tĩnh của Lăo Trang ảnh hưởng
giới Nho sĩ rất nhiều, tạo cho con người
xu hướng ẩn dật, ưa thích gần thiên nhiên,
t́m cái thú nhàn lạc bên chén rượu cuộc cờ,
tiêu dao với ngón đàn, vần thơ, hay nét thư
họa... Xu hướng này thích hợp khi con người
không gặp thời, hoặc khi đă chán cuộc đời
phồn tạp. V́ thế, Nho sĩ Việt Nam thời xưa
luôn luôn trang bị cho bản thân tư tưởng
xuất xử. Gặp thời hay, được thi
thố tài năng th́ xuất, tham gia việc nước. Lúc
bất đắc chí, khi tuổi già hay chán quan trường
th́ xin bỏ về điền dă; đó là xử. Đời
Trần, Nguyễn Phi Khanh viết: Bách
niên phù thế nhân giai mộng, Bán nhật thâu nhàn ngă
diệc tiên. (Cuộc
đời nổi trôi trăm năm kiếp người như
giấc mộng, Ăn
trộm được cái nhàn nửa ngày th́ ta cũng là
tiên). Đời
Mạc, Nguyễn Bỉnh Khiêm viết: Nhưng
trong mọi việc đà ngoài hết, Được một
ngày là tiên một ngày.[14] Hay
là: Rượu
đến gốc cây ta sẽ nhắp, Nh́n xem thế sự
tựa chiêm bao. Đời
Lê-Mạc, có Nguyễn Hăng, quê xă Xuân Lũng, phủ Lâm
Thao, trấn Sơn Tây, thi đậu hương cống nhưng
không làm quan, về ẩn tu ở xă Đại Đồng,
phủ Yên B́nh, tỉnh Tuyên Quang. Ông lấy hiệu
Nại Hiên. Triều Lê (khi trung hưng) phong tặng là
Thảo Mao Dật sĩ. Ông sáng tác những bài phú như
Đại Đồng phong cảnh phú, Tam Ngung động
phú, Tịch cư ninh thể phú... Những bài này ca
ngợi thú ở ẩn non cao.[15] Đời
Tây Sơn, có Phan Huy Ích (1750-1822), quê ở Nghệ An,
lấy hiệu Bảo Chân Đạo nhân. Năm 1796 ông
dựng nhà tại kinh thành Thăng Long, đặt tên là
Bảo chân quán. Trong bài kư do ông sáng tác để nói
về Bảo chân quán, ông bày tỏ mục đích là
để sớm hôm quanh quẩn ở đó, khi dựa
bao lơn uống trà, khi đến ḍng sông buông câu, khi
khảy đàn nhắp rượu, khi ngâm vịnh tùy
hứng...[16] Đời
Nguyễn có Nguyễn Công Trứ (1778-1858), người xă
Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh là một
con người độc đáo, tiêu biểu chi lối
sống xuất xử vẹn toàn của nhà Nho. Ông
từng tự hào: Tri
túc, tiện túc; đăi túc, hà thời túc? Tri nhàn, tiện nhàn;
đăi nhàn, hà thời nhàn? Cầm kỳ thi tửu
với giang san, Dễ mấy kẻ
xuất trần xuất thế? Khuynh
hướng thanh tĩnh, nhàn lạc c̣n thấy được
qua thú chơi cây kiểng và ḥn non bộ. Người ta
chơi một gốc cây sù ś, nho nhỏ, uốn cành
sửa lá theo ư riêng, hoặc bày vài ḥn đá con con, chông
chênh trên một bể nước cạn. Thêm vào vài nhánh
lá, chiếc cầu, con thuyền, lác đác một hai tượng
sành tí xíu h́nh lăo tiều, ông câu, hay đôi bạn đang
đánh cờ... Đó là cả một thế giới riêng
của con người đem thu nhỏ lại từ h́nh
ảnh thật của thiên nhiên bao la. Chơi cây kiểng
và ḥn non bộ từ lâu đời vẫn được
coi như thú tiêu khiển thanh tao, giúp con người di dưỡng
tánh t́nh. Nó được xếp hạng không kém bốn
thú tài tử cầm, kỳ, thi, họa. Người sành
chơi, khi đứng trước một chậu kiểng
đẹp, một ḥn non bộ khéo đắp, có thể
dễ mê mẫn tâm hồn, đắm ḿnh trong sức tưởng
tượng phong phú, và quên cả thực tại phồn
tạp bên ngoài. 2. LĂO GIÁO KẾT
HỢP VỚI THẦN ĐẠO VIỆT NAM Từ
lâu đời, người Việt có một đức
tin sâu sắc vào sự trường cữu của anh linh
những công thần, hào kiệt. Lúc sống, làm rường
cột chống đỡ sơn hà xă tắc, cứu dân
giúp nước. Khi thác, trở thành thần thánh, hiển
hích, âm pḥ mặc trợ cho đồng bào. Thần đạo
Việt Nam giản dị như vậy, và đó cũng là
một truyền thống yêu nước và ḷng kính
trọng ngh́n đời của dân tộc đối
với các vị anh hùng, những bậc kỳ tài của
đất nước. Cái đ́nh làng, tục thờ thành
hoàng, đền thờ hay lăng, miếu các danh tướng
lương thần đều là nét tín ngưỡng
Thần đạo của người Việt. Đạo
Lăo cũng như đạo Phật đă khéo dung hợp,
ḥa nhập với những tín ngưỡng cổ
truyền trong ḷng xă hội Việt Nam. Trong lúc đất
nước mất chủ quyền, chính tín ngưỡng
Thần đạo đă nuôi dưỡng ư thức
quốc gia, khơi ḷng yêu nước, để khi
thời cơ đến th́ gây phong trào khởi nghĩa,
đánh đuổi ngoại xâm. Vua quan Trung Quốc đă
nhiều phen thất bại khi t́m cách dập tắt tín ngưỡng
bản địa này của người Việt để
duy tŕ ách xâm lược của phương bắc. Trong
toàn bộ lịch sử lâu dài vừa đấu tranh
giữ nước vừa ra sức dựng nước, dân
tộc Việt Nam đă chiến đấu bất
khuất, không phải chỉ với phương tiện
vật chất hữu h́nh, mà c̣n có cả sức mạnh
vô h́nh là đức tin mănh liệt vào khí thiêng sông núi,
tin rằng có biết bao thế hệ anh linh tiền nhân dân
tộc đang cùng đứng chung chiến tuyến
với chính nghĩa của dân tộc để bảo
vệ sự độc lập, thống nhất, trường
tồn của Việt Nam. Chính
Thần đạo Việt Nam cũng thể hiện t́nh yêu
nước Việt Nam. Người Việt theo đạo
Lăo nhưng vẫn không hề mất bản sắc
của ḿnh. Do đó, bên cạnh các vị thần tiên
của đạo Lăo theo kinh điển Trung Quốc
truyền sang, dân Việt vẫn thờ chung các vị
thần của người Việt. Thí dụ, Thông thánh
quán ở vùng Bạch Hạc (Việt Tŕ) đă thờ
thần sông Tam Giang là vị phúc thần của địa
phương. Các đạo quán khác thờ thần núi
Tản Viên (núi này ở tỉnh Sơn Tây), gồm ba
ngọn cao ngất, nên cũng gọi là núi Ba V́), thờ
thần sông Tô Lịch, Lư Ông Trọng... Từ đời
Trần, đức Hưng đạo vương Trần
Quốc Tuấn được thờ ở Vạn
Kiếp, Chí Linh, rồi lan truyền nhiều nơi. Đời
Hậu Lê, có đền thờ bà chúa Liễu Hạnh. Các
nữ thần khác cũng được dân gian thờ
phụng khắp trong nước.
3. MỘT SỐ ĐẠO
QUÁN NỔI TIẾNG a. Thông thánh quán Ở
vùng Bạch Hạc (Việt Tŕ), dựng khoảng năm
650-655, đến thế kỷ XIV th́ không c̣n.[17] b. Thái thanh cung Cung
được dựng ở kinh thành Thăng Long, bên trái.
Bên phải là chùa Vạn tuế. Vua Lư Thái tổ
(1010-1028) cho cất cung và chùa này khi mới dời đô
về Thăng Long.[18] c. Trấn vũ
quán Cũng
được xây dựng lúc vua Lư Thái tổ vừa
dời đô về Thăng Long (1010), hiện nay nằm
ở góc đường Quan Thánh và đường Thanh
Niên, khu phố Ba Đ́nh, Hà Nội. Quán thờ đức
Huyền Thiên Trấn vũ để hộ tŕ mặt phía
bắc của thành Thăng Long. Quán này c̣n được
gọi là đền Trấn vũ hay Chân vũ. Đời
vua Lê Hy tông (1676-1704), tượng đức Trấn vũ
được đúc bằng đồng đen cao 3,96 mét,
nặng 4 tấn. Năm 1893, lại xây thêm một bệ
đá cho tượng. Bệ này cao 1,20 mét.[19] 4. Ngọc thanh
quán Quán
nằm trên núi Đại Lai (Thanh Hóa). Năm 1398, Hồ Quư
Ly mưu việc dứt ngôi nhà Trần, ép vua Trần
Thuận tông (1388-1398) thoái vị, và cưỡng bách vua
về tu tiên ở quán này. 5. Nghinh tiên quán
(hay Vọng tiên quán) Vua
Lê Thánh tông chơi Hồ Tây, gặp một thiếu
nữ xinh đẹp, xướng họa thơ rất
ưng ư nên vua Lê rước lên xe đưa về cung.
Khi đến cửa Đại Hưng thành Thăng Long
(nay là cửa Nam Hà Nội), thiếu nữ bay lên trời,
biến mất. Vua cho cất tại cửa Đại Hưng
lầu Vọng tiên để kỷ niệm, sau chốn này
thành quán Vọng tiên hay Nghinh tiên nằm ở phố Hàng
Bông, Hà Nội.[20]
6. Tiên tích
tự Vua
Lê Hiển tông chơi hồ Kim Âu phía nam thành Thăng Long
gặp hai cô tiên, nên cho cất Tiên tích tự ở đấy
làm kỷ niệm. Hồ Kim Âu nay ở vị trí nhà ga
đường sắt Hà Nội.[21] 7. Đền
Ngọc sơn Đền
nằm trên một g̣ đất nổi lên ở phía
bắc hồ Hoàn Kiếm. Thoạt đầu nơi đây
thờ đức Quan Thánh Đế quân, sau trùng tu
lại, thờ Phật, gọi là chùa Ngọc sơn. Năm
1841, biến thành đền thờ đức Văn Xương
Đế quân. Về sau lại thờ thêm đức
Lữ tổ và đức Trần Hưng đạo.[22] 8. Bảo chân quán Do
Phạm Huy Ích cất tại Thăng Long năm 1796. 4. THƯỢNG SƯ
NỘI ĐẠO Đây
là một đạo trường lớn của đạo
Lăo ở Việt Nam thời xưa. Đời Hậu Lê,
Trần Toàn là người làng Yên Đông, huyện
Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Khi
Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Hậu Lê
(thời gian 1527-1529), ông từ quan về quê tu hành, đắc
đạo, được Thiên đ́nh phong chức Thượng
sư, lo trừ tà khử quái suốt hai vùng châu Hoan (Thanh
Hóa) và châu Ái (Nghệ An). Thượng sư đến làng
Từ Minh, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa mở
đạo trường. Vua Lê Thần tông (1619-1662) ban cho
trường tên là Nội đạo trường. Lúc Thượng
sư thoát xác, Vua lại truy phong là Phục ma Thượng
đẳng Phúc thần và cho lập đền thờ. Thượng
sư có ba con trai là Nhật Quang, Nguyệt Quang, và Ngọc
Quang, đều tinh thông đạo pháp của Thượng
sư truyền dạy. Ba vị nổi danh lừng lẫy,
đời xưng tán, gọi là Tam thánh Nội đạo.
Sau khi Thượng sư về Trời, Ngọc Quang kế
tục đạo nghiệp của cha, lănh phần điều
khiển Nội đạo trường. Triều
đ́nh đă công nhận đạo trường này. Nó
có uy thế rất lớn. Chi nhánh của Nội đạo
trường xuất hiện khắp nơi, nào là làng
Từ Quang (tức Từ Minh trước kia, huyện
Hoằng Hóa), là làng Yên Đông (huyện Quảng Xương),
đều ở tỉnh Thanh Hóa; hoặc ở tỉnh
Nghệ An, ở hạt Huệ Lai, tỉnh Hưng Yên; hay
ở Nhật Tảo (tỉnh Hải Dương), ở làng
Giảng Vơ (gần Hà Nội)... Về
sau, Nội đạo trường thờ cả bà chúa
Liễu Hạnh, đức Trần Hưng đạo,
đức Phù Đổng Thiên vương, thần núi
Tản Viên, thần Bạch Mă...[23] 5. THI LĂO HỌC Triều
đ́nh từng mở khoa thi Tam giáo vào đời vua Lư
Cao tông (1195) và vua Trần Thái tông (1247). Về
nội dung thi Lăo giáo, Nguyễn Đổng Chi đă sưu
tầm được một đề thi và một bài
trả lời các câu hỏi ra trong đề đó.[24]
Nghiên cứu tài liệu này, có thể hiểu được
phần nào sự học Lăo của người Việt
đời trước. Sau đây là bài thi: (1) PHÁP MÔN LÀ G̀? Mọi
pháp quy tôn(g), muôn đời chẳng đổi, muôn thánh
ngàn thần, một môn đồng hội, ấy gọi là
pháp môn vậy. (2) PHÙ THỦY LÀ G̀? Khí
âm khí dương hỗn hợp mà thành ra thiêng, dùng nước
đại bi phun cho ma sợ, ấy gọi là phù thủy
vậy. (3) PHÁP MÔN LẤY AI LÀM
THÁNH? Pháp
môn do Thái Thượng Lăo quân lập ra cho nên tôn Ngài làm
Thánh. (4) PHÙ THỦY LẤY AI
LÀM THẦY? Phù
thủy do Chân vũ Tiên sinh lập ra cho nên tôn Ngài làm
Thầy. (5)
TỨ THÁNH, TỨ GIÁC, TỨ TUNG, TỨ DUY LÀ Ư THẾ NÀO? Thiên
bồng, Thiên du, Bảo đức, Hắc sát gọi là
Tứ thánh. Càn, Khôn, Tốn, Cấn gọi là Tứ giác.
Thiên hoa, Địa hoa, Lăo hạc, Đồng trụ
gọi là Tứ tung. Tí, Ngọ, Măo, Dậu gọi là
Tứ duy. (6)
TAM GIỚI, TAM THANH, TAM ĐỘNG, TAM TY LÀ THẾ NÀO? Dục
giới, sắc giới, vô sắc giới ấy là Tam
giới. Ngọc thanh, Thượng thanh, Thái thanh, ấy là
Tam thanh. Động chân, Động huyền, Động
vi ấy là Tam động. Lôi đ́nh, Linh bảo, Thái
huyền ấy là Tam ty. (7)
ÔN, HOÀNG, DỊCH, LỆ SINH VÀO BUỔI NÀO? Vua
Hoàng đế có bốn người con bất tài tên là
Ôn, Hoàng, Dịch, Lệ sinh vào đời Chuyên Húc. (8) TỐN, LY, KHÔN, ĐOÀI
SINH ĐƯỢC MẤY CON? Tốn
sinh ra được bốn con là Đông, Tây, Nam, Bắc.
Ly sinh được chín con từ Nhất bạch, Nhị
hắc đến Bát bạch, Cửu tử. Khôn sinh ra sáu
con tức là Thái âm, Lục khí. Đoài sinh ra bảy con
tức là Bắc đẩu Thất tinh. Ấy là Tốn,
Ly, Khôn, Đoài có hai mươi sáu con vậy. (9)
HÀNH MĂN TAM THIÊN SỐ, THỜI ĐƯƠNG TỨ
VẠN NIÊN LÀ G̀? Số
Trời thành 1.000, số đất thành 1.000, số người
thành 1.000, ấy là hành măn tam thiên số. Từ Thái
dịch đến Thái sơ là 10.000 năm, từ Thái sơ
đến Thái thủy 10.000 năm, từ Thái thủy
đến Thái tố 10.000 năm, từ Thái tố đến
Thái cực 10.000 năm. Ấy là thời đương
tứ vạn niên. (10)
ĐẠO CAO LONG HỔ PHỤC, ĐỨC TRỌNG
QUỶ THẦN KINH CHỈ VỀ THẦY NÀO? Đạo
chí cao không thể vượt qua được, mà
rồng là dương tinh, cọp là âm tinh đều
phục đạo cao. Đức chí hậu không thể vượt
qua được, mà quỷ là khí tán, thần là khí tinh
đều sợ đức trọng. Ấy là Đạo
cao long hổ phục, đức trọng quỷ thần
kinh, chính là chỉ sư Phổ Am vậy. (11)
PHÉP BẮT TÀ TRÓI QUỶ DÙNG LINH PHÙ NÀO? ĐỌC
THẦN CHÚ NÀO? Nếu
được đàn tràng cho chỉnh túc, pháp tịch cho
hẳn hoi, niệm thấy tam giới mà muôn thánh đều
đến, trống đánh ba hồi mà muôn thần đều
nhóm họp, trước phải gọi tướng,
thứ phải sai đi. Tưởng đến thiên vơng mà
kín đáo ra bùa, bắt tay ấn mà thiêng liêng chú bút,
bốn chữ thánh đè năm chữ quỷ, chữ
(...?) hợp với vạn linh. Dùng những bùa thiêng
Bạch xà, Độc cước, đọc những
thần chú Thái thượng, Tề thiên. (12)
MUỐN CHO ĐỜI NÀY, DÂN NÀY ĐỀU VÀO TRONG ĐÀI
XUÂN, CÙNG BƯỚC LÊN CƠI THỌ TH̀ PHẢI DÙNG
THUẬT G̀? Nếu
trước hết chính tâm th́ bọn tà mị không
thể rục rịch. Trước hết chính thân th́ khí
tà không thể xâm phạm. Tâm chính rồi th́ lấy
đó ra ơn cho dân. Thân chính rồi th́ lấy đó mà
giúp chúng. Qua
bài làm của thí sinh đời trước, cùng với cách
ra câu hỏi như thế, có thể phỏng đoán
rằng trọng tâm cái học Lăo giáo đời xưa
nặng về Đạo giáo (Taoist
religion) hơn là Đạo học (Taoist
philosophy). 6. CẦU TIÊN Cầu
tiên là một phương tiện liên lạc, tiếp xúc
(thông công) giữa cơi người hữu h́nh với các
đấng tiên thánh trong cơi vô h́nh. Người cầu tiên
có thể do nhiều mục đích khác nhau: hoặc mượn
thơ phú xướng họa để tiêu khiển thanh
tao, hoặc xin thuốc chữa bịnh, hoặc hỏi
việc tương lai hậu vận, hoặc hỏi thiên
cơ quốc sự, hoặc để học hỏi
trực tiếp đạo lư với thần tiên. Thông thường
các đấng thiêng liêng tùy duyên hóa độ, cũng v́
từ bi, cho nên mượn những mục đích b́nh thường
của thế nhân (thơ phú, xin thuốc...) để gây
đức tin, rồi dẫn dắt đến chỗ
học đạo thánh hiền. Thời
kỳ Việt Nam c̣n dưới ách thực dân Pháp, ở
tỉnh Nghệ An có nhiều nơi cầu tiên, gọi là
thiện đàn. Ở
miền Nam, đầu thế kỷ XX nhiều địa
danh và các đàn tiên đă gắn liền với lịch
sử khai đạo Cao Đài như đàn ở Miễu
Nổi (B́nh Lợi, G̣ Vấp), ở chùa Ngọc Hoàng (Đất
Hộ, tức Đa Kao), đàn Minh Thiện (Thủ
Dầu Một), đàn Hiệp Minh (Cái Khế, Cần Thơ),
đàn ở núi Thạch Động (Hà Tiên), đàn
ở chùa Quan Âm (núi Dương Đông, Phú Quốc),
đàn ở phố Hàng Dừa (đường Arras, Sài G̣n,
nay là Cống Quỳnh). Qua
mười chín thế kỷ, đạo Lăo hầu như
dần dần vắng bóng ở Việt Nam. Cho đến
đầu thế kỷ XX, khi đạo Cao Đài ra đời,
dường như có những mối liên hệ gần gũi
với đạo Lăo. Đạo Cao Đài thờ Ngọc
Hoàng Thượng đế (cũng là Cao Đài Tiên ông),
Diêu Tŕ Kim mẫu, Thái Thượng Lăo quân, v.v... cũng là
các đấng vốn được sùng bái, tôn thờ
trong đạo Lăo cổ truyền. Bản thân các tín
đồ Cao Đài vẫn coi ḿnh là học tṛ Tiên, tu
đạo Tiên. Phương tiện cơ bút là một
điểm tương đồng khác giữa đạo
Lăo xưa và đạo Cao Đài nay. Việc dạy giáo lư
qua h́nh thức thơ phú trong Cao Đài cũng cho thấy
đường nét của văn hóa Lăo-Trang. Như
vậy, phải chăng sau mười chín thế kỷ,
đạo Lăo ở Việt Nam không hoàn toàn biến
mất? Phải chăng đă có một sự hồi
phục đạo Lăo xưa trong một nền tôn giáo
mới là Cao Đài? Trả lời thích đáng câu
hỏi này cần có sự tiếp tục nghiên cứu
trong một chuyên khảo khác về Tam giáo Việt Nam,
kể từ đầu thế kỷ XX trở đi. LÊ
ANH DŨNG CHÚ
THÍCH [1] Phần lớn nội dung Chương III
đă in trong Văn hóa & đời sống, chủ đề
Hồn bướm mơ tiên, tháng 12-1991. [2] Thời Xuân thu (770-403 tcn): từ đời
Chu B́nh vương tới cuối đời Chu Uy Liệt
vương. Thời Chiến quốc (403-221 tcn): từ
đời Chu Ân vương đến khi Tần diệt
Tề và thống nhất Trung Quốc. (Nguyễn Hiến Lê,
Khổng tử. Hà Nội: Nxb Văn hóa, 1992, tr. 25.) [3] Trương Đạo Lăng, tự Phụ Hán, sinh ở Thiên Mục sơn, Triết Giang, khoảng năm 34 hay 35, triều Quang Vũ đế; được tôn là Trương Thiên sư. [4] Theo Đặng Đức Siêu, Cơ
sở ngữ văn Hán Nôm. Tập I. Nxb Giáo
dục, 1984, tr. 125, th́ Đạo
tạng được kết tập đời
Đường Huyền tông, trong những năm Khai Nguyên
(713-741), gồm hơn 3.700 quyển (tức là Chính
Đạo tạng). Đời Minh Thần tông, trong
những năm Vạn Lịch (1573-1619), kết tập thêm
Tục Đạo tạng. Tổng cộng hai
lần được 5.485 quyển, số đầu sách
là 1.476 bộ. Theo Liu Ts’un-yan, “The
compilation and historical value of the Tao-tsang,” in trong Essays
on the sources for Chinese history. Chủ biên: Donald Leslie, Colin
Mackerras, Wang Gungwu. Canberra Australian National University Press, 1973, tr.
104, lúc đầu Đạo
tạng có 5.305 quyển, đựng trong 480 hộp,
kết tập đầu đời Minh [khoảng 1368
trở đi], hoàn tất năm 1445. Năm 1607 kết
tập phần bổ sung gồm 180 quyển, gọi là Tục
Đạo tạng. [5] Đặng Đức Siêu, Cơ
sở ngữ văn Hán Nôm. Tập I. 1984, tr. 125. [6] Đại
tạng kinh, số 52, Sử
truyện, bộ IV, Hoằng
minh tập, quyển I, viết: “Thị thời Linh
đế băng hậu, thiên hạ nhiễu loạn,
độc Giao Châu sái an. Bắc phương dị nhân hàm
lai tại yên, đa vi thần tiên tịch cốc, trường
sinh chi thuật.” Dẫn theo Nguyễn Đăng Thục, “Lư
hoặc luận”. Tư tưởng, số 2. Năm
thứ tư. Sài G̣n: Viện đại học Vạn
Hạnh, tháng 4-1971, tr. 114. [7] Ngô Sĩ Liên, Đại
Việt sử kư toàn thư. Tập I. Tạ Quang Phát
dịch. Sài G̣n: Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên,
1974, tr. 246. [8] Ngô Sĩ Liên, Đại
Việt sử kư toàn thư. Tập I, 1974, tr. 244. [9] Nguyễn Tự, Tân
biên truyền kỳ mạn lục. Quyển I, Bùi Xuân
Trang dịch. Sài G̣n: Bộ Quốc gia Giáo dục, 1962, tr.
113. [10] Nguyễn Đổng Chi, Việt
Nam cổ văn học sử. Hà Nội: Nxb Hàn Thuyên,
1942, tr. 419. [11] Phạm Văn Sơn, Việt
sử tân biên. Quyển V. Sài G̣n, 1963, tr. 459-460. [12] Nguyễn Đổng Chi, Việt
Nam cổ văn học sử. 1942, tr. 420. [13] Hoàng Xuân Hăn, La Sơn
Phu tử. Paris: Nxb Minh tân, 1952, tr. 93-95. [14] Thơ văn Lư–Trần.
Tập II. Hà Nội: Nxb Khoa học Xă hội, 1978, 423. [15] Dương Quảng Hàm, Việt
Nam văn học sử yếu. Sài G̣n: Trung tâm Học
liệu, 1968, tr. 297. [16] Thơ văn Ngô
Thời Nhậm. Tập I. Hà Nội: Nxb Khoa học Xă
hội, 1978: tr. 33. [17] Lịch sử
Việt Nam. Tập I. Nxb Khoa học Xă hội, 1971, tr.
127. [18] Lê Quư Đôn toàn
tập. Tập II: Kiến văn
tiểu lục. Hà Nội: Nxb Khoa học Xă hội, 1977,
tr. 387. [19] Tuyển tập văn
bia Hà Nội. Tập I. Hà Nội: Nxb Khoa học Xă
hội 1978, tr. 53. [20] Phạm Văn Diêu, Văn
học Việt Nam. Quyển I. Sài G̣n: Nxb Tân Việt,
1960, tr. 331. [21] Hoàng Trọng Miên, Việt
Nam văn học toàn thư. Quyển Thượng. Sài G̣n:
Nxb Tiếng phương đông, 1973, tr. 417. [22] Tuyển tập văn
bia Hà Nội. Tập II. Hà Nội: Nxb Khoa học Xă
hội 1978, tr. 68. [23] Hoàng Trọng Miên, Việt
Nam văn học toàn thư. Quyển Thượng. 1973,
tr. 436-440. [24] Nguyễn Đổng Chi, Việt
Nam cổ văn học sử. 1942, tr. 193-201. HẾT
CHƯƠNG III Đôi ḍng sơ lược về tác giả Lê Anh Dũng |
Thiên-Lư Bửu-Ṭa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674 Website: www.thienlybuutoa.org Email Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT
|