Trở lại trang chánh của Website Thiên Lư Bửu Ṭa

 

GIẢI MĂ TRUYỆN TÂY DU

LÊ ANH DŨNG

Đường tăng! Anh là ai?

Bản in 1995

Đây là bài tổng quan mở đầu GIẢI MĂ TRUYỆN TÂY DU, xuất bản ở Việt Nam (1993, 1995, 2000, 2001), và AN TIÊM vừa tái bản, phát hành (San Jose, Feb 2004). Qua tác phẩm đầu tay này, tác giả LAD đă tŕnh bày một cách thơ mộng và lôi cuốn cách hiểu những ẩn ngữ (metaphors) của Tây du kư và đồng thời ông c̣n tŕnh bày tư tưởng Tam giáo đồng nguyên, vạn giáo nhất lư của Cao Đài, cũng như một số khái niệm về h́nh nhi thượng học (esoterism) Cao Đài. Trọn tác phẩm sẽ lần lượt được giới thiệu trên website Thiên Lư Bửu Toà.

Năm mà một

Tây du kư là câu chuyện trường thiên về hành tŕnh qua phương Tây thỉnh kinh của năm thầy tṛ: Tam tạng, Tề thiên, Bát giới, Sa tăng, và con ngựa trắng.

Thông thường, người ta sơ ư, chỉ kể có bốn, quên đi con ngựa, nguyên là con rồng ngọc (ngọc long), thái tử thứ ba, con của Tây hải Long vương Ngao Nhuận. Quên kể đến ngựa rồng, phải chăng v́ vai tṛ đỡ chân cho Đường tăng của ngọc long tam thái tử h́nh như có vẻ lu mờ? Hay quên kể, v́ không thấy ở Tây du kư tản mác ẩn ngữ nơi này, rải rác ẩn dụ nơi kia, mà ng̣i bút của Ngô Thừa Ân đă ung dung viết như giỡn chơi, như bông đùa, mà ư hàm tàng th́ rất thực. Và nên hiểu chỗ thực trong cái hư của Tây du kư, nét nghiêm trang trong vẻ bỡn cợt của Ngô Thừa Ân như thế nào?

Tây du kư là truyện xuất thế gian, do đó không có dấu ấn của Nho giáo, v́ Nho giáo về cơ bản là đạo nhập thế, thuộc phạm vi h́nh nhi hạ học mà ngày nay Cao Đài gọi là ngoại giáo công truyền (exoterism).

Đọc Tây du mà bảo Ngô Thừa Ân có cái gọi là tư tưởng chống Trời, chống thiên tử, tức là đă quên đi ngay từ ban đầu câu chuyện xuất gia, thỉnh kinh vốn đă hàm ngụ ư ngoại thế gian pháp.[1]

Tây du nào có chống ai đâu, v́ Tây du là câu chuyện ngụ ngôn, đem chuyện thỉnh kinh để diễn bày tư tưởng thiền học giải thoát trong đạo Lăo, đạo Phật, thuộc phạm vi h́nh nhi thượng học mà ngày nay Cao Đài gọi là nội giáo tâm truyền (esoterism).

Muốn đọc Tây du, hiểu Ngô Thừa Ân, cần thiết biết đọc giữa hai hàng chữ, nắm lấy bốn chữ ư tại ngôn ngoại (ư ở ngoài lời).

Như chép ở kinh Viên giác, Phật bảo lấy ngón tay chỉ trăng, nếu đă thấy mặt trăng th́ có thể biết rằng phương tiện để chỉ trăng rốt cuộc chẳng phải là mặt trăng. Trang tử khuyên: «Có nơm v́ cá, đặng cá hăy quên nơm. Có ḍ v́ thỏ, đặng thỏ hăy quên ḍ. Có lời v́ ư, đặng ư hăy quên lời.»

Thế th́, vượt lên trên mọi hư cấu văn chương của Tây du kư với tài hí lộng chữ nghĩa của Ngô Thừa Ân, cuộc thỉnh kinh của Đường tăng thực chất là chi? Đường tăng là ai đó? Nước Thiên Trúc với chùa Lôi âm ở đâu?

Sẽ là sửng sốt nếu nói rằng Đường tăng vẫn c̣n đang thỉnh kinh dù đă thỉnh kinh xong rồi từ vạn cổ. Tề thiên đă hàng phục xong thiên ma vạn quỷ, đă cởi được kim cô niệt đầu, đă được Phật tổ tán thán là Đấu chiến thắng phật ở giữa bửu điện trang nghiêm của chùa Lôi âm, nhưng Tề thiên vẫn c̣n đang và vẫn sẽ c̣n tiếp tục vất vả đánh nhau với yêu tinh ma quái. Măi măi cuộc chiến đấu vẫn chưa xong. Tề thiên nào đă thành phật? Tề thiên nào chưa thành phật? Yêu ma nào đă quy hàng? Yêu ma nào c̣n chưa ngừng dấy động phong ba? Nước Thiên Trúc với chùa Lôi âm không ở về phương Tây, và cũng không phải là một địa danh trên bản đồ kim cổ. Vậy, cuộc thỉnh kinh đi về phương trời nào viễn xứ?

Nên ta thử hỏi lớn tiếng rằng: Đường tăng! Anh là ai? Câu hỏi ấy phải chăng xấc xược? Sao lại dám xưng hô với Đường tăng là... Anh? Ta cứ hỏi nữa: Đường tăng! Anh là ai?

Cũng là ta hỏi chính ta đó thôi. Mỗi một người trong chúng ta đều là Đường tăng. Mỗi thời đại của quá khứ, hiện tại và vị lai đều có Đường tăng, đều vẫn đă, đang và sẽ c̣n tiếp tục thỉnh kinh. Cuộc thỉnh kinh chính là hành tŕnh đầy trắc trở của mỗi người trong chúng ta truy tầm Chân lư - t́m cái mà Lăo tử gượng cho là Đạo, gọi tên là Xích tử chi tâm, Phật mệnh danh là Bổn lai diện mục, và Cao Đài ngày nay bảo là Nhân bản hay Thượng đế tính - vốn dĩ đă sẵn tàng ẩn trong mỗi con người.

Đi về đâu để có được Chân lư đó? Thiên Trúc ư? Hà xứ tại? Thưa rằng nước Thiên Trúc ấy nào có đâu xa và con đường thỉnh kinh cũng chẳng phải là hành tŕnh từ phương Đông qua phương Tây diệu vợi. Vương Dương Minh bảo: Vũ trụ là tâm ta, tâm ta là vũ trụ. Ngô Thừa Ân ám chỉ: Thiên Trúc là thân ta, thân ta là Thiên Trúc. Kinh báu chùa Lôi âm là h́nh ảnh tượng trưng cho Chân lư, nó nằm trong tự thân nội thể con người. Cuộc thỉnh kinh v́ vậy là con đường quy hướng về nội tâm của mỗi người, là hành tŕnh phản tỉnh nội cầu, quay lại nh́n vào chính nội thân của ḿnh, t́m thấy trong chính ta cái chân lư: Người là một thiêng liêng tại thế, cùng với Trời đồng thể linh quang (ánh sáng thiêng liêng).

Do đó phải nói rằng bộ phim Tây du kư hai mươi lăm tập của nữ đạo diễn Trung Quốc Dương Khiết đă rất tài t́nh khi nhạc mở đầu cho phim là bài hát «Con đường nào ta đi...» Con đường thỉnh kinh là đường trở về nội tâm. Trên con đường cô đơn đó, ta là Đường tăng, và ta cũng là Tề thiên, Sa tăng, Bát giới, long mă. Như vậy cuộc thỉnh kinh phải bắt buộc đủ bộ năm thầy tṛ. Thiếu một là không được! Nhưng năm mà một: là một con người với năm phương diện.

Long mă

Con ngựa mà vua Đường cấp cho Đường tăng bắt buộc phải chết đi, để đem thay bằng ngựa thần, ngựa rồng. Ngựa là xác thân. Ngựa thần là xác thân cương kiện. Một tinh thần minh mẫn trong một xác thân tráng kiện. Con người đi t́m Chân lư, t́m Đạo, cần có xác thân vững vàng, khoẻ mạnh. Không có ngựa tốt th́ Đường tăng không tới được Lôi âm. Người mà thể xác bịnh hoạn, tinh thần ươn hèn th́ làm sao có thể quyết tâm chiến đấu để đạt tới Chân lư, đạt Đạo?

Sa tăng

Sa tăng là tánh cần cù, nhẫn nại. Ngô Thừa Ân bắt Sa tăng phải nhọc nhằn gánh hành lư là lẽ ấy. Tề thiên mấy bận giận Thầy, mấy phen đào nhiệm, từng quay về Thủy liêm động quê xưa; Bát giới nào có thua, đă trăm lần ngàn lượt cứ lẻo nhẻo đ̣i chia của, rồi mạnh ai đường nấy, chàng về cố thổ lấy vợ cho xong. Chỉ riêng có Sa tăng suốt cuộc hành tŕnh thiên ma bách chiết, vào yêu ra quỷ, một ḷng một dạ quảy hành trang tiến tới. Không một lời thối lui. Không một ḷng biến đổi. Sa tăng là h́nh ảnh của tinh tấn, tŕ thủ, tâm bất thối chuyển. Dù khó khăn đến đâu, đă quyết rồi, th́ cứ đi tới. Khí giới của Sa tăng v́ thế là bảo trượng có đầu dẹp và bén nhọn, để mà dễ dàng găm chặt vào, ghim chặt vào. Chí đă định rồi th́ không biến đổi, ḷng đă quyết rồi th́ chẳng chuyển lay. Pháp danh của Sa tăng v́ thế là Ngộ tịnh: tịnh để mà khắc chế cái động, cái chưa thanh tịnh; tịnh để mà kham nhẫn, chịu đựng.

Sa tăng

Bát giới

Bát giới

Bát giới là tánh tham. Tham ăn, tham ngủ, tham của, tham sắc và tham nịnh nọt cho được lợi về ḿnh. Khí giới của họ Trư v́ thế phải bắt buộc là đinh ba, là cào cỏ, để mà vơ vào cho nhiều, cho vừa ḷng tham dục. Bát giới là sự tập hợp những bản năng rất vật dục và tầm thường nơi con người. Có lẽ v́ thế mà pháp danh của chàng là Ngộ năng.[2]

Tề thiên

Tề thiên là trí, lư trí. Bộ phim Tây du của nữ đạo diễn Trung Quốc Dương Khiết cho thấy đạo diễn dường như đă hiểu được vai tṛ quan trọng của Tề thiên. Lư trí phải dẫn dắt, phải soi đường cho hành động. Thế nên, trong phim, luôn luôn vai Tề thiên đều đi trước, để dẫn đầu mấy thầy tṛ.

Lư trí ưa nổi loạn, ngang tàng phách lối, chẳng chịu thua kém nhường nhịn ai. Cho nên Tề thiên coi ḿnh to ngang với Trời (Tề thiên: bằng Trời), và muốn lên trời xuống biển, quậy phá đều làm được tất, không chút đắn đo, chẳng hề ngần ngại. Đối với Trời vẫn tự xưng «Lăo Tôn» là tánh kiêu căng. Trước mặt Trời vẫn nghinh ngang, đứng xổng lưng không chịu quỳ, ăn nói lôi thôi bất kể tôn ti trật tự, đó là tượng trưng cho đầu óc duy lư của những người muốn phủ nhận Thượng đế.

Lư trí ưa phân biện, cho nên Tề thiên mới có con mắt lửa tṛng vàng, nh́n một cái là thấy rơ bản chất và hiện tượng, biết ngay ai đúng là căn tiên cốt phật, ai đậy che dáng quỷ h́nh ma. Lư trí cũng thích đả phá, ưa đả kích, cho nên khí giới của Tề thiên phải là thiết bổng (gậy sắt), để mà đập phá. Pháp danh của Tề thiên v́ thế là Ngộ không: Không (sunyata) để mà siêu vượt lên mọi đối đăi của thế giới sắc tướng và thế giới phi sắc tướng.

Lư trí, tư tưởng đă suy xét, đă vận động th́ ôi thôi, thiên biến vạn hóa. Cho nên thiết bổng của Tề thiên khi nặng th́ nặng vô cùng, mà lúc nhẹ th́ nhẹ hơn mảy lông, muốn to nhỏ ngắn dài tùy ư, nhét gọn lỗ tai cũng xong, thế nào cũng được. Đó cũng là tư duy, ngôn ngữ, lư lẽ của con người. Hay cũng nó. Dở cũng nó. Bóp méo, vo tṛn đều được cả. Đó vốn là nghề của chàng.

Lư trí v́ những «thuộc tính» như thế nên cần thiết phải được uốn nắn luôn luôn cho hợp với kỷ cương, khuôn phép. Tề thiên bởi vậy mà phải đội kim cô. Tuy nhiên, khi về tới chùa Lôi âm, thành phật rồi, không cần cởi, ṿng kim cô tự lúc nào đă biến mất. Cái trí con người khi đă thuần dưỡng th́ không cần kỷ luật nó vẫn vận động đúng. Giống như trẻ con mới đi học, tập viết phải có giấy kẻ hàng đôi, đến chừng lớn lên viết giỏi rồi, giấy chẳng vạch hàng kẻ ô vẫn dễ dàng viết ngay ngắn.

Cái trí của con người c̣n có một đặc điểm là xẹt rất lẹ, phóng rất nhanh, cực nhanh. Ngồi ở Sài G̣n mà có thể lan man nghĩ ngợi tới tận đâu đâu, như chu du năm châu dạo cùng bốn biển; chuyện mấy chục năm quá khứ, chớp mắt một cái là cả cuốn phim dĩ văng trường thiên vùn vụt hiện về. Diễn tả ư này, truyện Tây du bảo Tề thiên có được phép cân đẩu vân, «mỗi cân đẩu vân đi được mười vạn tám ngh́n dặm» [TDK I 1982: 63]. Con số 108.000 dặm ngoài ư nghĩa tượng số học [3] c̣n nhằm ám chỉ tốc độ khủng khiếp của tư tưởng con người.

Ngộ Không

Đường Tăng

Đường tăng

Đường tăng là con người có ḷng từ bi, nhân hậu, bao dung, có quyết tâm tu hành vượt qua muôn vàn cám dỗ. Truyện Tây du chưa lột được cái đấu tranh ghê gớm của Đường tăng ở Tây Lương nữ quốc và khi chàng rơi vào tay yêu nữ động Tỳ bà [TDK VI 1988: 88-92, 108-109], th́ bộ phim Tây du của Trung Quốc đă dàn dựng rất đạt những thử thách này. Đường tăng trong hai đoạn phim ấy hoàn toàn là một con người bằng xương bằng thịt, có giới hạn mà bản thân Đường tăng không thể vượt qua, nếu không được Tề thiên giải cứu kịp thời.

Đường tăng c̣n có tánh phàm, u mê, nhu nhược, ba phải. Đọc truyện hay xem phim Tây du ai cũng dễ thấy ghét... chàng. Một trăm lần Tề thiên cản: Yêu ma đấy, Thầy chớ có cứu. Và đủ một trăm lần Đường tăng căi, cứ cứu, để rồi mắc nạn vương tai. Đó là nhận giặc làm con v́ sự nhận thức của cảm tính không biết nghe theo tiếng gọi sáng suốt của lư trí.

Đường tăng cứ lặp đi lặp lại những sai lầm của ḿnh, và không có sai lầm nào giống sai lầm nào. Con người cũng thế, cứ đi từ sai lầm này đến sai lầm khác mà thôi, nếu không nghe theo lư trí, lương tâm mà chỉ biết ch́u theo vọng tâm, t́nh cảm nhất thời.

Trong các đệ tử, Đường tăng thường «cưng» ai nhứt? Chàng vốn tỏ ra cưng Bát giới hơn cả. Bát giới tượng trưng cho các bản năng dục vọng tiềm tàng trong tâm mỗi người; vậy, phải chăng chính ta, ta vốn vẫn thường có xu hướng nhắm mắt đưa chân, phớt lờ cái lẽ đúng mà nuông ch́u theo thói hư tật xấu của ḿnh?

Trong Tây du, luôn luôn xảy ra những mâu thuẫn có khi gay gắt giữa Tề thiên và Đường tăng, khiến cho thầy tṛ phải mấy phen chia ĺa, thậm chí ngay khi Tề thiên mới bái Đường tăng làm sư phụ xong mà đă vội giận dữ bỏ đi [TDK II 1982: 84]. Đó cũng là cách biểu tượng hóa những đối nghịch giữa lư trí với t́nh cảm, cảm tính.

Cà sa và tích trượng

Đường tăng rơ ra là lương tri, nhưng tiếng nói của lương tri nhiều khi quá yếu mềm trước những sức mạnh đối kháng. Ngoài cái lư trí (là Tề thiên) chống đỡ, bảo vệ, Đường tăng c̣n cần phải được trang bị thêm hai phương tiện hữu hiệu để hộ thân, tự vệ. Đó là cà sa và tích trượng.

Cà sa là áo giáp chở che, tích trượng để thêm sức cho đôi chân vững vàng trụ lập. Cà sa và tích trượng ấy chính là đạo đức chân chánh của con người. Có đạo đức, con người đủ khả năng tự pḥng thủ, tự bảo vệ ḿnh khỏi sa chân vào tội lỗi lạc lầm, tránh xa được sự trừng phạt của ngục h́nh đày đọa. Cho nên, khi Phật tổ Như lai sai A nan và Ca diếp mang áo cà sa gấm và tích trượng chín ṿng trao cho Quan âm Bồ tát, đă dặn ḍ rằng: «Tấm áo cà sa và cây gậy này đưa cho người lấy kinh dùng. Nếu người ấy (...) mặc tấm áo cà sa của ta, th́ thoát khỏi luân hồi; cầm gậy tích trượng của ta th́ không bị hăm hại.» [TDK I 1982: 190]. Và khi ở kinh thành Trường An, giải thích chỗ quư báu của cà sa, Quan âm Bồ tát cũng bảo: «Mặc tấm áo cà sa của ta th́ không bị đắm ch́m, không sa địa ngục, không gặp tai ương ác độc, không bị hoạn nạn sói lang.» [TDK II 1982: 36]

Trong bộ phim Tây du hai mươi lăm tập của Trung Quốc, nữ đạo diễn Dương Khiết có lẽ đă hiểu tường tận ư nghĩa cà sa là áo giáp đạo đức hộ thân, cho nên rất tài t́nh khi dàn dựng cảnh yêu nữ động Tỳ bà quyến rũ Đường tăng sa vào sắc dục. Lúc ấy Đường tăng như trong cơn mộng du, lảo đảo bước gần tới ṿng tay yêu nữ đón mời, và mảnh cà sa đỏ rực bỗng nhẹ tênh, vuột bay khỏi thân Đường tăng. C̣n tấm áo, Đường tăng c̣n an ổn; áo vuột rơi rồi, tội lỗi mở cửa chực chờ. Đạo đức mất đi, cái xấu chen vào.

Yêu tinh

Yêu tinh quỷ quái hằng hà sa số cản đường ngăn lối cuộc thỉnh kinh cũng là những thói hư tật xấu của chính ta. Yêu tinh có hai loại. Có thứ là giống chồn cáo, rắn rít, cọp beo... biến thành. H́nh ảnh này là ẩn dụ con người luôn luôn đương đầu với cái xấu, cái ác, các nghịch cảnh từ bên ngoài tác động vào bản thân. Loại yêu quái này luôn luôn bị Tề Thiên đập chết, không ai cứu chúng. Trên nẻo đường truy cầu Chân lư, t́m Đạo, con người phải dũng mănh, nghị lực, quyết tâm san bằng mọi trở lực, chướng ngại ngoại lai để đạt cho kỳ được cứu cánh chân lư của ḿnh. Dứt khoát không khoan nhượng.

Nhưng... lại kỳ quặc hơn, có thứ quỷ quái mà Tề Thiên vừa vung thiết bổng định đập chết, th́ liền có tiên này phật kia hiện ra cản lại, xin tha mạng chúng để rồi mang về thượng giới quản lư. Loại yêu này xét lư lịch đă rơ, vốn là các con thú con vật mà các vị ở cơi trời nuôi giữ, chẳng may để sổng, nên chúng lẻn xuống trần làm tinh ma quái quỷ.[4] Có người xem phim hay đọc truyện Tây du, gặp những chỗ như vậy, liên hệ gần xa rồi nhếch miệng cười: Tưởng sao, cũng là một kiểu «xử lư nội bộ»!

Loại yêu có «ô dù» cỡ bự như vừa nói, chính là cái xấu, cái ác, cái chướng ngại cản ngăn nội tại. Chúng nằm trong chính ta, và là một phần của ta. Giết chúng đi là giết ta ư?

Một h́nh ảnh hai cuộc đời

Phật bảo: Hồi đầu thị ngạn. Quay đầu nh́n lại sẽ thấy ngay bến bờ giác ngộ. Buông dao đẫm máu xuống, mười tám ông ăn cướp lập tức hóa ra thập bát la hán. Con người là một h́nh ảnh hai cuộc đời. Trong ta là sự tồn tại của hai mặt đối lập lẫn nhau. Ta là Giê-xu mà ta cũng là Lu-xi-phe chúa quỷ. Ta là Thích ca, Lăo tử mà ta cũng thừa sức bày tṛ ngạ quỷ, giở thói súc sanh. Trong ta vừa có thiên đàng, niết bàn cực lạc, vừa có cả hỏa ngục, a tỳ.

Trong cuộc chiến đấu để đạt tới Chân lư, con người có thể chuyển hóa cái ác thành cái thiện. Hôm trước c̣n là Hồng hài nhi hung tợn, khoái ăn thịt người th́ hôm sau đă là Thiện tài Đồng tử trang nghiêm, cung kính hầu cận một bên Quan âm Bồ tát.[5] Bữa nọ c̣n làm yêu quái tụm bầy chận đường bắt người cướp của, ăn tươi nuốt sống, th́ bữa nay đă thành voi thần, sư tử thánh đỡ chân cho Phổ hiền và Văn thù Bồ tát nơi cơi phật [TDK VIII 1988: 173-174].

Văn Thù

Phổ Hiền

Tánh tham là xấu, nhưng thay v́ tham cái vị kỷ đê hèn, biết tham làm cái vị tha ích quốc lợi dân, th́ tham ấy Chúa, Phật cũng tham. Tánh sân giận đáng chê, nhưng thay v́ cái giận khí huyết của ḷng ty tiểu, biết giận cho cái bất bằng chính nghĩa, th́ giận ấy Lăo Đam, Khổng tử cũng xá dài bái phục.

Phân biệt hai hạng yêu tinh nội tại và ngoại lai như thế, người đọc truyện Tây du thử gẫm lại v́ sao luôn luôn khi Tề thiên gặp yêu quỷ đều tróc Sơn thần, Thổ địa để truy tầm ngọn nguồn, gốc tích con yêu ở đâu. Cho dù đang thua sức lũ yêu, mà một khi đă nắm chắc lư lịch của chúng rồi th́ trăm lần đánh là trăm lần thắng. Chuyển bại thành thắng là sau khi đă điều tra, xác minh lư lịch xong xuôi. Sao lạ vậy? Cái xấu, cái ác vốn muôn đường ngh́n lối, thiên h́nh vạn trạng. Con người phải biết nó từ đâu tới, do đâu mà ra. Như thầy thuốc giỏi, trị bịnh phải biết trị tận gốc chứ không trị ngọn.

Tề thiên tróc Sơn thần và Thổ địa

B́a sách (bản in 2000)

   

Đi t́m nghịch lư

Tây du thoạt xem, tưởng đâu rặt chuyện nghịch lư, vô lư. Tại sao Tề thiên náo loạn thiên cung, cơi trời nghiêng ngửa, vậy mà lắm phen cam đành thất điên bát đảo với lũ yêu ma? Tề thiên không ngán Lăo tử, thế sao chẳng trị nổi con trâu xanh của Lăo tử sổng chuồng ở núi Kim Đâu? [TDK V 1988: 227-247; TDK VI 1988: 5-51]

Tề thiên tuy có con mắt lửa tṛng vàng, nh́n một cái biết ngay chân tướng yêu ma nhưng không phải luôn luôn đều dễ dàng chế ngự được yêu ma. Phải lắm phen cất công đi t́m phật, tiên, bồ tát cứu nạn. Bồ tát và phật tiên trong Tây du tượng trưng cho đạo đức chơn chánh. Vậy, phải chăng lư trí tuy có khả năng xét suy phân biện phải trái rạch ṛi, nhưng chưa đủ mạnh mẽ? Đối với tha nhân, sửa chữa cái xấu, cải tạo cái ác có khi không bằng lư lẽ, hay sức mạnh, mà phải cảm hóa bằng đạo đức nghĩa nhân. C̣n với chính bản thân, có những cái xấu, cái ác mà lương tri, lương tâm đă tự biết là xấu, là ác, là không nên nhúng tay vào, nhưng con người lại quá yếu đuối, thường không đủ sức cưỡng lại nổi những ham muốn mănh liệt, đành buông xuôi. Khi đó, chỉ c̣n có nhân nghĩa đạo đức là chiếc phao cuối cùng cho khách hồng trần bấu víu để khỏi đắm ch́m trước cơn phong ba băo táp của hải hà dục vọng.

Phật tiên hay Thượng đế cơi trời c̣n là h́nh ảnh biểu tượng của chính đại quang minh, của đại nhân quân tử. Yêu ma quỷ quái là phản diện, tiêu biểu cho tiểu nhân, giả trá, lọc lừa. Tề thiên vốn không từng lép vế với cơi trời mà lại nhiều phen chịu ngậm hờn cùng lũ quỷ. Trong cuộc đấu tranh của con người với con người, từ ngh́n xưa đến nay, soi gương kim cổ, phải chăng ai cũng thấy rằng ta không sợ đấu lư, đấu tranh với người biết điều, đại độ, chính trực, mà ta lại đều phải sợ giáp mặt cùng kẻ hẹp ḥi, ngu dốt, chấp nê. Hai mặt trận với hai đối thủ rơ ràng khác biệt!

Đọc Tây du hóa ra không phải đọc Tây du, mà là đọc lại chính ta. Ngô Thừa Ân hóa ra không phải Ngô Thừa Ân mà là mật ngữ siêu thoát của Lăo, Phật. Ngô là họ Ngô; Thừa là thừa hưởng, thọ nhận; Ân là ân sâu đức cả. Ai xưa kia đă thọ hưởng được cái học của thánh hiền mà giác ngộ, không nỡ đem giấu làm của báu tư riêng, nên lấy cuộc văn chương, mượn tṛ chữ nghĩa bày truyện Tây du? Thọ nhận ân Ai mà Ngô Thừa Ân muốn đáp tạ ân Ai?

Kiếp tằm đem trả nợ dâu,

Đem lời huyễn tưởng diễn câu diệu huyền.

Ngỡ rằng ma quái thần tiên,

Nào hay rốt lại nhăn tiền chính ta.

Cuộc chơi sực tỉnh giang hà,

Mực đen giấy trắng gọi là nhân duyên.

 

LÊ ANH DŨNG

(26.8.1991 – 01.01.1995)

 


[1] Ở đây, khi nói Tây du kư là truyện xuất thế gian, và câu chuyện xuất gia thỉnh kinh hàm ngụ ư ngoại thế gian pháp, th́ nên hiểu hai chữ xuất thế theo nghĩa là một phương diện trên con đường tu học để hành đạo độ đời. Xuất thế để mà có đủ bản lĩnh nhập thế, biết vượt lên cuộc đời dù vẫn lăn lóc giữa cuộc đời trần cấu.

Pháp bảo đàn kinh chép lời Lục tổ Huệ Năng dạy rằng: «Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác. Ly thế mịch bồ đề, cáp như cầu thố giác.» Nghĩa là, phương pháp tu của Phật nhằm t́m sự giác ngộ ngay trong cơi đời; nếu như rời bỏ cuộc đời mà t́m cầu giác ngộ, việc ấy là ảo tưởng, ví như đi t́m sừng thỏ vốn là thứ không có thực trong đời.

Đạo Lăo và Cao Đài cùng bảo: «Dục tu thiên đạo, tiên tu nhân đạo. Nhân đạo bất tu, thiên đạo viễn hỹ.» (Muốn tu đạo giải thoát trước tiên hăy lo tṛn đạo làm người. Không tṛn đạo người th́ đạo trời hăy c̣n xa xôi lắm.)

[2] Xem Phụ lục 5: Nói chuyện Trư Bát giới.

[3] Xem bài Ngọn gió trong ḷ.

[4] Theo [TDK VII 1988: 98-139], đặc biệt có một con yêu rất lạ đời, nguyên là tên tiểu đồng lông mày vàng giữ chiếc khánh vàng của Phật Di lặc. Thích chơi trội hơn lũ yêu ma khác, y lẻn xuống trần mạo xưng là Hoàng mi Lăo phật, lập chùa Lôi âm giả, cũng chiêu tập quỷ quái lớn nhỏ về giả làm la hán, kim cang, yết đế, bồ tát... để lừa Đường tăng vô chùa bái lạy th́ bắt giữ.

Đối với hành giả tu thiền, t́nh tiết này rất lư thú; nó cảnh giới người tu chân chính đừng nên vọng cầu phật ở ngoài thân. Trong lúc đang công phu hành thiền mà lỡ có thấy chư phật xuất hiện th́ hăy coi chừng đó là ma cảnh ám chướng phá hoại chánh giác chánh định. Đó là lư do v́ sao xưa kia có thiền sư đă nêu một phương châm thoạt nghe mà rởn ḿnh: Gặp phật giết phật, gặp tổ giết tổ (Phùng phật sát phật, phùng tổ sát tổ).

[5] Xem bài Bốn biển không yên cơn lửa trẻ.

HẾT

Cùng một tác giả Lê Anh Dũng

Đôi ḍng sơ lược về tác giả Lê Anh Dũng

 

Thiên-Lư Bửu-Ṭa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674

Website: www.thienlybuutoa.org     Email    Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT

Thông bạch in Kinh