GƯƠNG
HẠNH TU CỦA ĐỨC NGÔ
MINH CHIÊU
NGỌC-DIÊU
Hằng năm, dù
ban tổ chức không làm thơ mời, nhưng
cứ đến ngày 13-03 Âm-lịch chư đạo
hữu các nơi từ Ṭa Thánh, Giáo Hội, Hội
Thánh, Thánh Thất, Thánh Tịnh, các đàn Chiếu
Minh, các đoàn thể Tôn giáo bạn và đông
đảo bá tánh thập phương tự động
tề tựu về nơi Tổ Đ́nh Chiếu
Minh Tam Thanh Vô Vi ở Cần Thơ để đảnh
lễ và tưởng niệm công đức Ngài Ngô
Minh Chiêu, nhơn kỷ niệm ngày qui Tiên 13-3 Nhâm Thân,
tức 18-4-1932. Nơi nào xa xôi không về được
th́ cũng thiết lễ cúng kỷ niệm Ngài
tại địa phương Đạo ḿnh.
Đức Ngô Minh
Chiêu là ai ? mà được đông đảo
đạo hữu khắp nơi ngưỡng mộ
như vậy ? Để t́m hiểu chúng tôi kính
mời quí độc giả theo dơi 3 tiết mục
sau :
A.Gia
thế và sự nghiệp đời của Đức
Ngô.
B.
Ngộ Đạo và vai tṛ của Ngài trong Đạo
Cao Đài.
C.
Tánh đức của Ngài khi c̣n sanh tiền .
A)
Gia thế và sự nghiệp đời của Đức
Ngô:
Theo quyển lịch
sử "Phần Vô Vi" của Đạo Huynh
Đồng Tân th́ Ngài là cháu nội gia đ́nh viên
quan Thị Lang họ Ngô của triều đ́nh
Huế, có lẽ do những cuộc chạy loạn
mà đă thiên di vào Nam. Lúc bấy giờ gia đ́nh
rất sa sút. Người con trai duy nhứt của
quan Thị Lang là ông Ngô Văn Xuân đă kết hôn
với bà Lâm thị Quư, người quận B́nh Tây,
tỉnh Chợlớn.
Đến ngày 7 tháng
Giêng năm Mậu Dần (là ngày thứ Sáu 8/2/1878), người con trai đầu ḷng
và cũng độc nhất của hai ông bà
được mệnh danh là Ngô Văn Chiêu đă
ra đời tại quê mẹ ở B́nh Tây
Chợlớn, trong một căn nhà lá nhỏ bé, phía
sau của ngôi chùa Quan Thánh, chung quanh toàn là những
mương rạch. Lúc Ngài lên 7 tuổi, gia đ́nh
túng quẩn quá, nên song thân đă phải gởi Ngài
cho người em gái ở Mỹ Tho có chồng người
Hoa,để ra Hà Nội tiếp tục việc sinh
kế.
Lúc nhỏ ở sau
chùa Quan Thánh, lại sống chung với ông dượng
thờ Đức Quan Thánh, nên lúc đó dù hẳn c̣n
bé thơ nhưng Ngài vẫn biết ăn chay
mỗi tháng 2 ngày, biết cách thờ phượng và
đọc kinh Minh Thánh. Đấy là loại kinh xưng
tụng công hạnh của một vị Thánh để
làm mẫu mực cho những ai muốn có một
đức độ siêu phàm noi theo.
Vốn sẵn có thiên
tư phú bẩm nên Ngài học rất giỏi,
lại có tài thi họa, vẽ truyền thần
rất sống động, sau ít năm học ở
trường Trung học Mỹ Tho (Collège de Mỹ
Tho),Ngài được chuyển lên trường
Chasseloup Laubat, th́ đậu bằng dipleime d ' Etudes
Primaires Superieures. Sau đó được bổ đi
làm:
-
Thư kư ở Sở Tân Đáo ngày 23-3-1899. ít năm
sau đổi về
-
Làm việc tại Súy Phủ Saigon, rồi làm
-
Thư kư Ṭa Bố Tân An, đến
-
1917 đậu Tri Huyện Sàig̣n, nhưng v́ để
tiện việc phụng dưỡng mẹ già nên Ngài
đă xin ở lại Tân An và làm Quận Trưởng
Tân An. Nhưng sau v́ buồn mẹ mất và không
muốn liên can đến việc làm bất chánh
của một số đồng liêu,nên đă làm
đơn xin đổi ra Hà Tiên.
-
Làm Quận Trưởng Hà Tiên ,01-03-1920 .
-
Làm Quận Trưởng Phú Quốc, 26-10-1920 .
-
30-7-1924 được đổi về Sàig̣n làm pḥng
II tại Soái Phủ Sàig̣n,sau đó lên chức :
-
Tri Phủ làm việc ở Dinh Thượng Thơ Sàig̣n
cho đến khi liễu.
Con đường
quan lộ của Ngài tương đối ít
bị trở ngại. Thăng quan tiến chức
đều đặn,đi đến đâu cũng
được quan yêu dân chuộng duy chỉ có
những người làm việc bất chính mới
ghét, v́ sợ tính cương trực của Ngài.
Đây là bài thơ của quí đồng nghiệp
tiển Ngài trước khi lên đường ra
trấn nhậm quận Hà Tiên.
Nhóm bạn vàng đủ mặt hiền lương,
Dưng lời chúc đưa người phước
đức;
Từ thi đỗ,ông lên quan chức,
So tánh thường, người ở trung dung.
Tổng làng cám kỉnh khôn cùng !
Há phải quan yêu th́ bạn ghét ?
Dân chúng kính thương chi xiết !
Thiệt là gần mến lại xa trông.
Tánh thanh liêm giữ mực chí công,
Ḷng trung hậu vẹn câu chữ tín.
......................................
Nay chỉ sai thuyên nhậm Hà Tiên,
........................................
Mới biết người lành Trời trả phúc,
Đă thêm lương lại đặng thêm
quyền,
Cho hay ḷng tốt dễ tầm Tiên.
..........................................
Gặp đêm thanh thưởng nguyệt giải
phiền,
Soài riêng ấy, Phật thủ nầy, phụ
với b́nh trà bạch cúc.
Cảnh Tiên người chẳng tục,
Say vui sơn thủy khúc t́nh trần.
Ḷng chánh ứng như thần,
Khuyên dạy hiền lương nuôi kẻ khó.
......................................
Tiệc tiển hành các bạn nhóm nơi đây.
...............................................
Lời quê mùa tỏ dạ mặn nồng,
Thơ bực chót xin dưng năm vận.
Thật đúng như
vậy, nhân cách Ngài rất xứng đáng với các
lời khen tặng trên. Khi làm quan Ngài rất liêm chính,
thương dân như con, lúc nào cũng hết ḷng
bênh vực người cô thế, giúp đỡ dân
nghèo. Mọi vấn đề kiện cáo đều
được giải quyết trên căn bản t́nh
lư phân minh, tuy nhiên Ngài cũng dạy dân chúng nên
" dĩ ḥa vi quư "đừng ham hơn thua
tranh chấp nhau từng chút việc nhỏ nhen. Lúc
ở Phú Quốc Ngài đối xử với tù nhân
chánh trị quá dễ dăi, đến nỗi chính
quyền Pháp nghi kỳ và thuyên chuyển Ngài về
Sàig̣n.
Đối với
gia đ́nh, Đức Ngô là một người con
rất mực chí hiếu. Cách phụng dưỡng
cha mẹ của Ngài thật đúng câu "sớm
thăm tối viếng mới đành dạ con".
Bao nhiêu lần cầu Tiên xin thuốc chữa
bịnh cho mẹ ! .
Đối với
vợ con Ngài cũng rất tṛn bổn phận làm
cha làm chồng, dùng nhân cách đạo đức mà
Ngài đă chịu ảnh hưởng nơi Đức
Quan Thánh để làm mẫu mực dạy dỗ
con cái. Ngài tất cả 9 người con, hai người
con gái đầu mất sau khi sinh vài năm,c̣n
lại 7 người,trong đó có 2 người
đă theo Ngài thọ Pháp tu đến liễu ;
đó là hiền tỷ Ngô Thị Nguyệt và
hiền huynh Ngô Khai Minh.
Khi làm việc dù có
đổi đi đâu, xa xôi thế nào Ngài cũng
đều đặn gởi tiền về cho gia
đ́nh vợ con đầy đủ, lương tháng
được chia làm 3 : phân nửa để chi
dụng cho cá nhân và cho người nghèo, phân
nửa cho gia đ́nh.
Về mặt nhân
đạo dù đa đoan bao công việc, Ngài cũng
chu tất toàn vẹn,về mặt Thiên Đạo,
dù chưa chính thức được gặp chân sư,
nhưng lúc nào Ngài cũng tỏ ḷng hiếu
kỉnh ngưỡng mộ Thiêng Liêng. Dù đổi
đến quận nào hay nghe đâu có đàn
cầu Tiên là Ngài đến nơi để tham
dự học hỏi, hoặc để cầu xin
Ơn Trên giúp đỡ cho đồng bào trong
việc thuốc men chữa bịnh.
B)
Ngộ Đạo và vai tṛ của Ngài trong Đạo
Cao Đài.
Nhờ vậy, mà Thượng
Đế đă t́m đến với người môn
đệ mà Ngài đă chọn một cách rất là
dễ dàng và môn đệ cũng t́m được
chân sư một cách mau chóng. Sau nhiều lần giáng
cơ chỉ thuốc hoặc khuyên Đức Ngô tu
hành,nhưng Thượng Đế không xưng danh,
đợi đến lúc Đức Ngô sắp đổi
đi Hà Tiên, Ngài mới xưng danh lần đầu
tiên, nhưng chỉ có 4 chữ "CAO ĐÀI TIÊN ÔNG"
thôi. Phải chăng đă đến lúc Ngài
muốn thu nhận đệ tử, nên đă
chuyển tâm Đức Ngô xin đổi đến
nơi cảnh Trời nước mênh mông, núi non
tịch mịch, thích hợp với sự trầm tư
học đạo, tịnh luyện công phu cho người
đệ tử lúc sơ cơ. Ra đến Hà Tiên,Thượng
Đế vẫn tiếp tục d́u dẫn Đức
Ngô trong mọi sinh hoạt hằng ngày, nhưng
vẫn chưa nói đến việc dạy Đạo
và học Đạo.
Sau đó Ngài
lại khiến Đức Ngô làm đơn đổi
sang đảo Phú Quốc (ngày 20/10/1920). Nơi đây
Đức Ngô mới chính thức được Thượng
Đế thu nhận làm đệ tử, dạy
phải ăn chay 10 ngày một tháng, ngưng tụng
kinh Minh Thánh và dạy phải gọi Ngài bằng
Thầy.
Đến mùng 1
Tết Tân Dậu (8/2/1921) Đức Ngô được
lịnh dạy phải trường chay 3 năm,
kể từ ngày hôm nay.
Đến hạ
tuần tháng 3 Tân Dậu, để chỉ về cách
thờ phượng, Thượng Đế đă
cho Đức Ngô trông thấy Thiên Nhăn sống
thực 2 lần liên tiếp tại Dương Đông,
Phú Quốc. Và Ngài cũng cho biết danh hiệu
đầy đủ của Ngài trong lần giáng
thế nầy là "Cao Đài Tiên Ông Đại
Bồ Tát Ma Ha Tát".
Sau đó, Đức
Ngô bắt đầu được Thượng
Đế mặc truyền bí pháp Cao Đài để
luyện Đạo và đắc Đạo ngay
tại thế.
Như vậy ta có
thể hiểu rằng : Đức Cao Đài đă
xuất hiện từ đầu năm Canh Thân
(1920).Tại Tân An và hiển hiện rơ rệt vào
đầu năm Tân Dậu (1921) để dạy
Đạo lần đầu tiên tại nước
Việt Nam, nhưng chỉ một ḿnh Đức Ngô
Minh Chiêu là người duy nhứt lănh hội hoàn toàn
từ Thánh Nhăn để thờ, đến danh
hiệu đầy đủ của Ngài, cũng như
Bí Pháp Cao Đài.....Đức Cao Đài không độ
nhiều người cùng 1 lúc mà chỉ một ḿnh
Đức Ngô, đủ biết địa vị
của Đức Ngô trong Đạo Cao Đài, không
thể so sánh với một ai khác được.
Ngược lại,
Đức Ngô cũng là một môn đệ rất
xứng đáng với ḷng kỳ vọng của Thượng
Đế qua lời đại nguyện sau đây :
"Nếu Đức Cao Đài độ cho tôi thành
Đạo th́ tôi sẽ lo độ lại chúng sanh
tùy theo phước đức của mỗi người".
Hơn nữa,trong
việc tu hành luyện Đạo, Đức Ngô
rất cần mẫn, nghiêm túc, nên sau 3 năm đă
được Đức Cao Đài khen :"Tu
kỹ, Đạo phát, lắm công phu " và
cho bài thi sau :
"Ba
năm lao khổ độ nhứt nhơn,
Mắt
Thầy xem rơ ḷng dạ chắc;
Thương
v́ con trẻ hăy c̣n thơ,
Gắng
chí tầm phương biết đạo
mầu".
Và để thưởng
công, Đức Cao Đài hứa sẽ ban cho đệ
tử một đặc ân, tùy ư đệ tử
chọn. Lúc đó Đức Ngô mới bạch
rằng : "Bạch Thầy, nghe rằng cảnh
Bồng Lai xinh đẹp vô cùng, Thầy có thể nào
cho đệ tử thấy cảnh ấy không ?"
Cơ gơ 1 cái mạnh, coi như đồng ư.
Ít lâu sau nhằm
một buổi chiều cuối tháng Giêng Giáp Tư
(1924),Đức Ngô ra hứng mát ngoài mé biển,
ngồi trên ḥn đá ngoài dinh Cậu ngó mong ra
biển, thấy biệt mù Trời nước, sóng
dợn ba đào. Bỗng nhiên nơi chỗ bầu
trời và mặt nước giáp nhau, hiện ra
một cảnh thật là xinh đẹp, chưa
từng thấy ở thế gian, cảnh nầy
vừa khuất lại hiên ra cảnh khác, cảnh khác....
chót hết là cảnh Thiên Nhăn thẳng xống
một hàng có Nhựt Nguyệt Tinh rất sống
động và sáng chói hào quang. Ngài ngồi coi mê
mẩn khoảng chừng 15 phút các cảnh ấy lu
dần rồi biến mất.
Tâm thanh tịnh
giải thoát của Đức Ngô đă thể
hiện rơ nét trong cuộc sống hằng ngày, ngay
cả việc chọn đặc ân mà Thượng
Đế hứa ban cho cũng rất là thanh thoát,
thay v́ xin châu báu ngọc ngà cho gia đ́nh thê nhi sung
sướng như bao nhiêu người thế gian thường
làm, Đức Ngô chỉ xin được thấy
cảnh Bồng Lai thôi, và Đức Thượng
Đế cũng rất hài ḷng về người môn
đệ của ḿnh nên đă phê :
"Ba
năm lao khổ độ nhứt nhơn,
Mắt
Thầy xem rơ ḷng dạ chắc".
Sau 3 năm làm
việc tại đảo Phú Quốc, Đức Ngô
được lệnh thuyên chuyển về Sàig̣n
ngày 30/7/1924, về Sàig̣n Ngài vẫn không chung
sống với gia đ́nh, ở một ḿnh trong 1 căn
phố mướn với 1 người giúp việc
để tiếp tục tịnh luyện công phu, lương
tháng vẫn chia đều cho vợ con.
Qua sự vận
chuyển của Đức Cao Đài, quí Ngài như:
Quan Phủ Vương quang Kỳ, Đoàn văn
Bản, Nguyễn hoài Sang, Vơ văn Sang, Nguyễn
hữu Đắc, Lê văn Trung và nhóm quí Ngài Cao
quỳnh Cư, Phạm công Tắc, Cao hoài Sang,
Nguyễn trung Hậu, Trương hữu Đức......
(nhóm nầy biết chơi xây bàn cầu Tiên,
từ tháng 6 Ất Sửu (1925), đến Hạ
tuần tháng chạp Ất Sửu được
sắc lịnh của Đức Cao Đài Thượng
Đế, dạy đi t́m Đức Ngô Minh Chiêu
để hỏi cách thờ phượng và lo
mở Đạo, Ngài lại c̣n dạy rằng,
mỗi mỗi phải do Chiêu là Anh cả).
Chư quí vị
lần lượt t́m đến gặp Đức
Ngô để Ngài hướng dẫn về cách
thiết lập Thiên Bàn, tạo Thánh Nhăn để
thờ Đại Từ Phụ, cũng như hướng
dẫn về các nghi thức lập đàn cơ,
sử dụng Đại Ngọc Cơ như
hiện giờ vẫn dùng....
Sau đó đến
30 tháng chạp Ất Sửu, tuân lệnh Đại
Từ Phụ, Đức Ngô cùng chư quí vị
kể trên luân phiên đến từng nhà nhau để
chúc mừng năm mới, đồng thời
lập đàn cơ, Đức Thượng Đế
đă tùy hoàn cảnh và tính t́nh mà ban cho mỗi người
một vé thi kỷ niệm ngày gặp gỡ nhau
trong nhóm môn đệ đầu tiên của Ngài.
Cũng trong đêm
đó, khi trở về nhà Ngài Lê văn Trung. Tái
cầu để Đức Thượng Đế
giáng dạy rằng :
"Chư
đệ tử nghe !
"CHIÊU
buổi trước hứa lời truyền Đạo,
cứu vớt chúng sanh. Nay phải y lời mà làm
chủ, d́u dắt cả môn đệ Ta vào
đường đạo đức,đến
buổi chúng nó lập thành, chẳng nên thối trúc.
Phải thay mặt cho Ta mà dạy dỗ chúng nó.
(Đức Ngô
bạch : phải đến năm 1933, th́
Đạo mới thành ?. Cơ gơ phải
).
...................................................................................".
Trong công việc
phổ truyền mối Đạo, Đức Ngô không
thối trúc trách nhiệm ḿnh, nhưng v́ tánh Ngài không
hay tranh cải, lại thấy phải cần yên tĩnh
để thực hiện cho hoàn tất kết
quả việc luyện Đạo theo bí pháp mà Thượng
Đế đă mặc truyền cho Ngài, nên đă
xin được ở nhà để có th́ giờ
tu công luyện kỷ.
Tuy nhiên, tối
thứ bảy nào Ngài cũng thiết tiệc chay
ngay tại nhà (110 đường Bonard) để
khoản đăi các vị đă thay mặt Ngài đi
lập đàn và giảng Đạo, Ngài cũng
tự động xuất tiền riêng ra sắm cho
mỗi vị 1 cái áo xuyến đen, hoặc áo hàng
trắng để mặc đi hành đạo. Sau
đó, dầu không chịu nhận trách vụ Giáo Tông
như lệnh dạy ngày 14-4-1926, nhưng Ngài cũng
xuất tiền ra hoàn lại bộ Thiên Phục mà
quí Ngài Cư,Tắc Trung đă sắm sẵn đem
xuống.
Từ đó trở
về sau coi như Đức Ngô ở nhà tiếp
tục việc trau luyện bí pháp, cơ phổ
độ có quí Ngài bên phổ độ lo. Thế
là Đạo Cao Đài từ đây đă thành h́nh
với hai thành phần căn bản : vô vi và
phổ độ ; hay c̣n gọi là : Nội Giáo Tâm
Truyền và Ngoại Giáo Công Truyền, hoặc cũng
gọi là Cao Đài Đại Đạo và Cao Đài
Tôn Giáo.
Đức Ngô Minh
Chiêu là người môn đệ đầu tiên
của Đức Cao Đài, đă chủ tŕ về
phần vô vi, là người duy nhứt được
thọ truyền bí pháp Cao Đài trực tiếp
từ Thượng Đế để luyện
Đạo và đắc Đạo ngay tại
thế gian, nên Ngài được xem là người
có công khai sơn phá thạch trên đường
nấu thuốc luyện đơn. Sáng lập đàn
Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi, Tổ Đ́nh hiện
ở Cần Thơ, chuyên về nội tu giải thoát
theo Tân pháp Cao Đài. Trong cơ phổ độ Ngài
là Anh cả, có công dẫn dắt cho nhóm môn đệ
đầu tiên của Thượng Đế trong
thời gian chuẩn bị khai Đạo. Cũng
nhờ Ngài mà nghi thức thờ Thiên Nhăn, lập
Thiên Bàn, nghi thức lập đàn cơ và một
số các bài kinh cúng tứ thời đă sớm
được áp dụng. Ngài được Thiên
Phong là Ngôi Hai Giáo Chủ và là Đệ Nhứt Giáo
Tông của nền Đạo Cao Đài.
C)
Tánh đức của Ngài khi c̣n sanh tiền (Gương
hạnh tu).
Đức Ngô
được xem như đă đắc Đạo
ngay sau khi từ Phú Quốc trở về Sàig̣n. Ngài
đă thị hiện những ấn chứng
huyền diệu do kết quả đắc Đạo
ngay trước mắt mọi người, nhứt là
đệ tử của Ngài được trực
tiếp chứng kiến rất nhiều việc,
khiến họ vừa nễ sợ vừa quí
mến Thầy. Và cũng nhờ vậy mà hàng đệ
tử cấp I (trực tiếp học pháp với Ngài)
tu hành rất nghiêm chỉnh không dám dể duôi nên
hầu hết đều đắc quả vị
rất cao. Các ấn chứng như :
- Ấn
chứng đắc Đạo tại tiền của
Đức Ngô Minh Chiêu.
1) biết trước
việc sắp xảy ra : Cho biết trước
sẽ có cơ đại náo tại chùa G̣-kén Tây
Ninh, trong ngày lễ khai Đạo 14-10 Bính Dần.
Biết trước ngày giờ liễu Đạo và
nơi xuất hồn ĺa xác.
2) Những
việc xảy ra ở xa :đệ tử Ngài
ông Đốc Học Nguyễn văn Thượng
đánh bài và cầu được ăn bài ở
tuốt dưới Cần Thơ, mà trên Sàig̣n Ngài
đă biết...
3) Đọc
được tư tưởng người khác
: nhiều việc đệ tử chưa kịp nói
ra,Ngài đă trả lời cho họ rồi.
4) Chữa
rất nhiều bệnh nặng và lâu năm mà
không cần thuốc men :
Ông
Đốc Học Đặng Khác Kỷ bệnh
xuất huyết đường ruột.
Bà
Lê Công Phương bệnh mù mắt.
Ông
Đốc Phủ Lượng bịnh thổ
huyết.
Ông
Hội Đồng Thơm bệnh di tinh...
5) Xuất hào
quang khi ngồi công phu.
6) Phân thân ra
để độ đệ tử : Hội
Đồng Bùi Minh Huy trước khi chánh thức
trở thành đệ tử Ngài đă chứng
kiến việc nầy: Rơ ràng khi ông Huy từ
giả ra về là Đức Ngô mặc áo chuẩn
bị công phu,nhưng khi bước lên cầu thang
hảng Charner th́ thấy Đức Ngô mặc áo dài
trắng, đầu đội khăn đống
đen từ trên lầu đi xuống và hai người
đă chấp tay vái chào nhau rất b́nh thường,lên
tới lầu Ông Huy như sực tỉnh
:"Ủa ổng đang ở nhà công phu mà ? "
Ông Huy vội vả đi xuống cầu thang ra
đường t́m, không thấy đâu, ông mới
đi bộ lần trở về nhà Đức Ngô,
thấy cửa pḥng vẫn đóng kín, nh́n qua khe
vẫn thấy Đức Ngô đang ngồi công phu.
Ông mới ra cửa hỏi người sửa giày
ngồi trước nhà Đức Ngô, ông nầy
vẫn quả quyết rằng : Đức Ngô không
có đi ra ngoài suốt buổi chiều nay. Ông Huy
đành lên cầu thang ngồi bệt xuống đất
chờ. hết giờ công phu Đức Ngô mở
cửa ra thấy ông Huy,Ngài tủm tĩm cười.
Ông Huy hỏi : Lúc nảy Thầy đến hảng
Charner,Đức Ngô mĩm cười trả
lời: "đâu có, tôi vẫn ngồi đây công
phu mà, có lẽ ổng (chỉ Thượng Đế)
thấy ông có căn tu,mới làm huyền diệu
cho ông thấy đặng ông tu đó thôi".
7) Xuất chơn
hồn nhiều lần : Trưa mùng 5/3 Canh
Ngọ (1939), xuất hồn đi dạo với
Đức Vân Trung Tử ngang qua đàn Hiệp Minh
(Cái Khế Cần Thơ) thấy quí đạo
hữu đang cầu cơ, liền giáng cho bài thi
sau :
THI:
Xuân
giao phảng phất hạ phùng nhiên,
Ngoạn
cảnh VÂN TRUNG thạch động Tiên;
Vũ
Trụ hoằng khai thành giác cổ,
Đống
lương đạo mỹ nghiệp hoàng duyên.
Thành
tâm thủ lễ sanh Chiêu Địa,
Lạc
ư quan nhân vận đạt Thiên;
Minh
hóa dè châu triêm phổ chúng,
Anh
linh hàm vịnh cổ kim truyền.
Nhân việc nầy,
chư đệ tử mới lấy ngày 5/3 làm ngày
kỷ niệm hiển Đạo tại thế
của Đức Ngô.
Gương
hạnh đức của Ngài Ngô Minh Chiêu.
C̣n rất nhiều
ấn chứng nữa, nhưng theo lời Đức
Ngô dạy đệ tử th́ huyền diệu
chỉ là những giả tướng, không đáng
để ư, chỉ có phần Tâm Pháp mới
là quan trọng cho người tu thôi.Vậy th́ chúng
ta hăy t́m hiểu xem Ngài đă luyện tâm như
thế nào ? Hay nói cách cách gương hạnh đức
tu của Ngài ra sao ?
Đức Ngô cũng
là một con người b́nh thường như bao
nhiêu người khác, cũng sinh ra trong đám dân
nghèo cùng khổ, cũng vợ con, cũng chịu
mọi kham khổ và tiến hóa như một người
thường. Nhưng sao Ngài lại đắc Đạo
được ?
1)
Đó là nhờ Ngài thực hiện được
gương tu nhứt tâm.
Tuyệt đối
tuân theo lời dạy của Đức Đại
Từ Phụ, lúc nào cũng một ḷng một
dạ lo tu sửa, không tại bị hay v́ bất
cứ lư do ǵ mà say suyển, thay đổi hay làm bê
trễ việc tu hành của Ngài được..
Đến giờ công phu dù khách c̣n đang ngồi
đó,Ngài cũng tự nhiên đứng lên mặc
áo, rồi ra trước Thiên Bàn lên nhang đền.....
Khách biết ư liền tạ từ ra về, câu
chuyện chưa xong cũng đứng lên ra về,
nếu cần th́ lát sau trở lại tiếp
tục câu chuyện. Ngài thường nói; phàm làm
việc chi làm một lần (quyết định
rồi là không thay đổi nữa).
2)
Ngài thể hiện được châm ngôn "Cư
trần bất nhiễm" qua 3 chữ vô sau đây
: Vô tư, vô dục, vô cầu.
* Vô tư :
Ngài không bao giờ để tâm ḿnh bị thành
kiến trước bất cứ ai, không phân
biệt thân sơ hay thương ghét riêng ai, không
trọng kẻ giàu sang, không khinh người nghèo hèn
mà lúc nào cũng giữ một mực, thân
thiện, kính trọng tất cả mọi người
như nhau.
* Vô dục :
Không để ḷng ḿnh ham muốn bất cứ
điều ǵ nơi thế gian.Tuy làm quan mà không thích
công danh.Ngài thường nói "Thân nầy
chẳng kể chi danh" hoặc "Chỗ ham sang
trọng khó theo Thầy". Lúc mới ra trường,
Ông Đốc Phủ Sủng là ân nhân giúp Ngài xin vào
nội trú trường trung học Mỹ Tho,
muốn gă con gái cho Ngài. Nhưng Ngài thẳng
thắn từ chối, v́ sợ con nhà quyền quí
coi thường cha mẹ ḿnh, việc ơn nghĩa
xin chờ dịp khác tạ đền. Ngài nói
:"Tố phú quí hành hồ phú quí, tố bần
tiện hành hồ bần tiện. Tố nào theo
tố nấy,thủ phận an bần, ai biểu chơi
với người sang trọng chi cho chúng nó
khinh". Tuy chức vị lên đến Quan Phủ,
Ngài cũng vẫn sống cuộc đời
đơn giản đạm bạc, không ăn
những thứ chiên xào nhiều dầu, không vẽ
viên bày nhiều món . Tương chao là gốc,
chuối xứ và đường thẻ là món tráng
miệng thường ngày. Ngài bảo : Miễn ăn
no bụng được rồi. Chỗ Ngài ở
rất sạch sẽ mà không bày biện phiền
phức. Đồ đạc trong nhà mỗi thứ
thường chỉ có một hoặc ba cái thôi, không
có thứ nào 2 hoặc 4 cái hay nhiều hơn
nữa. Thí dụ : chỉ có 3 cái ghế, một cho
Ngài, 2 cái cho khách,người khách thứ ba đến
th́ trải chiếu dưới mà ngồi, dù người
khách nầy là ông bà lớn ǵ cũng ngồi dưới
đất.
* Vô cầu
: Không cầu bất cứ điều ǵ cho ḿnh
kể cả dầu là ân sủng của Thiêng Liêng.
Ngài rất thương người khốn khó và
hay giúp đỡ họ, nhưng cách giúp đỡ
của Ngài thường kín đáo tế nhị, không
để người thọ nhận phải mang
mặc cảm của chịu ơn. Thí dụ Ngài thường
nhét tiền dưới gối hay dưới lư hương
của những nhà nghèo trong quận, người
được tiền không biết của ai để
cảm ơn. Hoặc gởi tiền ở các
trại ḥm trong quận,ai chết mà không tiền mua
ḥm th́ trại ḥm mang đến cho. Ba mươi
Tết Ngài thường ra chợ để mua hoa héo
của những người bán ế, để
họ được về sớm lo cúng ông bà....
Lúc c̣n sinh tiền
Ngài không chịu ai lạy lục và gọi bằng
Thầy, ai đến xin thọ Pháp,Ngài chỉ vào
Thiên Bàn và nói: đến xin ổng (chỉ Thượng
Đế), Ngài chỉ truyền Pháp cho những ai
được Đức Cao Đài cho phép qua phương
tiện hai đồng keo thôi.Ngài lập mối
Đạo một cách đơn giản,không cầu
kinh sách nhiều, cũng không cần phải luật
lệ rườm rà, chỉ cần trường chay
tuyệt dục, tụng kinh Cảm Ứng nghĩa
mỗi buổi sáng để noi theo sửa ḿnh là
đủ. Ngài không chú trọng nhiều đến
h́nh thức bên ngoài.
3)
Ngài thường bảo :"Quân tử tánh như
thủy". Nghĩa là phải luôn
giữ thái độ mềm dẻo như nước,
chảy khắp mọi nơi,không nề hà chỗ
thấp chỗ dơ, nhưng vẫn giữ tánh
của nước : giúp người làm sạch, mà
không kể công, không khoe khoang, Ngài tu mà không để
cho ai biết ḿnh tu. Ai muốn nghĩ ǵ về Ngài cũng
được,không hề cải chính hay giận
dữ bao giờ, ai nói xấu cũng xem như không,
Ngài thường nói : "Việc thị phi coi như
lông nhạn, ai cười mặc ai".
Tính Ngài rất khiêm
tốn, không hay phô trương kết quả sự
tu hành của ḿnh cho người biết. Qua câu
trả lời của Ngài với ông Bùi Minh Huy đủ
thấy đức khiêm tốn, kín đáo của Ngài
là dường nào !.
4)
Rất nghiêm khắc với chính bản thân.
Có khi Ngài tự lấy roi đánh ḿnh cả trăm
roi. Ông Cai Tổng Qui t́nh cờ biết chuyện
mới hỏi sao Ngài làm vậy ? Đức Ngô
trả lời : Tôi không muốn cho nó đi con
đường đó,nhưng nó lại giục tôi
đi,nên tôi đánh nó. Anh hỏi tôi mới trả
lời thôi, chớ đừng nói cho ai biết. Câu
trả lời của Đức Ngô có ư nghĩa
rằng : Ngài đă cẩn thận canh chừng tư
tưởng ḿnh từng sát na, khi một niệm
quấy nổi lên mà Ngài không diệt được
nó ngay là Ngài tự đánh ḿnh.
C̣n rất nhiều
đức tính khác nữa mà Đức Ngô đă
thể hiện trong cuộc đời tu hành của
ḿnh, nhưng v́ khổ giấy có hạn, xin hẹn
dịp khác sẽ nói thêm.
Tổng
Luận:
Tóm lại, qua
tiểu sử cuộc đời tu hành của Đức
Ngô Minh Chiêu, ta thấy Ngài quả là hiện thân
rất xứng đáng của Đức Thượng
Đế nơi thế gian nầy,thể hiện
xuất sắc một cuộc đời song tu đời
Đạo. Không cắt ái ly gia hay vào rừng lên núi,mà
ngay giữa chợ, vừa làm việc kiếm
sống nuôi gia đ́nh vợ con, vừa làm âm
chất lại lo công phu tịnh luyện một cách
hiệu quả nhứt. Điều nầy không
phải là một ngẫu nhiên, mà đấy chính là
một dụng ư của Đức Chí Tôn khi khai
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Ngài
cho thấy rằng đă hết giai đoạn
thần thánh hóa nhơn vật cứu đời,v́
làm như thế tức là làm cho nhân sanh họ
cảm thấy họ sẽ bất lực trong
sự tự cứu ḿnh. Mà phải từ một con
người b́nh thường dân giả đi đến
chỗ hoàn thiện và đắc Đạo th́
mới thích ứng với sự cứu đời
trong gian đoạn hiện tại. Đa số nhân
loại hiện nay ở vào hàng trung căn,hạ căn
lại nghèo khổ ngu dốt th́ phải có lối
tu hành đơn giản như Đức Ngô mới
làm cho những người nầy hết mặc
cảm mà hiểu rằng : Không cần phải
cắt ái ly gia,cũng không cần phải sang giàu
quyền quí hay thông trăm kinh vạn quyển
mới đạt được chân lư trường
tồn. Thật ra trong t́nh thế xă hội hiện
nay,nếu tu là phải phế đời,phải
cắt tóc, phải y phục cử chỉ riêng
biệt như một tôn giáo nào th́ điều
đó không c̣n thích hợp với xă hội hiện
đại nữa. Vả lại, lối tu ấy
chỉ ích lợi cho cá nhân hay tập thể nhỏ
hẹp mà thôi, c̣n đa số nhân loại vẫn ch́m
đắm trong vô minh tội lỗi.
Do đó không
những chỉ người Tín Đồ Cao Đài
thôi mà tất cả nhân loại phải hiểu
rằng : Đức Ngô Minh Chiêu là Ngôi Hai Giáo
Chủ, là Đấng Cứu Thế đă thay thân
cho Thượng Đế ở thế gian, làm
mẫu mực công việc thực nghiệm thành công
Tân Pháp Cao Đài mà Thượng Đế muốn
ban cho nhân sanh làm phương tiện để
tự cứu và cứu độ tha nhân trong
thời mạt kiếp vậy.
NGỌC-DIÊU |