TRỞ VỀ MÁI
NHÀ XƯA
LÂM NGỮ ĐƯỜNG
(Tiến sĩ Lâm Ngữ
Đường, sinh năm 1895, một học giả
nổi tiếng của Trung Hoa, không phải là một nhân
vật xa lạ với đa số chúng ta. Sau khi hoàn
tất việc học tại Trung Quốc, ông đă
học thêm tại Đại Học Harvard, Hoa Kỳ, và
tại Đức Quốc. Ông về nước và đảm
trách nhiều chức vụ quan trọng trong ngành giáo
dục như giáo sư Anh Văn tại viện Đại
Học Quốc Gia Bắc Kinh, Giám Đốc Học Vụ
Viện Đại Học Phụ Nữ Bắc Kinh, chủ
bút phần Anh Ngữ cho tờ Academia Sinica. Ông cũng là
chủ bút của nhiều tạp chí chuyên môn ở Á Châu,
làm Viện Trưởng Viện Đại Học Nanyang
ở Singapore, và Giám Đốc Phân Bộ Văn Hóa
Nghệ Thuật của tổ chức UNESCO.
Năm 1937, Tiến Sĩ Lâm
Ngữ Đường xuất bản quyển The Importance
of Living (Nguyễn Hiến Lê đă dịch ra tiếng
Việt với tựa đề Một Quan Niệm Về
Sống Đẹp). Đây là quyển sách nổi
tiếng nhất của ông, sách nầy đă dẫn đầu
số sách bán chạy nhất lúc đó.
Tiến sĩ Lâm Ngữ
Đường sinh trưởng trong một gia đ́nh Cơ-đốc
và theo học trường đạo từ nhỏ, nhưng
khi lớn lên ông đă khước từ niềm tin đó
và chủ trương sống theo triết lư Khổng
Mạnh. Trong quyển Một Quan Niệm Về Sống
Đẹp, Tiến sĩ Lâm Ngữ Đường dành
nguyên một chương nói về niềm tin của ḿnh
và cho biết sở dĩ ông chống Cơ-đốc giáo
v́ đối với ông đạo nầy quá "kiêu
ngạo," cho rằng ḿnh có thể biết Thượng
Đế và định nghĩa được Thượng
Đế. Về phương diện đạo đức,
ông cho rằng đường lối của Khổng giáo
hay hơn Cơ-đốc giáo trong việc hướng
dẫn đời sống con người.
Tiến sĩ Lâm Ngữ
Đường cũng viết thêm nhiều sách khác,
phần lớn về văn hóa và triết học của
Trung Hoa và Ấn Độ. Chính ông là người đă
phát minh ra máy đánh chữ tiếng Trung Hoa. Tài năng
của ông đă khiến ông trở thành biểu tượng
cho học giả của Á Đông hiện đại.
Tiến sĩ Lâm Ngữ Đường cư ngụ
tại New York trước khi ông qua đời tại đây
vào năm 1976. Trong những năm ở tại New York,
vợ ông thường đi nhà thờ Hội Trưởng
Lăo ở đại lộ Madison. Một Chúa Nhật
nọ, bà rủ ông cùng đi...
Phần c̣n lại của
câu chuyện được đăng trong báo Presbyterian
Life, xuất bản ngày 15-4-1959, dưới tựa đề:
"Tại sao tôi trở lại với Cơ-đốc giáo?")
Nhiều người đă hỏi tôi (có người
hỏi với giọng vui sướng, có người
với vẻ thất vọng) rằng, tại sao một người
từng kể ḿnh là người vô đạo như tôi
lại trở về với Cơ-đốc giáo? Tôi
trở về với đức tin Cơ-đốc và gia
nhập Hội Thánh của Chúa là v́ tôi muốn quay
về với ư thức về Thượng Đế và t́nh
yêu của Ngài mà Chúa Giê-xu đă mạc khải cho tôi cách
đơn giản và rơ ràng.
Câu hỏi quan trọng nhất trong đời
sống là: Con người có thể sống mà không
cần đến tôn giáo hay không? Trong hơn ba mươi
năm, tôn giáo duy nhất của tôi là chủ nghĩa nhân
bản (humanism), hay nói đúng hơn là quan niệm của
Khổng giáo về cuộc đời. Quan niệm này cho
rằng nhờ giáo dục, con người có thể làm
cho ḿnh trở nên người toàn thiện. Đây cũng
là quan niệm chủ trương rằng con người
thừa sức để giải quyết những vấn
đề của chính ḿnh. Bây giờ th́ tôi tin rằng
nếu không có tôn giáo, con người không thể nào
sống c̣n. Con người không thể nào, và sẽ
chẳng bao giờ có thể tự giải quyết
vấn đề của chính ḿnh và tôn giáo nào dựa vào
khả năng tự trở thành toàn thiện để
cứu giúp người th́ chưa thể kể là tôn giáo.
Con người cần được nối
kết với một Sức Mạnh ở bên ngoài và
lớn hơn chính ḿnh. Tôi tin rằng đức tin Cơ-đốc,
qua sự mạc khải của Chúa Cứu Thế, đă
cung ứng cho con người con đường duy nhất
dẫn đến Thượng Đế. Và tôi cũng
phải công nhận rằng, khi tinh thần vô tôn giáo và
chủ nghĩa vật chất gia tăng, th́ tinh thần
của con người cũng băng hoại và yếu ṃn.
Chính tôi đă chứng kiến những hành động
tệ hại của một quốc gia sống mà không
kể ǵ đến Thượng Đế.
Đến đây có lẽ tôi cũng nên nói
qua về chính ḿnh tôi để quư vị rơ. Gia đ́nh tôi
theo Cơ-đốc giáo đă ba đời. Cha tôi là
mục sư của Hội Trưởng Lăo. Ông làm
mục sư tại một làng nằm trong miền núi
hẻo lánh, gần cửa khẩu Hạ Môn, thuộc vùng
biển Đông Nam của Trung Quốc. Nơi chúng tôi
sống là một thung lũng có núi bao bọc chung quanh, cũng
chính v́ thế mà người ta gọi làng tôi là "cái
hồ." Thời thơ ấu của tôi thật tươi
đẹp, tôi được sống gần với Chúa,
bên cạnh thiên nhiên hùng vĩ mà Ngài đă tạo
dựng. Tôi được thưởng thức vẻ
đẹp của những đám mây phủ trên các đỉnh
núi cao, đồng cỏ xanh ngát dưới ánh hoàng hôn,
tiếng róc rách của ḍng suối nhỏ. Những
kỷ niệm này ảnh hưởng đến niềm
tin của tôi rất nhiều, nó làm tôi chán ghét tất
cả những ǵ giả tạo, phiền toái và nhỏ bé.
Khi tôi c̣n nhỏ, gia đ́nh tôi sống
đơn sơ, nhưng đầy t́nh thương. Anh
chị em chúng tôi không được phép căi nhau, và
thật vậy, chúng tôi chẳng bao giờ căi nhau. Trong nhà
ai cũng ham học, ai cũng muốn học hành đến
nơi đến chốn. Nhưng lúc đó, mới đầu
thế kỷ hai mươi, Từ Hi Thái Hậu c̣n
cầm quyền tại Trung Quốc. Cha tôi nói với chúng
tôi giọng nửa đùa nửa thật rằng, ông hy
vọng một ngày kia tôi sẽ được du học
ở Đại Học Berlin hoặc Oxford. Gia đ́nh chúng
tôi thường hay mơ ước những chuyện
viển vông như thế.
Sau đó ít lâu, một biến cố
xảy ra trong gia đ́nh đă tạo ảnh hưởng
sâu đậm trong đời tôi. Người chị
thứ hai của tôi, rất thông minh và hiền hậu,
muốn đi học đại học, nhưng ở Trung
Hoa lúc đó việc học hành là của con trai chứ ít
ai nghĩ đến cho con gái. Hơn nữa, cha tôi chỉ
có thể lo cho một người ăn học mà thôi. V́
thế, năm 21 tuổi, chị tôi đi lấy chồng.
Tôi c̣n nhớ ngày hôm đó, tôi và chị tôi cùng xuôi
một chuyến đ̣: chị đi về nhà chồng, c̣n
tôi lên Thượng Hải để vào đại
học. Lúc chia tay, chị tôi lấy trong túi chiếc áo cưới
bốn mươi đồng bạc, giúi vào tay tôi,
vừa khóc vừa nói: "Chị là con gái, không
được đi học, c̣n em, được đi
học đại học, đừng lăng phí cơ
hội. Em ráng học để mai kia trở nên một người
tốt, hữu dụng và nổi tiếng."
Hai năm sau, chị tôi chết v́ bệnh
dịch hạch. Bốn mươi đồng chị cho tôi
đă tiêu hết, nhưng những lời chị nhắn
nhủ, tôi chẳng bao giờ quên! Lên Thượng
Hải, tôi chọn ngành thần học để ra làm
mục sư, nhưng chẳng biết v́ sao, tôi cảm
thấy môn thần học thật là vô nghĩa, và tôi
đâm ra chán, không muốn học nữa. Nghĩ rằng
nên thành thật với chính ḿnh là hơn, nên tôi bỏ
ư định làm mục sư. Và dù vẫn c̣n ḷng tin nơi
Chúa, tôi cũng bỏ, không đi nhà thờ nữa!
Từ đó những ảnh hưởng
chung quanh tôi đă khiến tôi trở thành người
ngoại đạo. Sau khi tốt nghiệp đại
học, tôi lên Bắc Kinh để đi dạy. Cũng
như bao nhiêu sinh viên khác ở trường thần
học ra, tiếng Trung Hoa của tôi rất kém. Tôi cũng
không biết nhiều về văn học dân gian, và là tín
đồ Tin Lành lúc đó, tôi không được phép
nghe nhạc đời. Mỗi khi đi ngang qua rạp hát,
chúng tôi phải nh́n thẳng phía trước mà đi, không
được lảng vảng gần những nơi
ấy. Hồi nhỏ, tôi biết chuyện Giô-suê thổi
kèn làm cho tường thành Giê-ri-cô sụp đổ, nhưng
chẳng ai kể cho tôi nghe chuyện nước mắt
của nàng Mạnh Khương làm trôi một góc Vạn
Lư Trường Thành! Tiếp xúc với một xă hội
Trung Hoa thật sự với tất cả những hào nhoáng
của Bắc Kinh, tôi thấy xấu hổ trước
sự dốt nát của ḿnh nên tôi đă lao đầu vào
việc nghiên cứu văn chương và triết học
Trung Quốc.
Tuy nhiên, đối với người
được trưởng dưỡng trong một gia
đ́nh "đạo ḍng" như tôi, đó không
phải là chuyện dễ. Tôi lo sợ khi phải bước
ra khỏi thế giới có Chúa bao bọc để bước
vào một thế giới hoàn toàn ngoại giáo. Nhưng
rồi một người bạn của tôi, một nhà trí
thức theo đường lối giáo dục mới đă
thu hút tôi với chủ trương "nhân chi sơ tính
bản thiện" của Nho giáo! Tôi biết rằng,
Đức Khổng Tử đă dạy con người thà
chết lành hơn sống dữ! Mạnh Tử cũng
đă nói: "Tôi yêu đời sống nhưng cũng yêu
lẽ phải, nếu không thể có cả hai, tôi sẽ
sẵn sàng hy sinh đời sống để được
lẽ phải."
Đó là căn bản của chủ nghĩa
nhân bản: cậy vào sức mạnh và lư trí để
nâng cao và cải thiện chính ḿnh, rồi sau đó
cải thiện cả thế giới! Đây cũng là
chủ trương của những nhà duy lư trong thế
kỷ 18 (theo tôi, chủ trương nầy cũng
chịu ảnh hưởng ít nhiều của Nho giáo) như
Voltaire, Diderot, Leibnitz. Đây là thời đại mệnh
danh là Thời Đại Khai Sáng.
Chủ thuyết nầy đă làm thỏa măn
tâm hồn tôi suốt nhiều năm. Nhưng rồi qua
kinh nghiệm và những phút suy tư, tôi thấy h́nh như
có một cái ǵ bất an bắt đầu xâm chiếm tâm
hồn. Tôi nhận thấy rằng thời đại Khai
Sáng theo chủ nghĩa nhân bản đă nảy sinh ra
chủ nghĩa vật chất. Niềm tin tưởng vào
chính ḿnh gia tăng, nhưng niềm tin đó không làm con
người trở nên thánh thiện hơn. Con người
có thể tài giỏi hơn, nhưng càng ngày con người
càng mất đi tính mềm mại, khiêm tốn của
một người đứng trước sự hiện
diện của Thượng Đế. Lịch sử
hiện đại chỉ cho tôi thấy rơ rằng,
thiếu đức khiêm tốn ấy, con người dù
rất tiến bộ về kỹ thuật và vật
chất, đă trở nên những con người dă man và
tàn ác.
V́ càng ngày càng không thỏa ḷng với
chủ nghĩa nhân bản, tôi luôn luôn tự hỏi:
"Có tôn giáo nào trên đời này có thể đáp
ứng được niềm khao khát của những người
văn minh học thức không?"
Cũng giống như chủ nghĩa nhân
bản, Nho giáo với tất cả những giáo huấn
đạo đức cao siêu, vẫn không đủ để
cải thiện con người v́ đă nhiều lần,
nhiều cách, con người chứng tỏ rằng ḿnh không
tốt đẹp chút nào. Phật giáo, là đạo
từ bi, đặt căn bản trên triết lư cho
rằng tất cả những ǵ có thể cảm biết
được trên đời này chỉ là ảo ảnh.
Điều hay nhất và điều duy nhất mà Phật
giáo có thể cống hiến cho đời là cho con người
biết rằng, "Đời là bể khổ!"
Triết lư của Lăo giáo th́ rất gần với Bài
Giảng Trên Núi của Chúa Giê-xu. Tuy nhiên, chủ trương
trở về với thiên nhiên và chữ "nhàn"
của Lăo giáo chẳng những không thích hợp với
đời sống văn minh mà cũng không giải
quyết được vấn đề của con người
hiện đại.
Có lẽ trong thời gian này, đức tin
của thời thơ ấu đă sống lại trong
tiềm thức tôi. Trong những năm đó, mỗi
lần chúng tôi di chuyển đến nơi nào, nhà tôi cũng
t́m đến nhà thờ để đi lễ. Thỉnh
thoảng tôi cũng đi theo. Dầu vậy, mỗi
lần ở nhà thờ về, tôi cảm thấy thất
vọng hơn là phấn khởi. Tôi không thể nào
chịu nổi khi phải nghe một bài giảng quá
dở. Tôi khó chịu mỗi khi nghe vị mục sư nói
về tội lỗi, địa ngục và diêm sinh trong
hồ lửa. Cuối cùng tôi tự nhủ sẽ
chẳng bao giờ trở lại nhà thờ nữa!
Nhưng rồi một Chúa Nhật nọ, khi
đang ở New York, nhà tôi lại rủ tôi đi nhà
thờ. Nhà tôi thuyết phục tôi bằng cách nói
rằng, "Anh có thể không đồng ư với
nội dung bài thuyết giảng, nhưng thế nào cũng
phải cảm phục văn chương và tài hùng
biện của vị mục sư này!" Lúc đầu
tôi ngần ngừ nhưng cuối cùng tôi quyết định
đi. Đó là nhà thờ Hội Trưởng Lăo ở
đường Madison, và vị mục sư là Tiến Sĩ
David Read.
Văn chương của Tiến Sĩ Read
thật hay và cách ông tŕnh bày bài giảng thật khéo, nhưng
đó không phải là lư do chính khiến tôi thích bài
thuyết giảng hôm ấy. Sáng hôm đó ông nói về
sự sống vĩnh cửu và tôi chăm chú theo dơi
từng lời từng tiếng. Đối với tôi, thiên
đàng không có ǵ hấp dẫn nếu đó chỉ là nơi
mà ta sẽ sống đời đời để ca
tụng Chúa, là nơi mà mọi sự đều an lành,
không c̣n đói khát, than khóc, và cứ như thế
hết ngày này sang ngày khác. H́nh ảnh cổng thiên đàng
đầy ngọc quư đối với tôi chỉ là nơi
mà các ông chủ tiệm cầm đồ mơ ước
được đặt chân đến. Chỉ những
người chưa được đặt chân đến
Tiffany's (một tiệm bán nữ trang đắt tiền
ở New York) trên đời này th́ mới mơ ước
được vào một nơi sang trọng như thế
ở đời sau!
Trong bài giảng, vị mục sư hỏi,
"Sống đời đời nghĩa là ǵ?" Và ông
trả lời, "Sống đời đời không
phải chỉ có nghĩa là sống măi măi. Sống đời
đời là sống cao hơn đời sống thân xác:
ăn, ngủ, sinh sản; có ư nghĩa hơn đời
sống thế tục: đi làm, trả nợ, nuôi con
ăn học."
Vị mục sư nói tiếp, "Có
một sự sống cao quư hơn, trong đó con người
hướng đến những giá trị tâm linh,
đưa con người đến chỗ vị tha,
sẵn sàng hy sinh cho người khác. Cuộc sống cao quư
ấy liên quan đến những giá trị tâm linh, ư
thức về huyền nhiệm của những giá trị
đạo đức trong tâm hồn và thiên đàng
chỉ là một phần của đời sống ấy.
Đây là sự sống kéo dài măi măi và trên b́nh diện
đó, đời đời nghĩa là đời đời
thỏa măn!"
Tôi tiếp tục trở lại nhà thờ
đó mỗi tuần. Tôi trở lại để nghiên
cứu, để học những điều đẹp
đẽ và đơn thuần nhưng tuyệt vời cao
siêu trong lời dạy của Chúa Giê-xu. Cũng như
sứ đồ Phao-lô ngày xưa, những chiếc
vảy cá bắt đầu rớt ra khỏi mắt tôi.
Tôi khám phá nhiều điều mới
lạ trong Kinh Thánh như thể là tôi chưa được
đọc Kinh Thánh bao giờ. Tôi khám phá ra rằng,
từ xưa đến giờ chưa có ai dám nói
những lời như Chúa Giê-xu đă nói. Ngài nói Thượng
Đế tức là Đức Chúa Cha, là Đấng
biết rơ chính Ngài và ḥa làm một với Ngài trong t́nh
yêu và trong sự hiểu biết. Không một bậc
thầy nào ở đời này hiểu biết và có
mối quan hệ đặc biệt như thế đối
với Thượng Đế. Chính v́ sự hiểu
biết và mối quan hệ mật thiết đó mà Chúa
Giê-xu đă dám tuyên bố một cách mạnh mẽ
rằng: "Ai thấy ta là đă thấy Cha!"
Một điều khác cũng làm tôi
ngạc nhiên vô cùng, đó là Thượng Đế mà Chúa
Giê-xu mạc khải khác hẳn với Thượng Đế
trong ư niệm sai lầm của con người. Lời
cầu nguyện của Chúa Giê-xu trên cây thập tự
cho tôi thấy một t́nh yêu mới: "Lạy Cha, xin tha
cho họ v́ họ không biết ḿnh làm điều ǵ!"
Lời đó trong cả lịch sử loài người chưa
có ai dám nói, và nó đă bày tỏ Thượng Đế
là Đấng tha thứ, không phải trên lư thuyết, nhưng
tha thứ qua sự hy sinh cụ thể, rơ ràng của Chúa
Cứu Thế Giê-xu. Không một bậc thánh hiền nào có
thể tuyên bố một câu đầy ư nghĩa như câu:
"Nếu các ngươi làm việc này cho một người
hèn mọn nhất của anh em ta, là đă làm cho chính ḿnh
ta." Chữ "ta" trong câu này là h́nh ảnh của
Thượng Đế ngồi ghế chánh án trong phiên ṭa
chung thẩm, nhưng lại đặc biệt lưu tâm
đến những người nghèo đói, những góa
phụ đáng thương và những trẻ mồ côi tàn
tật. Tôi thầm nghĩ, Chúa Giê-xu nói câu này với tư
cách của một bậc Thầy, một người có
toàn quyền trên cơi sống và cơi chết. Bài học t́nh
yêu, nhân từ, thương xót đă được
cụ thể hóa trong chính cuộc đời của Ngài.
Cũng v́ thế bao nhiêu người đă đến
với Ngài, không chỉ v́ kính phục nhưng v́ muốn
tôn thờ Chúa. Cũng chính v́ thế mà ánh sáng làm cho Thánh
Phao-lô bị mù ḷa trên đường đến thành
Đa-mách đă tiếp tục soi đường dẫn
lối cho con người qua bao nhiêu thế kỷ.
Dĩ nhiên tôi biết rằng, khi nói Thượng
Đế là t́nh thương và t́nh thương đó
sẽ biến thế giới con người trở nên
tốt đẹp, th́ những người theo chủ nghĩa
duy vật ngày nay sẽ chế nhạo, v́ họ cho
rằng thế giới này chẳng qua chỉ là một
mớ những hạt nhân nguyên tử, chạy theo
những định luật vật lư mù quáng. Phúc Âm và t́nh
thương của Thượng Đế cũng bị
những người theo chủ nghĩa Mác-xít coi thường,
xen lẫn sợ hăi, v́ họ luôn chủ trương
hận thù và bạo động. Thật ra tôi nghĩ
rằng, không có một lư thuyết nào trên đời này,
kể cả thuyết nhân bản, có thể giúp con người
chừa bỏ được tính thù ghét, bạo động,
thủ đoạn và gian dối, ngoại trừ những
lời dạy mạnh mẽ của Chúa Giê-xu. Cũng v́
thế, nếu người Cộng Sản muốn tiến
đến chỗ thành lập một xă hội vật
chất vô thần, điều đầu tiên họ
phải làm là phải tiêu diệt cho được ḷng kính
sợ Thượng Đế nơi con người! Do
đó, Cơ-đốc nhân chân chính không thể là
một người Cộng Sản, và ngược lại,
một đảng viên Cộng Sản cũng không thể
nào là môn đồ của Chúa Giê-xu được. Cho nên,
tranh chấp giữa một xă hội vô thần với
một xă hội đặt Thượng Đế làm
chủ trong ḷng người, là điều chắc
chắn và dĩ nhiên.
Tôi không c̣n đặt câu hỏi: "Có tôn
giáo nào có thể làm thỏa măn tâm hồn con người
của thời đại tân tiến này không?" bởi
v́ tôi biết là có. Trở về với Thánh Kinh, tôi
thấy Thánh Kinh không chỉ là quyển sách ghi lại
những dữ kiện lịch sử, nhưng cũng ghi
lại sự mạc khải chính xác, qua Chúa Giê-xu; chính
sự mạc khải đó đă đem Thượng
Đế xuống ngang tầm mắt của tôi, để
tôi có thể biết Ngài. Tôi đi nhà thờ trở
lại, và sung sướng được ngồi ở hàng
ghế quen thuộc mỗi sáng Chúa Nhật. Tôi tin rằng
chúng ta đi nhà thờ không phải v́ chúng ta là người
có tội; cũng không phải v́ chúng ta là người
đạo đức mẫu mực. Chúng ta đi nhà
thờ v́ ư thức được gia sản thiêng liêng
của ḿnh, v́ nhận thức rơ giá trị cao quư của
con người; cũng như v́ biết rơ những
thất bại và tính tự cao tự măn cố hữu
của con người. Nếu không nhờ vào một
quyền lực mạnh mẽ từ bên ngoài, chúng ta có
thể ngă trở lại vào cái hố tự cao tự măn
ấy một cách dễ dàng.
Người nào muốn thấy được
vẻ đẹp tuyệt vời và muốn kinh nghiệm
được sức mạnh tinh thần trong lời
dạy của Chúa Giê-xu, người ấy phải
loại bỏ những sáo ngữ tôn giáo, là điều
thường làm cho lời dạy của Chúa bị lu
mờ. Chính Chúa Giê-xu đă đơn giản hóa và đă
cô đọng tất cả tinh hoa của Cơ-đốc
giáo trong hai điều luật: kính Chúa, yêu người.
Hai điều luật này đầy đủ hơn
tất cả những niềm tin khác và bao gồm đầy
đủ tất cả luật pháp và lời tiên tri,
tức là cả bộ Thánh Kinh. Cuộc đời của
Chúa Giê-xu và Phúc Âm của Ngài đă đem lại
thỏa măn cho tâm hồn tôi, sự thỏa măn ấy
cứ được tươi mới hơn mỗi ngày.
Cả thế giới này cũng sẽ không t́m được
sự thỏa măn hoàn toàn cho tâm hồn nếu thiếu Chúa
Giê-xu và Phúc Âm của Ngài.
Nh́n lại, tôi thấy suốt ba mươi
năm qua tôi sống trên đời nầy như một
trẻ mồ côi, nhưng bây giờ tôi không c̣n mồ côi
nữa! Tôi bị trôi giạt đă lâu, nhưng nay tôi
đă t́m được bến bờ. Buổi sáng Chúa
Nhật tôi trở lại nhà thờ, cũng là ngày tôi
trở về với mái nhà thân yêu.
LÂM NGỮ ĐƯỜNG
|