GÓP
PHẦN NGHIÊN CỨU
BẢN
SẮC VĂN HÓA CAO ĐÀI
Suy nghĩ &
định hướng tiếp cận
Bài
nói chuyện tại Cơ quan Phổ thông Giáo lư
Đại đạo 9.30 sáng Chủ nhật 07.7.2002
(27.5 Nhâm Ngọ)
Văn
hóa là một khái niệm không dễ định nghĩa
Văn
hóa là từ rất quen thuộc, thường
được nghe, được thấy, được
nhắc tới trong đời sống. Nhưng người
ta vẫn hay quan niệm văn hóa rất mơ
hồ, hoặc rất khác nhau. [1]
Chẳng hạn, nghe nói đến cụm từ “văn
hóa đồi trụy” một số người không
đồng ư, v́ họ hiểu văn
là vẻ đẹp, là cái chất thiện
mỹ, c̣n hóa là
biến đổi nên, thành thử văn
hóa tự thân nó đă hàm ngụ một ư nghĩa
(cũng là một yêu cầu) là làm
cho trở thành tốt đẹp, thiện hảo.
Vậy, phàm đă là văn hóa th́ không thể đi
kèm với đồi trụy; mà đă là đồi
trụy th́ nhất định không thể gọi là
văn hóa.
Một
thí dụ khác, có người không tán thành cách
gọi “tŕnh độ văn hóa” trong các mẫu
lư lịch cá nhân. Theo họ, lẽ ra nên ghi là tŕnh
độ học vấn. Bởi lẽ nhiều ông
bà chân quê, ít học, thậm chí là mù chữ, nhưng
họ sống với con cháu, làng nước rất
có văn hóa; trái lại một số trí thức
khoa bảng, nhưng lại sống thiếu văn hóa.
Nói
tóm lại, văn hóa hoàn toàn không dễ định
nghĩa. Chả trách trong tác phẩm Culture:
a critical review of concepts and definitions (1952), hai nhà nhân
chủng học người Mỹ là A.L. Kroeber và
Clyde Kluckhohn đă dẫn ra đến 164 định
nghĩa về văn hóa, nhưng học giới
vẫn cứ chẳng hài ḷng, phàn nàn rằng
những định nghĩa hay khái niệm này
về văn hóa đều có chỗ bất túc,
tức là khiếm khuyết. [2]
Cái
ǵ thuộc về văn hóa?
Định
nghĩa văn hóa đă khó mà xác định
phạm vi của lănh vực văn hóa cũng
chẳng dễ. Cái ǵ thuộc về văn hóa? Cái
ǵ không thuộc về văn hóa? Nhiều người
quen gắn văn hóa với sách vở, kiến
thức, học vấn. Tuy nhiên, đức Giáo tông
Vô vi Đại đạo Tam kỳ Phổ độ
Lư Thái Bạch dạy: “Đừng
nên hạn hẹp hai tiếng văn hóa trong khuôn
khổ văn chương chữ nghĩa hay một
số môn học đạo đức, mà phải
quan niệm cho thật rộng, đúng nghĩa
của nó.” [3]
Lời dạy trên cho
thấy rằng văn hóa có phạm vi rất
rộng lớn, bao gồm nhiều lănh vực. Do
đó, nghiên cứu văn hóa đ̣i hỏi phải nghiên
cứu liên ngành. Nếu thế, những ngành,
những lănh vực ǵ sẽ nằm trong tầm
ngắm của người nghiên cứu văn hóa? Câu
trả lời có thể sẽ được
gợi ư qua định nghĩa của nhà nhân
chủng học người Anh là Edward B. Tylor.
Định
nghĩa này được Tylor đưa ra lần
đầu tiên vào năm 1871. Ông dùng từ văn hóa
(culture) để nói
đến “toàn bộ một phức hợp bao gồm tri
thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, luật
lệ, phong tục và bất kỳ những khả năng,
tiềm năng bẩm sinh và tập quán mà con người
xă hội có được.” [4]
Có
một nền văn hóa Cao Đài
American
heritage talking dictionary
(CD-ROM) định nghĩa văn hóa là: “Những
kiểu mẫu, các đặc trưng và sản
phẩm được coi là sự biểu thị
cho một thời kỳ, tầng lớp, cộng
đồng hay cư dân cụ thể.” [5]
Do đó, khi đă có cộng đồng tôn giáo Cao
Đài th́ có một nền văn hóa Cao Đài. Căn
cứ theo định nghĩa nói trên, nếu chia
nhỏ ra, ta c̣n có thể nói tới văn hóa Cao
Đài ở từng thời kỳ, từng khu
vực dân cư, v.v... Thí dụ:
– Xét về thời
kỳ, ta có thể nghiên cứu văn hóa Cao
Đài theo thời gian,
tức là theo lịch sử h́nh thành và phát
triển của đạo Cao Đài. Chẳng
hạn: văn hóa Cao
Đài thời kỳ khai Đạo, thời kỳ
phát triển, thời kỳ phân hóa, thời kỳ
vận động thống nhất, thời kỳ
sau chiến tranh, v.v...
– Xét về cộng đồng hay cư dân cụ thể, ta
có thể nghiên cứu văn hóa Cao Đài theo không
gian, tức là theo sự phân bố địa lư
của các cộng đồng tín đồ Cao Đài.
Chẳng hạn: văn hóa Cao Đài ở khu vực thành thị,
ở khu vực nông thôn, ở
trong nước, ở ngoài nước, v.v...
Nghiên
cứu văn hóa Cao Đài
cần chú ư nêu rơ cái ǵ?
Định hướng nghiên cứu văn hóa Cao
Đài, đức Giáo tông Vô vi Đại đạo
Tam kỳ Phổ độ Lư Thái Bạch dạy: “...
phải
nói lên được sự
liên hệ giữa văn
hóa dân tộc với văn hóa đạo đức;
nói lên được sự liên hệ
giữa dân tộc Việt Nam và các dân tộc khác
trên thế giới; nói lên sự liên hệ
độc đáo giữa đạo Cao Đài nói
tắt, Đại đạo Tam kỳ Phổ độ
nói nguyên văn, với các tôn giáo khác trên hoàn
cầu.” [6]
Định hướng này rất quan trọng. Ba
lần đức Giáo tông nói tới sự
liên hệ. Ta hiểu rằng không thể nghiên
cứu văn hóa Cao Đài như một đối
tượng biệt lập, trái lại phải rất chú ư
nghiên cứu văn hóa Cao Đài trong
nhiều mối tương quan khác nhau. Để
đạt được yêu cầu này, người
nghiên cứu cần phải áp dụng nhiều phương
pháp như so sánh (đối
chiếu), phân tích và tổng hợp.... Ngoài ra, chính
lời dạy của đức Giáo tông như
dẫn trên c̣n gợi mở cho ta t́m cách nhận
diện bản sắc văn hóa Cao Đài.
Rơ ràng công việc này quá lớn, theo đức Lư Giáo
tông, nó “đ̣i
hỏi khả năng về nhân sự, tŕnh độ
học thức, căn bản đạo lư, và phương
tiện không ít ... Do đó, người phụ trách
muốn h́nh hiện được trong muôn một,
ngàn một, trăm một hay chục một của
ư nghĩa cao cả ấy, phải tập trung
rất nhiều th́ giờ, tâm tư vào việc.
Chỉ một việc là văn hóa ấy thôi, cũng
là cả một vấn đề khó khăn rồi
...” [7]
Khi
chưa có thể quán xuyến bao quát tất cả
theo tầm mức vĩ mô như đức Giáo tông
vạch ra th́ trong nghiên cứu vi mô để góp
phần cho định hướng vĩ mô nói trên,
người nghiên cứu văn hóa Cao Đài cần
chú ư nêu rơ cái ǵ?
Có một khái
niệm văn hóa “đă
được cộng đồng quốc tế
chấp nhận tại Hội nghị liên chính
phủ về các chính sách văn hóa họp năm
1970 tại Venise [Venice]”,
và Federico Mayor, Tổng giám đốc UNESCO, nhắc
lại như sau: “... văn
hóa bao gồm tất cả những ǵ làm cho dân
tộc này khác với dân tộc khác, từ
những sản phẩm tinh vi hiện đại
nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục
tập quán, lối sống và lao động”.[8]
Mấy chữ “làm cho khác
với...” trong câu nói ấy tức là muốn ám
chỉ đến bản
sắc của từng nền văn hóa. Do đó,
khi nghiên cứu văn hóa Cao Đài, nếu chưa có
thể bao quát toàn bộ một cách có hệ
thống, dù chỉ mới tạm bàn đến
một góc cạnh nào đó, th́ cũng nhất
thiết phải chỉ ra, phải xác định xem
cái ǵ là bản sắc văn hóa Cao Đài.
Bước
đầu nghĩ về bản sắc văn hóa Cao
Đài
Bản sắc là ǵ? Khoảng năm 1931 Đào Duy Anh
định nghĩa bản
sắc là chân tướng.[9]
Đến năm 1999 Trần Văn Chánh định
nghĩa bản sắc là
màu sắc nguyên.[10]
Phải rất muộn, dường như đến
gần cuối thế kỷ 20, người Việt
Nam mới dùng từ identité
(Pháp), identity (Anh) để dịch từ bản
sắc.
Người phương tây hiểu bản sắc (identité,
identity) tức là tập hợp một loạt các
đặc trưng mà nhờ đó một sự
vật có thể được nhận diện,
nhận biết một cách rơ ràng, chính xác.[11] Như vậy suy ra, muốn nhận
diện đúng chân tướng cái ǵ, phải
biết được bản sắc của nó.
Căn cứ theo gốc từ Hán, bản
sắc là cái màu sắc nguyên thủy, ban đầu.
Hăy tạm nh́n văn hóa Cao Đài như một
phức hợp đa dạng, muôn vẻ, vạn
sắc – nghĩa là có nhiều tầng lớp xếp chồng lên nhau, đan xen
nhau; thế th́ phải chăng chỉ khi nào ta có
thể “bóc” dần hết các lớp phủ
chồng nhau để đi tới “lớp màu”
trong cùng, th́ bấy giờ mới hiện ra bản
sắc văn hóa Cao Đài?
Cao Đài là một tôn giáo kết tinh kim cổ, dung ḥa
đông tây. Người chưa hiểu Cao Đài
quen nói rằng Cao Đài chẳng có ǵ hết,
cứ góp một chút của tôn giáo A, một chút
của tôn giáo B, C, v.v..., mượn mỗi giáo
một chút, vậy là có Cao Đài (sic).
Chỉ khi nào tŕnh bày rơ cái ǵ là bản sắc văn
hóa Cao Đài bấy giờ mới không c̣n cách phát
biểu dễ dăi như thế.
Trở lại với lời dạy của đức
Giáo tông Vô vi Đại đạo Tam kỳ Phổ
độ Lư Thái Bạch về nghiên cứu văn hóa
Cao Đài: “... phải
nói lên được sự liên hệ giữa văn
hóa dân tộc với văn hóa đạo đức;
nói lên được sự liên hệ giữa dân
tộc Việt Nam và các dân tộc khác trên thế
giới; nói lên sự liên hệ độc đáo
giữa đạo Cao Đài nói tắt, Đại
đạo Tam kỳ Phổ độ nói nguyên văn,
với các tôn giáo khác trên hoàn cầu.”
[12]
Lời dạy này gợi ư cho ta thấy rằng bản
sắc văn hóa Cao Đài gồm có hai phần chung
và riêng.
a.
Chung
Văn
hóa Cao Đài không thể đột nhiên mà có,
bỗng chốc mà nên. Văn hóa Cao Đài h́nh thành
và phát triển trong ḷng dân tộc Việt Nam,
từ mảnh đất sản sinh ra dân tộc
Việt Nam cho nên tất nhiên phải chịu ảnh
hưởng của văn hóa Việt Nam và tất
cả những nền văn hóa ngoại lai đă du
nhập, giao lưu và để lại dấu ấn
trong văn hóa Việt Nam. Như vậy, xét về
phần chung, bản sắc văn hóa Cao Đài
gồm những ǵ:
(1)
ḥa quyện với văn
hóa dân tộc (văn hóa bản địa), đây
là tính truyền thống
của văn hóa Cao Đài;
(2)
ḥa quyện với văn
hóa đạo đức của cả nhân loại (tương
đồng với ưu điểm của các
nền văn hóa khác), đây là tính phổ
biến của văn hóa Cao Đài;
(3)
kế thừa một phần văn
hóa các tôn giáo khác mà Tam
giáo phương Đông có nội dung chủ
đạo cùng với phần đóng góp của Gia
Tô giáo, đây là tính kế
thừa của văn hóa Cao Đài.[13]
b.
Riêng
Đạo Cao Đài ra đời không phải để
làm tôn giáo thứ ngàn lẻ một trên hành tinh này.
Cũng y như thế, văn hóa Cao Đài không
phải chỉ là sự dung ḥa, tổng hợp
của tất cả các nền văn hóa đă và
đang có. Hai chữ “độc đáo” [14]
trong lời dạy dẫn trên của đức Giáo
tông v́ vậy cần được hết sức lưu
ư, v́ chính hai chữ này chỉ rơ rằng trong
bản sắc văn hóa Cao Đài nhất định
phải có phần riêng của Cao Đài.
Suy
nghĩ về cách tiếp cận bản sắc văn
hóa Cao Đài
Trở
lại với định nghĩa của Tylor, từ
gợi ư phong phú của ông, khi nghiên cứu văn hóa
Cao Đài ta có thể chú ư t́m hiểu: kiến trúc
Cao Đài (thí dụ: Đền thánh Tây Ninh), lễ
vía đức Chí tôn (mùng 9 tháng Giêng âm lịch),
tang lễ Cao Đài, Tân luật Cao Đài, v.v... Nhưng
như vậy đă đúng nghĩa là nghiên cứu
văn hóa Cao Đài chưa?
Nếu
công việc nghiên cứu này tập trung quá mức
ở phần miêu tả chi tiết, tŕnh bày lịch
sử ra đời, giải thích danh từ, dẫn
giải kinh kệ, v.v... th́ phải chăng đấy
cũng chỉ mới là quẩn quanh trong phạm vi h́nh
thức của kiến trúc, lễ hội, phong
tục, luật pháp... chứ chưa đi vào
cốt lơi bên trong v́ chưa lột tả được
bản sắc văn hóa Cao Đài ẩn tàng trong
đó?
·
Văn hóa Cao Đài bản chất là văn
hóa đạo đức. Đức Lư Giáo tông
dạy: “Văn hóa đạo
đức gồm có những ǵ tốt đẹp sâu
sắc trong lănh vực triết học, đạo lư,
thần linh học, từ nhân sinh quan đến vũ
trụ quan, sự liên hệ giữa Trời và con người,
sự liên hệ giữa Trời và vạn vật,
sự liên hệ giữa con người và con người,
sự liên hệ giữa con người và vạn
vật.” [15]
Lời
dạy của đức Giáo tông cho thấy văn hóa
Cao Đài có tác dụng giáo dục (và đây chính là căn nghĩa
của từ tố hóa trong từ văn hóa).
Nói cách khác, văn hóa Cao Đài nhằm hướng
dẫn con người biết cách thăng hoa
cuộc sống về cả hai mặt nhân sinh và tâm
linh.
(1)
Về nhân sinh, xây dựng một nhân sinh quan để
con người sống hài ḥa với con người
và với môi trường chung quanh (đó là sự
liên hệ giữa con người và con người,
sự liên hệ giữa con người và vạn
vật).
(2)
Về tâm linh, xây dựng một vũ trụ quan
để con người hiểu biết ḿnh trong sự
liên hệ giữa Trời và con người, sự
liên hệ giữa Trời và vạn vật.
Thử
lấy riêng ra mặt kiến trúc. Nếu bảo
rằng kiến trúc Đền thánh Tây Ninh là độc
đáo, là rực rỡ huy hoàng, là to tát, v.v... th́
trên thế giới xưa nay cũng không thiếu
những công tŕnh kiến trúc thật sự to tát,
hoành tráng, độc đáo. Do đó, chắc
chắn không bao giờ nên đem so sánh kiến trúc
Đền thánh với bất kỳ một kiến
trúc nào khác theo cách “hữu cơ” với tất
cả những sắc tướng, h́nh khối,
chất liệu, v.v... của mỗi công tŕnh. So sánh
như thế là so le, không mang lại một tác
dụng giáo dục nào, trong lúc tác dụng giáo
dục này nhất thiết không thể tách ĺa
mọi giá trị văn hóa.
Trái
lại, nếu nghiên cứu kiến trúc Đền
thánh Tây Ninh, từ những nét đặc trưng tiêu
biểu nhất mà chỉ ra được đâu là
những phản ánh rơ nét về
(1)
nhân sinh quan Cao Đài;
(2) vũ
trụ quan Cao Đài;
(3) các
mối liên hệ Trời–người,
Trời–vạn vật, người–người,
người–vạn vật, v.v...
th́ đấy
mới chính là chỉ rơ bản sắc văn hóa Cao
Đài trong kiến trúc.
Như
thế có lẽ sẽ không đ̣i hỏi người
nghiên cứu phải đủ tŕnh độ
hiểu biết chuyên môn của một kiến trúc
sư; và ngược lại nếu một người
chỉ hiểu biết về nghề kiến trúc th́
e cũng chưa đủ để nêu bật
bản sắc văn hóa Cao
Đài trong kiến trúc.
Nếu
người nghiên cứu vừa có tri thức chuyên
môn của nghề kiến trúc, vừa am hiểu
triết giáo phương đông, vừa thủ
đắc được căn bản giáo lư Cao
Đài, th́ sự nghiên cứu sẽ càng thâm sâu và
lư lẽ càng vững chắc. Ở đây rơ ràng
khả năng hiểu biết liên ngành sẽ phát
huy tác dụng.
·
Văn hóa Cao Đài cũng gắn liền với văn
hóa dân tộc. Đức Lư Giáo tông dạy: “Văn
hóa dân tộc nói lên được tất cả
những cái ǵ cao quư tốt đẹp của
một dân tộc từ văn học, triết
học, nghệ thuật, phong tục tập quán
đến quốc hồn quốc túy của dân
tộc ấy.” [16]
Trong chiều hướng
nghiên cứu văn hóa Cao Đài và làm nổi
bật truyền thống văn hóa dân tộc có
lẽ cần nên lưu ư rằng văn hóa Cao Đài
không chỉ đơn thuần nối
tiếp, phát huy truyền thống văn hóa dân
tộc, trái lại văn hóa Cao Đài c̣n phục
hồi để bảo tồn và phát huy
những ǵ mà do hoàn cảnh, một số giá
trị tốt đẹp đă bị lăng quên hay mai
một.
Văn
hóa Cao Đài góp phần phục
hồi văn hóa truyền thống dân tộc
Nói phục hồi như trên là có cơ sở, ta
tạm nêu bốn bằng chứng:
(1)
Thử lấy trường hợp nghiên cứu văn
hóa Cao Đài về mặt tang lễ. Ở đây
chắc chắn mục đích không phải là miêu
tả toàn bộ nghi thức lễ tang Cao Đài như
một phong tục góp mặt với rất nhiều
phong tục ma chay đă và đang có trong xă hội
Việt Nam. Trái lại, qua các nghi thức tang lễ
Cao Đài phải làm sao nêu bật được
tinh thần tương trợ tương ái vô
vị lợi của cộng đồng Cao Đài.
Trong
thời buổi “kinh tế thị trường”,
khi mà ngay cả cái phần rất thiêng liêng là
việc làm đám và cầu siêu cho người
chết cũng trở thành một dịch vụ có
trả tiền (bị thương mại hóa) th́ nét
đẹp văn hóa trong tang lễ Cao Đài quả
thật rất ư nghĩa.
Ở
đây chưa nói tới những ư nghĩa huyền
nhiệm siêu h́nh trong mối liên hệ Trời–người
qua các phép bí tích (phép xác), làm lễ cầu siêu cho
vong nhân..., riêng sự hợp quần tự
nguyện của đồng đạo đến làm
đám một cách thành kính, chân t́nh để
phụ giúp tang gia, điều này chính là nét văn
hóa cổ truyền của người Việt, nó
đă sớm có từ thời Hồng Bàng, như
sử sách c̣n ghi chép: “...
nhà có người chết th́ giă gạo để
cho hàng xóm nghe mà chạy đến cứu giúp ...”
[17]
(2)
Hoặc nói về trang phục phái nam. Làn sóng Âu hóa
đă đẩy lùi chiếc khăn đóng và tấm
áo dài nho nhă truyền thống của dân tộc
đi vào mai một. Đă một thời khăn
đóng và áo dài bị coi là “cổ lỗ
xỉ”. Cao Đài không những phục hồi trang
phục dân tộc mà c̣n nâng lên thành đạo
phục, tức là lễ phục, như vậy cũng
là làm cho trang phục riêng của dân tộc trở
thành trường cửu. Khi đạo Cao Đài càng
được truyền bá rộng ra ngoài biên cương
bờ cơi, th́ càng làm cho h́nh ảnh tấm áo dài và
chiếc khăn đóng của dân tộc được
quảng bá.
(3) Lưu
dân mở đất phương Nam đă để
lại cho người dân Nam Kỳ lục tỉnh ngày
trước tập quán rất đạo lư: mỗi
khi ăn cơm th́ trước tiên biết kính
cẩn nâng chén cơm lên ngang trán lâm râm khấn vái,
tạ ơn trời đất đă ban cho ḿnh
vật thực nuôi thân. Dần dần nét đẹp
văn hóa này bị mai một. Thậm chí, một
số kẻ c̣n phung phí miếng ăn ở chốn
cao lâu, tửu điếm xa xỉ. Kinh Cao Đài
dạy con người trước khi ăn cơm phải biết tạ
ơn,[18] đó cũng là phục hồi một
truyền thống đạo lư.
(4) Có
một thời gian nhiều năm, sinh hoạt cúng
đ́nh bị coi là “tàn dư” của... phong
kiến! Nhiều đ́nh bị bỏ phế,
hoặc sử dụng vào mục đích khác. Đến
khi văn hóa dân tộc được đề cao,
đ́nh được phục hồi, th́ nhiều
đ́nh không c̣n khả năng lập lại ban
nhạc lễ cũng như nghi thức cúng đ́nh...
Trong trường hợp đó, đă có nhiều
đ́nh t́m đến thánh thất Cao Đài,
nhờ ban nhạc lễ Cao Đài trợ giúp.
·
Cuối
cùng, nghiên cứu bản sắc văn hóa Cao Đài
cũng cần chú ư đến tính hệ thống,
nhất quán để tŕnh bày văn hóa Cao Đài
như một ḍng chảy liên tục, thấm
nhập và xuyên suốt các mặt của đời
sống cộng đồng Cao Đài, phản ánh mức độ cao về chân, thiện, mỹ có
được do kết quả tu dưỡng và rèn
luyện lâu ngày trong môi trường đạo
đức. Những phác thảo trong bài này
chỉ mới là một cố gắng suy nghĩ,
thử định hướng tiếp cận cho
việc nghiên cứu bản sắc văn hóa Cao
Đài. Tạm coi như lời gợi
mở để cùng chia sẻ và trao đổi
thêm.
(Phú
Nhuận, 07.7.2002)
Theo American heritage talking dictionary (CD-ROM), từ capabilities
vừa có nghĩa khả
năng (abilities), vừa có nghĩa tiềm
năng bẩm sinh (innate
potential for growth, development, or accomplishment).
Khi dịch, tôi chọn cả hai nghĩa.
[5]
“These patterns, traits, and
products considered as the expression of a particular period, class,
community, or population.”
[11]
American
heritage talking dictionary (CD-ROM)
giảng identity như sau: “The
collective aspect of the set of characteristics by which a thing is
definitively recognizable or known.”
|