Trở lại trang chánh của Website Thiên Lư Bửu Ṭa

 

TIỂU SỬ ĐỨC QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT

Huệ Lương

 

Quán Âm Bồ Tát là danh hiệu của một vị Phật đáng lẽ đă chứng quả Phật, nhưng c̣n nguyện lẫn lộn ở cơi ta bà để cứu độ chúng sinh. Người ta cũng gọi Ngài là Quan Âm Phật, Quan Âm Như Lai, Quan Thế Âm, Quan Âm Nam Hải, Phổ Đà Phật Tổ, v.v...

Quyền pháp năng lực của Ngài cao siêu.

Quyển kinh nói về Ngài, mà hiện nay phái Bắc Tôn (Trung Hoa, Cao Ly, Nhựt Bổn, Việt Nam) c̣n truyền tụng là quyển “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Quan Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm”. Theo lời kinh Phổ Môn bất cứ là hạng nào trong chúng sanh, bất cứ là ở vào t́nh cảnh nào, lúc nào, hễ cầu đến Ngài, niệm danh hiệu Ngài th́ đặng cứu ngay. Ngài dùng huyền diệu cứu vớt chúng sanh không biết muôn ức nào mà kể. Nếu cầu Ngài với danh hiệu thuộc về một phân thân nào của Ngài th́ Ngài xuất hiện y theo phân thân ấy để cứu độ. Kinh Phổ môn có biên rành 12 điều đại nguyện của Ngài.

Theo kinh truyện để lại, Ngài phân thân giáng trần 33 kiếp, khi th́ mượn xác nam nhi, khi th́ làm thiếu nữ, khi th́ ở vào cảnh quyền quư cao sang, khi th́ vào hàng bần cùng cơ khổ, khi th́ sanh làm đạo sĩ, khi th́ làm tỳ khưu, v.v...

Hiện nay đời c̣n truyền tụng hai kiếp giáng trần làm phụ nhơn của Ngài là: kiếp thứ mười làm bà Thị Kính, kiếp chót làm bà Diệu Thiện. Sau khi thoát kiếp chót này Ngài được chứng quả Phật Tổ tại Phổ Đà Sơn (Nam Hải).

SỰ TÍCH THỨ NHỨT:

QUÁN ÂM THỊ KÍNH

Trước kia Đức Quan Âm Bồ Tát tu đă đặng tám kiếp rồi. Qua tới kiếp thứ chín Ngài phân thân nam nhi đi tu chứng bực tỳ khưu. Khi kiếp thứ chín của Ngài gần măn th́ Đức Thích Ca giáng xuống thử ḷng. Đấng Thế Tôn hiện ra một người con gái tới lần khân ép nài vị tỳ khưu kia kết duyên với ḿnh. Vị này mới thốt rằng: “Có chăng họa may là kiếp sau, chớ kiếp này v́ lời thề nguyện tu tŕ th́ không thể nào đặng.” V́ lời hứa ấy mà sau khi măn kiếp thứ chín rồi vị tỳ khưu kia phải giáng trần đầu thai làm thiếu nữ, suốt đời phải chịu trăm điều cay đắng về vấn đề t́nh duyên để thử ḷng Ngài coi ra sao.

Ấy là phép Phật định vậy.

Vâng lịnh của Đức Phật Tổ chơn linh vị Bồ Tát kia bèn giáng trần đầu thai làm con gái nhà họ Sùng là Sùng Ông, một nhà giàu có ở xứ Cao Ly lại là nhà từ tâm chưởng đức. Hai ông bà tuổi đă cao mà không con nên đi cầu tự và sanh ra nàng Thị Kính, dung nghi đẹp đẽ, tướng mạo đoan trang. Hai ông bà mừng được chút gái để có người hôm sớm trong lúc tuổi già. Khi nàng đă đúng tuần cập kê th́ gần đó có chàng Thiện Sĩ, con nhà quyền quư trâm anh cậy mai đến nói. Vợ chồng Sùng Ông thấy phải đôi vừa lứa bèn chịu gả con gái ḿnh.

Đến ngày nạp thái vu quy nàng Thị Kính buồn tủi muôn phần! Buồn là v́ thấy ḿnh là con một, một khi đă xuất giá rồi th́ bề nhà sau trước quạnh hiu, lấy ai mà thần tỉnh mộ khang thế cho ḿnh! Tủi là lỡ sanh làm con gái th́ đúng tuổi phải xuất giá ṭng phu rủi may phải chịu và ơn sanh thành không sao trả đặng! Cha mẹ nghe nàng than thở làm vậy bèn kiếm lời khuyên giải và nói rằng: Cha mẹ sanh con là gái, th́ khôn lớn có nơi có chốn làm đẹp mặt nở mày mẹ cha đó là đủ rồi. Con chẳng nên lo điều chi khác nữa! Vả lại nhà bên chồng con cũng gần đây th́ sự thăm viếng cũng thuận tiện. Nghe vậy nàng mới an ḷng chiều ư muốn của cha mẹ. Từ khi về nhà chồng, nàng giữ một mực tôn kính, phụng sự nhà chồng, trong êm ngoài ấm, ai nấy đều khen.

Một ngày kia nàng đương ngồi may, chàng Thiện Sĩ sau khi đọc sách mỏi mệt mới ra gần chổ nàng may mà nằm nghỉ, luôn dịp ngủ quên. Từ khi về nhà chồng đến giờ nàng chưa có dịp nh́n chàng cho chính đính. Nay có cơ hội đưa đến nàng, nhơn lúc chàng ngon giấc mà nh́n kỹ mặt đức lang quân. Chợt thấy dưới cầm chàng có mọc một sợi râu và biết coi tướng ít nhiều, nàng thấy quả là sợi râu bất lợi! Nhơn cầm sẵn cái kéo trong tay nàng mới đưa kéo ra cắt lấy. Đương lúc ấy, chàng Thiện Sĩ giựt ḿnh thức dậy, thấy vợ cầm kéo đưa ngay cổ ḿnh, vụt la hoảng lên rằng: “Vợ tôi muốn giết tôi.” Trong nhà vỡ lở, cha mẹ gia tướng chạy đến gạn hỏi. Nàng t́nh thật cứ nói ngay, không ngờ cha mẹ chồng quá ư nghiêm khắc bắt tội nàng có ngoại t́nh và mưu giết chồng. Nhơn cớ ấy cha mẹ chồng buộc chàng Thiện Sĩ làm tờ để vợ và mời vợ chồng Sùng Ông đến lănh con về. Vợ chồng Sùng Ông hơ hăi tới nơi mới tường tự sự. Hai ông bà kêu con ra hỏi, rầy la than trách một hồi rồi lănh con về.

Lúc ấy Thiện Sĩ ḷng như dao cắt, tưởng là việc đáng bỏ qua không dè đến nỗi rẽ thúy chia loan th́ chàng ăn năn vô ngần, châu rơi lă chă. Khi nàng Thị Kính lạy từ công cô và chàng ra về, v́ sợ uy cha mẹ chàng chẳng dám hở môi nói bào chữa nàng một lời nào.

Về nhà, nàng Thị Kính buồn bă muôn phần. Một là buồn cho số phận long đong, t́nh duyên trắc trở; hai là buồn cho cha mẹ phải mang điều phiền năo trong ḷng.

V́ nàng là một người đàn bà chân chính may rủi một chồng mà thôi, nàng khăng khăng không chịu “ôm cầm thuyền ai”. Nàng than rằng nếu có anh em đông th́ nàng cũng đành nhắm mắt cho rồi để khỏi mang tiếng nhơ. Nhưng v́ nàng là con một, nàng không nỡ hủy ḿnh, sợ e thất hiếu, mà ở như vậy thật rất khổ tâm cho nên nàng quyết chí xuất gia, noi gương Phật Tổ, tu hành cho đắc đạo rồi trở về độ lại mẹ cha.

Một hôm, nàng lén cải trang nam tử, rồi bỏ nhà trốn đi. Hay tin cha mẹ nghi nàng v́ buồn t́nh xưa mà sanh nhẹ dạ theo người và sai người đi kiếm cùng nơi mà không gặp.

Từ khi nàng ĺa gia đ́nh ra đi th́ nàng có ư t́m một cảnh chùa để gởi thân. Đến ngôi chùa được chọn nàng gặp giờ sư cụ đang thuyết pháp. Nàng trộm xem tướng mạo th́ thấy rơ đó là một bậc chơn tu, đạo pháp khá lớn. Nàng bèn xin thọ pháp quy y. Sư cụ ban đầu rất nghi ngờ nàng, bèn ngọn hỏi ngành tra v́ sợ e trang thiếu niên kia sau này bán đồ nhi phế mà đắc tội với Phật Trời. Nàng th́ một mực nói ḿnh là một thư sanh, con nhà quyền quư, ḷng chán công danh nên vào nương nhờ cửa Phật để gột rửa ḷng phàm.

Thấy chí quả quyết của vị thiếu niên, sư ông mới vui nhận cho làm đệ tử và ban pháp danh là Kính Tâm.

V́ săi Kính Tâm là nữ trá h́nh cho nên dung mạo khôi ngô kiều mị, làm cho hàng tín nữ trầm trồ, nhất là nàng Thị Mầu, con của một vị phú ông trưởng giả vùng ấy. Mượn cớ ra vô trong chùa, nàng Thị Mầu lắm khi đưa t́nh trêu ghẹo săi Kính Tâm, nhưng nàng vẫn trơ trơ như không hay không biết. Thất vọng, Thị Mầu mới quay lại tư t́nh với đứa ở của nàng. Khi thai đă gần già, khí sắc nàng đổi, làng xă thấy thế mới đ̣i phú ông và nàng ra hỏi.

Chịu đ̣n không kham, Thị Mầu túng phải cung xưng. Trong khẩu cung Thị Mầu quả quyết rằng ḿnh có tư t́nh với săi Kính Tâm nên mới ra cớ đỗi và xin làng rộng lượng cho săi Kính Tâm hoàn tục kết duyên với ḿnh.

Trống mơ inh ỏi, cửa thiền xưa nay êm lặng phút chốc trở nên huyên náo, sóng dậy ba đào. Người nhà làng đến chùa đ̣i sư ông và săi Kính Tâm ra nghe dạy việc.

Thầy tṛ cùng dắt nhau đi. Đến nơi mới hay tự sự! Tá hỏa tâm thần, thầy hỏi tṛ có sao nói thiệt. Tṛ một mực kêu oan chớ không nói điều chi thêm nữa. Hương đảng đông đủ tra hỏi săi nhỏ đủ điều, khi dọa, khi khuyên nhủ rằng: Nếu nói thật th́ làng cũng chứng cho để lập gia thất. Kẻ th́ mai mỉa: Săi kia tu có trót đời không? Rốt cuộc v́ không chịu xưng tội t́nh và một mực kêu oan cho nên săi Kính Tâm phải bị đem ra tra tấn.

Đứng trước cảnh thịt nát máu rơi và thấy tṛ bất tỉnh, sư ông mới động mối từ tâm đứng ra xin bảo lănh cho tṛ để sau này về nhà khuyên nhủ dạy răn.

Thấy thế hương đảng cũng niệm t́nh ưng thuận cho sư tiểu cùng về. Đến chùa, Sư ông dạy tiểu ra ở ngoài tam quan để tránh tiếng không tốt cho chùa.

Thời gian qua, Thị Mầu đến ngày măn nguyệt khai hoa, hạ sanh đặng một mụn con trai. Nàng bèn bồng hài nhi đến cửa tam quan bỏ đó rồi về, nói rằng: “Con của ngươi, đem trả cho ngươi.” Săi Kính Tâm đương tụng kinh nghe đứa nhỏ bị bỏ dưới đất giăy giụa khóc la, động mối từ tâm người bèn ra ẵm đứa bé vào, mướn vú nuôi bên tự. Mẹ ṿ nuôi con nhện lắt lẻo qua ngày.

Hết thời tŕ kinh th́ săi Kính Tâm lại phải giữ ǵn bồng bế đứa trẻ. Nghe vậy, sư cụ mới vời săi Kính Tâm vào mà trách rằng: “Trước kia con nói rằng con bị hàm oan, mà nay như thế th́ chính thầy đây cũng phải nghi ngờ nữa là ai?”

Săi Kính Tâm bèn bạch rằng: “Bạch sư phụ, khi xưa sư phụ có dạy đệ tử  rằng cứu đặng một người, phước đức hà sa. Đệ tử vâng lời thầy mới cứu mạng đứa trẻ này, chớ kỳ trung con không có ư chi hết.”

Tuy vậy săi Kính Tâm cũng không đặng phép vô ra trong chùa để tránh tiếng cho chùa.

Đứa trẻ khi đặng hai, ba tuổi đă có vẻ thông minh và giống săi Kính Tâm như hệt. Khi hài nhi đúng ba tuổi th́ săi Kính Tâm đến ngày phải theo Phật. Biết trước giờ phân ly, săi Kính Tâm mới viết hai bức thơ gởi lại, một kính gởi cho sư cụ, c̣n một bức th́ gởi cho cha mẹ ruột. Khi săi Kính Tâm tắt hơi th́ đứa nhỏ y như lời cha dặn đem bức thơ vào dâng cho sư cụ.

Xem thơ xong, sư ông rất ngậm ngùi, bèn phái vài vị ni cô ra coi tẩm liệm. Khám xét xong th́ mới hay săi Kính Tâm là nhi nữ trá h́nh.

Tin ấy truyền ra hương lân nhóm lại đ̣i cha con Thị Mầu đến buộc tội cáo gian và phạt phải chịu tổn phí về các cuộc tống táng và làm ma chay cho săi Kính Tâm. Bằng chứng sờ sờ phú ông phải chịu, Thị Mầu xấu hổ muôn phần bèn quyên sinh để trốn khổ nhục.

Đến ngày an táng săi Kính Tâm th́ thiên hạ đồng thấy Phật hiện trên mây rước hồn săi Kính Tâm là nàng Thị Kính. Hai vợ chồng Sùng Ông và Thiện Sĩ đặng thơ và hay tin đau đớn này đồng có đến dự. Sau cuộc tống táng vợ xưa Thiện Sĩ ăn năn lỗi trước bèn phát nguyện tu hành.

Tục truyền rằng Thiện Sĩ sau đắc quả thành con chim ngậm xâu chuỗi bồ đề, đậu một bên Đức Phật Quan Âm, Đức Phật Quan Âm cũng độ luôn con của Thị Mầu đắc quả hầu gần bên Ngài.

Ngày nay, người xứ ta và người Tàu khi họa tượng Phật Quan Âm th́ thường họa một bà đội mũ ni xanh hoặc đen, ngồi trên ṭa sen hoặc thạch bàn, bên tay mặt có một con chim mỏ ngậm xâu chuỗi bồ đề, dưới có đứa trẻ bận khôi giáp chắp tay hầu. Ấy là con của Thị Mầu.

SỰ TÍCH THỨ NH̀:

TÍCH BÀ DIỆU THIỆN HAY QUAN ÂM NAM HẢI

Theo sự khảo cứu của nhà bác học Ḥa Lan tên là De Groot th́ trong kiếp chót của Đức Phật Quan Âm, Ngài hạ phàm làm một vị công chúa Ấn Độ, con vua Linh Ưu, niên hiệu Diệu Trang.

Vào năm 2587 trước Chúa giáng sanh thuộc vào thời đại kim thiên (ciel d’or) bên Ấn Độ bên phương Tây có một tiểu quốc kêu là Hưng Lâm. Nhà vua trị v́ nước ấy tên Linh Ưu (Spirituel Excellent) lấy niên hiệu là Diệu Trang (Miao Tchoang). Tứ vi xứ Hưng Lâm là như vầy: Phía Tây giáp ranh Thiên Trúc Quốc (Inde), Phía Bắc giáp ranh Xiêm La, phía Đông giáp ranh Phật Chai Quốc (Sumatra), phía Nam giáp ranh Thiên Chơn Quốc (Tiên Tchan). Trong nước Hưng Lâm cảnh tượng thái ḥa là nhờ có vua hiền, tôi giỏi, bá tánh chuyên lo cày cấy, nông trang.

Chánh thê của nhà vua là bà hoàng hậu Bửu Đức. Từ ngày nhà vua tức vị đến nay đă 40 năm rồi mà bà hoàng hậu chưa hạ sanh đặng vị hoàng tử nào. Thấy thế bà lấy làm buồn và xin nhà vua đi cùng bà lên núi Huê Sơn cầu tự. Núi Huê Sơn ở về hướng Tây. Trên núi ấy có một vị thần rất linh thiêng. Ai cầu chi th́ đặng nấy. Vua nghe theo, một ngày kia quân gia rần rộ, xa giá nhắm Huê Sơn trực chỉ. Cầu tự xong về triều th́ một ít lâu bà có thai và đến ngày sanh đặng một vị công chúa đặt tên là Diệu Thanh (Miao Tsing). Cách một ít lâu hoàng hậu lại hạ sanh một nàng công chúa tên là Diệu Âm (Miao Yin) và sau rốt sanh ra nàng công chúa Diệu Thiện (Miao Chen). Vị công chúa thứ ba này ngày sau tu hành đắc đạo lấy hiệu là Quan Âm (Quan Yin).

V́ nhà vua không có con trai nên vua nhứt định truyền ngai vàng lại cho một trong ba vị pḥ mă (rể vua). Hai công chúa đầu là Diệu Thanh và Diệu Âm th́ nhà vua đă đính hôn cho hai vị quan to thinh danh nhứt trong triều. Trái lại nàng công chúa thứ ba là Diệu Thiện th́ cương quyết không chịu lấy chồng và nhứt định phế trần đi tu để thành chánh quả. Nghe con quyết định như thế nhà vua nổi cơn thịnh nộ và buộc nàng Diệu Thiện phải tuân lịnh xuất giá. Thấy thế nàng mới xin vua cha nếu ư định nhà vua như vậy th́ ít nữa xin cho nàng kết hôn với một thầy thuốc và thưa rằng: “Ư con là muốn cứu chữa hàng quan lại bất tài và ngu xuẩn, những tai nạn do sự nắng lửa mưa dầu, tuyết giá mà ra, những tính xấu xa ích kỷ về nhục dục, các tật nguyền, bịnh hoạn do sự già nua cằn cỗi mà ra, sự phân chia giai cấp, sự khinh rẻ kẻ nghèo và sự tư lợi.”

Nàng lại nói to lên rằng: “Chỉ có Đức Phật là được chứng quả bồ đề, minh tâm kiến tánh.” Nghe vậy nhà Vua lại càng tức giận thêm bèn hạ lệnh lột hết áo quần của công chúa và nhốt nàng vào huê viên để bị đói lạnh mà chết. Công chúa không sờn ḷng. Trái lại nàng cảm ơn vua cha đă phạt nàng như thế và chỉ vui tươi mà chịu khổ h́nh. Các bà mệnh phụ được lệnh ra khuyến dụ nàng hồi tâm tuân ư thánh chỉ. Nàng khư khư một mực và nhứt định vào chùa Bạch Tước ẩn tu, nhập thất tham thiền. Chùa Bạch Tước thuộc quận Long Thọ (Loung Chou), tỉnh Nhữ Châu (Ju Tcheou). Hay tin ấy nhà vua không cấm cản chi, đinh ninh rằng ra nơi ấy một ít lâu công chúa chịu không nổi với những nỗi khổ cực, sẽ chán nản mà về triều.

Nơi Bạch Tước Tự có mật lệnh của nhà vua phải buộc nàng làm những công việc đê tiện, hèn hạ và mệt nhọc nhứt. Nàng vẫn cúi đầu vâng chịu, không một tiếng than, là v́ khi nàng làm phận sự có những hùm beo, chim chóc và thần thánh giúp sức. Biết được thế cho nên bà sư cụ chùa Bạch Tước mới cụ sớ về triều tâu vua mọi sự. Vua cha bèn nghĩ ra một chước cốt làm nàng kinh khủng bỏ chùa mà về đền. Một bữa kia quân lính đến bao vây và phóng lửa thiêu chùa bốn mặt. Sư cụ và tất cả ni cô kinh tâm tán đởm chạy ngược chạy xuôi tầm phương tẩu thoát. Tiếng kêu trời kêu đất inh ỏi! Nàng Diệu Thiện điềm tĩnh như thường. Nàng chỉ lâm râm cầu Đức Phật mà nàng nguyện theo gương và xin Ngài đến cứu nàng. Nàng bèn rút trâm cài đầu đâm vào họng và phun máu tươi lên không trung, tức th́ mây kéo mịt mù, thiên hôn địa ám, mưa xuống như cầm chĩnh mà đổ. Bị đám mưa to các ngọn lửa đỏ ngất trời kia lần lần êm dịu rồi tắt. Thấy vậy quân chạy về phi báo. Nhà vua liền hạ lệnh bắt nàng và đưa về đền.

Khi điệu nàng về tới, nhà vua dạy mở yến tiệc ca xang, bày một cuộc lễ hội thật lớn cốt để đem nàng trở lại quăng đời phong lưu khoái lạc. Nhưng các cuộc bài trí ấy cũng không hiệu quả ǵ và cho đến những điều hăm dọa ghép nàng vào tử h́nh cũng không thấm vào đâu. Cùng thế nhà vua mới hạ lệnh trảm quyết nàng và dạy ba quân điệu nàng khỏi đền mới hành h́nh. Thần hoàng bổn cảnh liền tâu sự ấy lên cho Ngọc Đế rơ. Đức Ngọc Đế hạ lệnh cho thần hoàng bổn cảnh giữ ǵn hồn nàng đừng cho nhập địa phủ. Giờ hành h́nh đến, giám sát vừa giơ gươm lên th́ gươm găy làm hai. Giám sát bỏ gươm rút giáo toan đâm th́ giáo lại tét làm hai. Giám sát chỉ c̣n một nước là xử giảo nàng (thắt cổ). Đến giờ hành h́nh th́ có một trận cuồng phong thổi tới, làm cho trời đất tối tăm mà chung quanh ḿnh nàng th́ hào quang hiện ra sáng rỡ. Thần bổn cảnh liền hóa ra một con hổ, từ trong rừng xanh nhảy ra và cơng thây nàng chạy thẳng vô núi. Những kẻ đi xem hoảng chạy tứ tung. Quan quân và giám sát ảo năo muôn phần, lật đật về triều tâu vua mọi sự. Nhà vua không nao núng và lại cho rằng cọp tha thây là một sự trừng phạt nặng nề, gán thêm vào sự trừng phạt của nhà vua để phạt nàng về tội bất hiếu và tội bất tuân lệnh vua cha.

Nhờ huyền diệu ấy mà nàng DIệu Thiện tuy chết nhưng xác vẫn c̣n nguyên. Lúc ấy nàng mơ màng như thấy một giấc chiêm bao, cơ hồ như nàng đă lướt gió tung mây... Khi tỉnh lại nàng lấy làm lạ mà thấy ḿnh ở vào một thế giới không nhật nguyệt, tinh tú, không núi non, không người, không loài vật.

Bỗng chốc nàng thấy hiện ra trước mắt một vị thanh niên mặc áo màu xanh dương, hào quang chói rạng. Vị ấy đến trước mặt nàng, tay cầm một tờ giấy dài và nói rằng: Ḿnh vưng lệnh Diêm Chúa (Yama) mời nàng xuống viếng Diêm Cung để thấy rơ ràng cảnh khốn khổ và những h́nh phạt mà kẻ có tội phải chịu sau khi chết.

Nơi Diêm Cung mỗi khi nàng đi đến đâu nhờ sức thần thông và đức từ bi thuyết kinh của nàng các hồn bị giam cầm đều đặng cứu rỗi và thoát khỏi ngục môn hầu tái kiếp trở lại trần gian. Thập Điện Minh Vương cũng ao ước đặng nghe nàng thuyết pháp. Chiều ư Mười Vua, nhưng nàng xin rằng sau cuộc ấy các hồn tội nhân đều đặng phóng thích. Sau khi khoản ấy đă đặng các vua ưng thuận th́ nàng mới dùng hết phép thần thông của nàng mà thuyết pháp. Trong nháy mắt chốn U Minh biến thành lạc cảnh và các âm hồn đều đặng trở lại cơi trần. Thấy mười cơi U đồ đă trống trơn, Thập Điện Minh Vương mới lật đật phán rằng: “Mười điện chúng ta không quyền giam cầm vong hồn nàng Diệu Thiện.” Và tức khắc dạy đưa nàng trở lại dương gian.

Khi tỉnh dậy nàng Diệu Thiện lấy làm bối rối chưa biết phải đi phương nào. Lúc ấy Đức Phật Thế Tôn hiện ra trên mây dạy nàng phải ra ở núi Phổ Đà, giữa Nam Hải thuộc cù lao Hương Đảo để tu thêm. Muốn đến đó phải trải qua ba ngàn dặm đường. Bởi thế, Đức Phật Thế Tôn mới ban cho nàng một trái bàn đào vườn Tây Vương Mẫu để nàng đỡ đói khát trong một năm và nhơn có đặng trường sanh. Nàng sắm sửa thượng tŕnh. Thấy nàng sức yếu mà đường lại xa Đức Trường Canh Thái Bạch mới truyền cho thần bổn cảnh hóa ra con hổ, cơng đưa nàng ra nơi ấy. Thần bổn cảnh tuân y và trong giây phút nàng đă đến Phổ Đà Sơn.

Khi nàng tu đặng chín năm th́ có một vị Phật Tiếp Dẫn đến cho các vị thần trấn Phổ Đà Sơn hay rằng nàng Diệu Thiện tu hành đạo pháp hiện nay cực kỳ cao siêu mà từ trước đến giờ chưa vị nào đạt được. Nàng đă đứng trên tất cả chư vị Bồ Tát và cai quản các đấng ấy. Hôm nay, ngày 19 tháng 02 chúng ta phải yêu cầu vị ấy nhận một địa vị cao thượng hơn để cứu rỗi và ban hạnh phúc cho quần sanh.” Sơn thần Phổ Đà Sơn bèn triệu tập tất cả các thần tiên, thánh phật vùng ấy đến chầu và xưng tụng công đức của vị Bồ Tát mới vừa chứng quả và từ nay người thường gọi là Quan Âm Như Lai, Quan Âm Nam Hải, Phật Tổ Phổ Đà Sơn. Tân Bồ Tát ngự trên ṭa sen và tiếp kiến các đấng thiêng liêng đến bái kiến và khánh chúc. Lúc ấy chư thánh tiên mới định lựa một vị đồng tử để hầu Ngài. May đâu lúc ấy có một vị trẻ tuổi xưng là Hoàn Thiện Tài (Hoan Chen Tsai) nghĩa là người chỉ có đọc kinh mà đặng đức lành phép lạ. Thiện Tài đồng tử thú nhận rằng v́ mồ côi cha mẹ chàng mới phát nguyện tu hành quy y Phật pháp nhưng chưa chứng quả. Nay nghe tin Nam Hải Phổ Đà Sơn có Bồ Tát ngự nên quyết chí vượt qua mấy muôn dặm đến đây để hầu Ngài và xin làm đệ tử. Trước khi ưng chuẩn lời nguyện ấy, Đức Bồ Tát muốn thử tâm chí coi ra sao, Ngài bèn truyền cho sơn thần, thổ địa hóa làm ăn cướp đến vây đánh Phổ Đà Sơn. Riêng về phần Ngài th́ Ngài giả dạng sợ sệt, kêu la cầu cứu và giả té xuống hố sâu. Thấy vậy Thiện Tài đồng tử chạy theo cứu thầy và nhảy luôn xuống hố. V́ quyền năng pháp lực chưa đặng cao cho nên đồng tử phải thiệt mạng. Bồ Tát liền dùng thần thông cứu tử. Khi đồng tử tỉnh dậy th́ thấy một cái xác bên ḿnh, Bồ Tát cho biết đó là xác phàm của đồng tử và hiện nay đồng tử đă bỏ xác phàm và nhập vào cơi thánh. Từ đó Thiện Tài đồng tử một ḷng phụng sự Bồ Tát trong sự cứu độ chúng sanh.

Sau lại Đức Bồ Tát có thâu làm đệ tử nữ vị cháu gái của vua Nam Hải Long Vương tên là Long Nữ. Việc đă xảy ra như vầy. Ngày kia đệ tam thái tử con vua Long Vương hóa làm con cá, dạo chơi trên mặt biển, chẳng may vướng phải lưới của ông chài. Ông chài bắt cá ấy đem bán ngoài chợ. Ngự trên liên đài Bồ Tát biết rơ việc ấy, bèn sai Thiện Tài Đồng tử giả dạng thường nhơn đến mua cá ấy đem ra biển phía Nam thả. Nam Hải Long Vương nhớ ơn cứu tử con ḿnh mới định dưng cho Bồ Tát một cục ngọc ban đêm chiếu sáng để giúp Ngài đọc sách không cần đèn, và dạy Long Nữ là con gái của đệ tam thái tử phải bổn thân đem ngọc đến dưng. Đến nơi dưng ngọc xong, Long Nữ rất cảm phục huyền năng và đức độ của Bồ Tát và cầu xin Ngài cho theo hầu Ngài cùng quy thuận Phật pháp. Bồ Tát ưng cho. Từ ấy Long Nữ đặng thâu làm đệ tử hiệp cùng với đồng tử Thiện Tài mà phụng sự Ngài.

Từ khi Diệu Trang Vương dùng chước độc mà hại nàng Diệu Thiện th́ nhà vua phải một chứng bệnh hết sức khổ sở.

Thân thể nhà vua phải thúi tha đầy ung thư ghẻ chốc làm cho nhà vua nhức nhối đau đớn vô hồi. Đức Bồ Tát phóng đại quang minh biết rơ mọi sự. Nhà Vua lúc ấy hạ lệnh đăng bảng cầu danh y, Bồ Tát bèn giả dạng một nhà sư già đến xin chữa bịnh.

Khi đến trước mặt vua th́ nhà sư bèn tâu phải kiếm cho đặng đôi mắt và một đôi cánh tay của thân nhân nhà vua mới trị đặng bịnh, nhưng mà phải ra núi Phổ Đà mới kiếm đặng hai món ấy. Vua liền phái hai vị quan cấp tốc đến Phổ Đà Sơn để t́m hai món vừa nói. Thấy vậy hai vị pḥ mă rất bất b́nh và âm mưu định giết nhà sư và sau đó thí vua mà soán ngôi.

Bồ Tát rơ sự việc ấy và đă sai Thiện Tài đồng tử giả làm tên thị vệ hầu bên cạnh vua. Khi một tên quân của hai vị pḥ mă dưng cho vua một chén thuốc độc nói dối là của nhà sư dạy đem cho vua ngự th́ tên thị vệ kia tiếp bưng chén ấy và sẵn tay làm đổ ngay xuống đất. Đang lúc ấy một người lẻn vào pḥng nhà sư để thích khách. Bồ Tát bèn dùng thần thông làm cho tên ấy tê liệt không c̣n hoạt động nữa và bị bắt trói. Cơ mưu bại lộ, hai vị pḥ mă v́ sợ bị khổ h́nh nên đă uống độc dược tự tử. Hai vị công chúa phải tội liên can đều bị biếm vào lănh cung đời đời cấm cố. Hai nàng mới ăn năn, noi gương em ḿnh là Diệu Thiện lo tu hành. Khi hai nàng đă tấn hóa nhiều về con đường tu niệm th́ Bồ Tát và Thiện Tài đồng tử hóa ra hai thớt tượng bạch mà đưa hai vị công chúa đến cảnh Phật Đài để tránh xa mùi tục lụy.

Từ ngày hai vị sứ giả phụng mệnh nhà vua, tuôn mây lướt sóng trải biết bao khổ cực mới đến Phổ Đà Sơn, Thiện Tài đồng tử phụng lịnh Bồ Tát hiện ra tiếp rước. Hai sứ giả tŕnh bày mọi sự rồi được đến yết kiến Bồ Tát. Bồ Tát Diệu Thiện ngồi trên liên đài bèn trao cho hai vị sứ giả con mắt bên tả và cánh tay bên tả của ḿnh. Việc xong sứ giả cáo tạ rồi hồi trào, và dưng lên cho vua và hoàng hậu hai món đă kiếm đặng. Hoàng hậu nh́n lên cánh tay tả thấy có nốt ruồi và sau khi nghe sứ giả tả dung mạo người đă cho nhà vua hai vật ấy th́ quả quyết đó là con ḿnh và đau đớn không ngần.

Nhà sư bèn trộn hai món ấy với ít vị thảo dược rồi đem tất cả đắp lên nửa thân bên trái của nhà vua th́ nhà vua tức khắc khỏi đau phía bên mặt. Thấy thế nhà sư bèn tâu vua xin sứ giả ra Phổ Đà Sơn t́m cho đặng con mắt phía tay mặt và cánh tay mặt. Sứ giả vâng lệnh ra đi, không bao lâu đem về dưng đủ hai món. Nhà sư cũng làm y như trước th́ nửa thân bên phải của nhà vua khỏi ngay. Từ ấy vua Diệu Trang hoàn toàn lành bịnh. Trong triều, ngoài quận ai ai cũng đồng biết rằng nhờ con chí hiếu là Diệu Thiện mà nhà vua mới khỏi bệnh ngặt nghèo.

Sau khi khỏi chết vua cùng hoàng hậu cám ơn cứu tử, định ra Phổ Đà Sơn một chuyến để tạ ơn. Xa giá đăng tŕnh gặp không biết bao là nguy nan, nhưng đều nhờ Bồ Tát dùng phép thần thông mà cứu khỏi.

Đến nơi vua cùng hoàng hậu thấy Bồ Tát tọa thoàn trên liên đài mất cả hai mắt và hai tay. Nh́n biết là con ḿnh nhà vua ăn năn xúc động vô cùng bèn quỳ xuống cầu nguyện cho con đặng sống và đặng huờn y hai con mắt và hai tay. Khẩn nguyện xong th́ nhà vua và hoàng hậu thấy con ḿnh hiện trước mắt, tay mắt đủ, h́nh dạng mạnh khỏe như xưa.

Thấy phép thần thông vô biên của Bồ Tát vua cùng hoàng hậu nhứt định ĺa nơi điện ngọc đền vàng, lánh ḿnh trần tục t́m đàng thiên thai.

Huệ Lương

 

Thiên-Lư Bửu-Ṭa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674

Website: www.thienlybuutoa.org     Email    Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT

Thông bạch in Kinh