Trở lại trang chánh của Website Thiên Lư Bửu Ṭa

 

GIẢI MĂ TRUYỆN TÂY DU

 

LÊ ANH DŨNG

Nẻo về bên ấy

Có đi ắt có đến. Cuối cùng, thầy tṛ Đường tăng cũng đặt chân tới cảnh giới của Phật. Thấy Đường tăng mải mê ngắm cảnh đẹp, Tề thiên nhắc khéo: “Sư phụ những lúc gặp cảnh giả, phật tượng giả th́ vội sụp người lạy. Bây giờ gặp cảnh thật, phật tượng thật lại chẳng xuống ngựa là cớ sao?” Tam tạng nghe vậy, vội vàng xuống ngựa, bước tới cửa ṭa lầu, nh́n thấy một đạo đồng đứng nghiêng người trước cổng chùa... [TDK X 1988: 156]

Đọc chậm răi tới đây, nếu tinh ư một chút, người đọc dừng lại tự hỏi rằng: Sao lạ vậy? Tại sao trước cổng chùa không bố trí một chú tiểu, sa di, t́ kheo hay ḥa thượng? Tại sao trước cổng chùa lại để một đạo đồng? Phải chăng sơ tâm nên viết lẫn lộn? Đạo đồng sao không đứng nơi đạo quán (Lăo, Tiên) mà ra cổng chùa (Thích, Phật) để đón Đường tăng?

Hỏi, rồi lại đọc thêm xem cớ sự thế nào. Hóa ra, đạo đồng ấy vai vế rất lớn, “đó là Kim đính Đại tiên ở quán Ngọc chân dưới chân núi Linh sơn...” [TDK X 1988: 157]

Đầu chương nói chùa, bây giờ bảo quán!

Linh sơn là đất Phật, Đường tăng t́m Phật để thỉnh kinh Phật, ai ngờ đến cơi Phật th́ lại gặp... tiên! Và ông tiên đó lănh nhiệm vụ của Quan âm (Phật) chờ đón người thỉnh kinh Phật! Ngô Thừa Ân phải chăng phóng túng ng̣i bút bất chấp sự nhất quán, nhất trí của câu chuyện?

Nhớ lại trong những hồi trước đây, có nhiều đoạn kể việc Tề thiên đập phá đạo quán, chỉ trích đạo sĩ, lấy nước tiểu giả làm “kim đơn”... [TDK V 1988: 110]. Có người sẽ lầm tưởng rằng Ngô Thừa Ân bài bác Tiên, Lăo và cổ vũ  riêng cho Phật, Thích. Thực sự không phải thế!

Tam giáo một nguồn

Tây du kư dung ḥa Tiên, Phật và chủ trương Thích, Lăo không khác nhau về con đường giải thoát. Đi Tiên th́ về Phật. Đến Thích th́ khởi đi từ Lăo. Ẩn ư này được thể hiện nhiều chỗ trong toàn bộ Tây du. Chẳng hạn, ở đầu truyện, Tề thiên học đạo Tiên với Bồ đề Tổ sư, rồi sau quy y làm ḥa thượng. Và cuối truyện, trước khi vào đất Phật, mấy thầy tṛ phải dừng chân nghỉ qua đêm ở quán Ngọc chân của Kim đính Đại tiên.

Có người cho rằng Phật lớn hơn Tiên. Qua Tây du  người ta có thể vin vào nhiều chi tiết để cố minh chứng cho quan niệm Tiên thấp hơn Phật. Chẳng hạn: Lăo quân, Ngọc hoàng (tiêu biểu cho bên Tiên) không trị được Tề thiên, mà chỉ có Phật tổ Như lai mới nhốt được Mỹ hầu vương dưới Ngũ hành sơn. Hoặc vin ngay câu chuyện Kim đính Đại tiên được cắt cử làm “receptionist” (tiếp tân) trực dưới núi Linh sơn đón khách.

Ngô Thừa Ân phải chăng đă khéo léo phủ nhận thành kiến đó một cách kín đáo? Bởi lẽ, khi Phật tổ trao kinh Phật cho Đường tăng lại ân cần dặn ḍ rằng: “Phải quư báu! Phải coi trọng! Bởi trong đó có phép màu đắc đạo thành tiên...” [TDK X 1988: 176]

Phật trao kinh Phật cho đệ tử Phật, để rồi theo đó con Phật tu hành sẽ đắc đạo thành... Tiên! Như vậy, theo Ngô Thừa Ân, dù Tiên hay Phật, dù Lăo hay Thích, sự khác nhau chỉ là danh xưng, h́nh thức, cốt lơi vẫn là một. Đi xa hơn, Ngô Thừa Ân c̣n gồm luôn cả Nho vào một bảng giá trị của chân lư giải thoát, tuy rằng về cơ bản Nho hầu như thiên về nhập thế. Quan điểm Tam giáo đề huề, đồng đẳng của họ Ngô đă được tác giả nói ra bằng cách mượn lời Như lai khi trao kinh cho Đường tăng:

“Công đức của những quyển kinh này không có ǵ sánh nổi. Tuy là giới luật của cửa ta (Phật môn), nhưng cũng là nguồn ḍng của Tam giáo...” [TDK X 1988: 176]

Lời tâm huyết của Như lai trên điện Lôi âm cũng là lời vua Trần Thái tông sau khi đại ngộ, đă ân cần gửi gấm trong sách Khóa hư lục:

Vị minh nhân vọng phân Tam giáo,

Liễu đắc để đồng ngộ nhất tâm.

Nghĩa là:

U mê đời lầm lẫm mà coi Tam giáo khác nhau,

Khi đạt được gốc cội rồi đều giác ngộ một tâm.

Nói thêm:

Về chủ trương dung ḥa Tam giáo, ngoài Ngô Thừa Ân với Tây du kư, đời Minh c̣n có Tiên phật hiệp tông ngữ lục (một quyển) do đạo sĩ Ngũ Thủ dương tuyển chọn. Thủ dương là đạo hiệu, c̣n có hiệu là Xung hư (tử). Theo [Ngô Phong 1994: 1226], trong quyển Tiên Phật hiệp tông, Ngũ Thủ dương đă dung ḥa công phu thiền định (nội đan công pháp) của Tam giáo.

V́ sao quyển sách có tên Tiên Phật hiệp tông? Theo Thủ dương, mục đích luyện đan là thành phật thành tiên, con đường luyện đan là hoàn hư mà hoàn hư là lư luận dung hợp của Nho, Thích, Lăo. Ông cho rằng Tiên Phật tu đạo đồng công phu, đồng hiệu quả (đồng công đồng hiệu). Ông viết:

“Ngộ hữu Tiên khả học, tắc học Tiên tức Phật dă. Ngộ hữu Phật khả nhập, tắc nhập Phật tức Tiên dă.” (Gặp Tiên có thể theo học, học Tiên tức là học Phật vậy. Gặp Phật có thể nhập môn, vào cửa Phật tức là vào cửa Tiên đó.) Lê Anh Minh dịch.

Đường vô xứ Phật

Ngủ một đêm tại quán Ngọc chân, hôm sau mấy thầy tṛ chuẩn bị lên đường. Tề thiên nói với Kim đính Đại tiên: “Sư phụ tôi đang sốt ruột muốn bái Phật, phải đi ngay đừng chậm trễ nữa.”

Đại tiên cười khà khà dắt tay Đường tăng dẫn vào cửa pháp môn. Nguyên con đường này không ra lối cổng chùa, mà từ gian giữa trong quán, đi xuyên qua lối cửa sau. Đại tiên chỉ Linh sơn nói: “Nơi ấy là núi Linh thứu, thánh địa của Phật tổ đấy.” [TDK X 1988: 158]

Nói cách khác, muốn đi vô đất Phật, chỉ có con đường một chiều như trên. Không thể nào đi lộn trở ra. Con đường này đưa vào lối phía sau. Chi tiết này gợi nhớ đến lúc Mỹ hầu vương cầu đạo ở Tà nguyệt Tam tinh động, phải “đi vào bên trong, đóng cửa giữa lại, rồi đi vào lối cửa sau, ở chỗ kín ấy sư phụ sẽ truyền đạo cho.” [TDK I 1982: 55]

Học tu theo Lăo hay Phật, đi vào con đường thiền, tức là hành giả chọn con đường hướng nội (đi vào trong). Đi ra (hướng ngoại), chỉ gặp âm thanh sắc tướng; nói theo Phật, đó là huyễn ảo. Đạo đức kinh, Chương XII có câu: “Vị phúc bất vị mục.” (V́ bụng chứ không v́ mắt.) Đó là ám chỉ hành giả phải quay vào, quay vô trong, đừng nh́n ra ngoài, như thế mới gặp được chân, bỏ được giả.

Theo truyền thống phương Đông, giáo pháp chỉ bày con đường tu thiền phải mật truyền, giống như Bồ đề Tổ sư dạy Hầu vương ở cửa sau, nơi chỗ kín nhiệm. Kinh kệ, cúng bái, cầu siêu, sám hối, lập đàn, v. v... là h́nh nhi hạ học, là ngoại giáo công truyền (exoterism), dành cho đại chúng.

Trái lại, con đường đi t́m trăng sao cửa động (t́m tâm) của hành giả cô đơn, âm thầm lặng lẽ, là h́nh nhi thượng học, là nội giáo tâm truyền (esoterism), hay nói theo Bồ đề Đạt ma ở Trung Quốc vào thế kỷ thứ Sáu là giáo ngoại biệt truyền. [ Xem bài Nỗi ḷng giấy trắng.]

Trên bến Lăng vân

Sau khi từ biệt Kim đính Đại tiên, mấy thầy tṛ Đường tăng tiếp tục đi tới bến Lăng vân và “nh́n thấy một ḍng nước cuồn cuộn, sóng vỗ tung trời, rộng tới tám chín dặm, bốn phía tịnh không một bóng người.” [TDK X 1988: 159]

“Bến này nguyên chỉ có một cây cầu độc mộc.” Đường tăng không chịu qua cầu, v́ lẽ cầu ấy:

Muôn trượng cao một cọng cầu vồng.

Trơn như mỡ khó đặt chân...

[TDK X 1988: 159]

Tuy nhiên Tề thiên cứ nhất định bảo: “Phải bước qua cây cầu này mới thành Phật được chứ.” [TDK X 1988: 160]

Cây cầu trớ trêu ấy thực sự nằm chính trong thân con người. Trong phép tu thiền của đạo Lăo và Cao đài, hành giả phải uốn cong đầu lưỡi cho đụng vào hàm trên, tạo thành cây cầu nối liền hai bờ, là hàm dưới và hàm trên. Động tác này tạo thuận lợi cho nước miếng tiết ra nhiều. Nước miếng (tân dịch) vốn được các đạo sĩ quư báu, coi là một “vị thuốc” thiên nhiên sẵn có trong thân mỗi hành giả (nội dược), dùng để luyện nội đơn cho thành chánh quả (đắc đạo).

Giữa lúc Đường tăng c̣n phân vân chưa dám qua cầu, bỗng có Tiếp dẫn Phật tổ mang thuyền đến rước qua sông. Truyện Tây du tả đoạn này rất khéo: “Tam tạng quay đầu, chợt nh́n thấy phía hạ lưu có một người đang chèo thuyền bơi tới, cất tiếng gọi to: Lên đ̣! Lên đ̣!” [TDK X 1988: 160]

Đọc kỹ đoạn này, cần lưu ư tŕnh tự sự việc. Không phải v́ Đường tăng nghe tiếng gọi đ̣ trước mà sau đó mới quay đầu lại. Chính nhờ Đường tăng quay đầu lại trước nên mới gặp người lái đ̣ đang tới.

Đ̣ là để đưa người qua sông, sang tới bờ bên kia (đáo bỉ ngạn). Đường tăng quay đầu lại nh́n thấy đ̣ tức là gặp được phương tiện để sang bờ bên kia (bỉ ngạn) cũng là bờ giác ngộ (bến giác) hay cơi Phật. Bờ bên này là luân hồi sanh tử (bờ mê).

Nói rằng Đường tăng quay đầu lại thấy đ̣, tức là sẽ thấy bờ bên kia; ở đây truyện Tây du muốn ám chỉ bốn chữ của nhà Phật: hồi đầu thị ngạn (quay đầu lại là bờ).

Con người phàm phu hướng ngoại cứ đi hoài trong cơi hồng trần, lênh đênh trên biển khổ sóng gió chập chùng (khổ hải vạn trùng ba). Nhưng trong tự thân con người đă có sẵn chủng tử của Phật (Phật tính), do đó, một khi con người sực tỉnh dừng bước giang hồ, quay đầu lại th́ không c̣n tiếp tục đi sâu vào biển trần nữa, bến giác sẽ hiện ra.

Do triết lư đó mà có câu chuyện mười tám ông ăn cướp, vừa mới kịp buông dao giă từ đời oan khiên nghiệp chướng, lập tức đă trở nên thập bát la hán trang nghiêm cho đời sùng mộ, kính ngưỡng.

Trở lại chuyện chiếc thuyền (hay con đ̣). Nó không có đáy! Đường tăng hỏi người lái đ̣: “Thuyền của ngài là thuyền hỏng, không đáy, qua sông làm sao?” [TDK X 1988: 161]

Thuyền có đáy là thuyền hữu h́nh cơi tục. Nó chỉ có thể chở khách trần đi từ bờ mê này sang bến mê kia. Thuyền có đáy dù to đến mấy, sức chở người cũng có giới hạn.

Thuyền không đáy là thuyền vô h́nh cơi tiên cơi phật. Nó đưa khách trần ĺa bến mê sang bờ giác. Nó không đáy mà chở người vô hạn. Không có sóng dữ nào nhận ch́m được.

Chính v́ huyền diệu như thế nên thuyền ấy được Phật tổ tán thán rằng:

Thuyền ta đây:

Thuở hồng hoang từng nổi tiếng,

Có ta đây chèo chống giỏi giang.

Sóng to gió cả vững vàng,

Không đầu không cuối bước sang cơi lành.

Quay về gốc, bụi trần chẳng bợn,

Muôn kiếp đày, thanh thản qua sông.

Thuyền không đáy vượt trùng dương,

Xưa nay cứu vớt muôn vàn sinh linh.

[TDK X 1988: 161]

Chiếc thuyền trên bến bến Lăng vân chính danh của nó là thuyền bát nhă. Phật gọi cơi đời này là sông mê, biển khổ. Qua sông vượt biển cần phải dùng thuyền. Con thuyền đạo pháp đưa chúng sanh đến bến bờ giải thoát hay niết bàn tịnh lạc chính là trí huệ, c̣n gọi là bát nhă (prajna).

Con thuyền bát nhă (Soami, thế kỷ XVI)

Cái trí huệ bát nhă ấy không phải Phật đem trao, ban tặng cho chúng sinh, mà bản thân chúng sinh đă có từ lâu. Nó vô thủy vô chung (không đầu không cuối). Phật chỉ giúp đỡ cho chúng sinh t́m lại cái mà họ đă có sẵn. Phật chỉ là bà đỡ, bà mụ; chúng sinh phải đẻ chứ Phật không đẻ dùm! Chính do ư đó mà trong bài kệ về thuyền bát nhă, câu 2 nói thuở hồng hoang (tiên thiên); câu 5 nói không đầu không cuối (bất sinh bất diệt); câu 3 nói có ta (Phật) đây chèo chống...

Phật là người đưa đ̣ cho chúng sinh sang bến giác, chúng sinh phải xuống đ̣, phải tự bước lên thuyền mà sang sông. Nói cách khác, chúng sinh phải tự ḿnh lên đường; Phật chỉ là người dẫn dường dắt lối, cho nên người đến đón thầy tṛ Đường tăng mới có pháp hiệu là Tiếp dẫn Phật tổ.

Bát nhă c̣n gọi là bát nhă ba la mật đa (prajna-paramita). Ba la mật đa (paramita) theo chữ Nho là đáo bỉ ngạn (qua tới bờ bên kia, bờ giác ngộ). Khi Đường tăng quay đầu lại thấy thuyền (hồi đầu thị ngạn), ấy mới chỉ là nhân. Có nhân vẫn chưa đủ, cho nên dù đă được Phật tổ bảo đảm sẽ đi qua tới bến giác, Đường tăng cứ măi dùng dằng không muốn lên thuyền.

Phải chăng, đó cũng là tâm lư thế gian: làm phật tiên thời phần đông ai cũng muốn cũng ham, nhưng mà coi lại cơi trần, tuy bản chất (nói theo Phật) là khổ, nhưng hiện tượng (cảm nhận bằng trí phàm phu) cớ sao lại muôn màu muôn vẻ; chèng ơi, vui quá! Cho nên bỏ đi cũng chẳng đành! Bởi vậy, trong Cao đài có bài thơ làm chứng cho nỗi ḷng thế nhân ở bên này sông, một chân dợm bước xuống thuyền, mà một chân c̣n tŕ vào bờ lưu luyến:

Điên đảo ḷng con nỗi đạo đời,

Đời con rộn rực luyến mê chơi.

Đạo th́ cũng muốn tu thành Phật,

Theo đạo th́ con lại tiếc đời.

[Đại thừa chơn giáo 1950: 86]

Vậy, tuy có nhân rồi nhưng lại cần có thêm duyên. Cái duyên ấy sẽ dồn cho chúng sinh không c̣n phải lưỡng lự ǵ cả. Trong cuộc đời, đó là nghịch cảnh. Nghịch cảnh làm con người chán chường phồn hoa vật chất và hồi tâm nghĩ đến chuyện tu hành giải thoát. Ở Tây du, Ngô Thừa Ân mượn tay Tề thiên để tạo ra duyên:

“Hành giả đứng khoanh tay trước ngực, bất ngờ đẩy mạnh một cái, Tam tạng đứng không vững, rơi đánh ào một cái xuống nước, Phật tổ nhanh tay đỡ lấy, dắt xuống đ̣. Tam tạng vừa phủi quần áo vừa dậm chân oán trách Hành giả.” [TDK X 1988: 161]

Tâm lư của Tam tạng “oán trách Hành giả” cũng là tâm lư của Ngưu ma vương và bà La sát (Thiết phiến Công chúa), oán hờn thù ghét Tề thiên, v́ Tề thiên đă trợ duyên cho Hồng hài nhi (yêu ma) trở nên Thiện tài Đồng tử nơi cơi Phật, hầu cận Quan âm. Cho nên, cái éo le cay đắng là nhiều khi làm ơn mắc oán.

Chú: Khi nghe Tề thiên nhận vợ chồng Ngưu ma vương vào vai vế anh chị, vợ Ngưu ma vương (bà La sát) liền trách mắng: “Con khỉ khốn kiếp kia, đă là t́nh anh em thân thiết, sao lại hại con ta?” (tr. 201). C̣n Ngưu ma vương th́ quát lên: “... cớ sao lại nỡ hại con ta là Ngưu Thánh anh ở động Hỏa vân, khe Khô tùng núi Hiệu? Ta đang căm giận nhà ngươi...!” [TDK VI 1988; 223]

Cũng vậy, lịch sử các tôn giáo hoàn cầu, từ Đông qua Tây, từ xưa tới nay, đều có một định lệ gần như bất di bất dịch: Anh mà đem đạo, đưa giáo lư tới cơi đời để cứu đời, th́ chính người đời sẽ đóng đinh, sẽ bức tử, giam cầm, dè bỉu, chỉ trích anh thậm tệ. Bởi thế, trên đường sang Thiên Trúc gặp Phật, Đường tăng đâu phải chỉ riêng gặp tai ương với quỷ ma yêu quái, mà Đường tăng c̣n gặp cả những hiểm nguy giữa con người với con người, đồng loại với đồng loại. (Đường tăng ơi! Muốn đáo bỉ ngạn ư? Muốn đưa người sang sông ư? Nẻo về bên ấy chông chênh lắm!)

LÊ ANH DŨNG

(Tháng 01-1992—14-02-1995)

HẾT

Cùng một tác giả Lê Anh Dũng

Đôi ḍng sơ lược về tác giả Lê Anh Dũng

 

Thiên-Lư Bửu-Ṭa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674

Website: www.thienlybuutoa.org     Email    Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT

Thông bạch in Kinh