Trở lại trang chánh của Website Thiên Lư Bửu Ṭa
|
VĂN HỌC DÂN GIAN VIỆT NAM PHẢN ÁNH TÍN
NGƯỠNG TỔNG HỢP CỦA NGƯỜI VIỆT
[1] LÊ ANH DŨNG
Tam
giáo Việt Nam đă có một lịch sử lâu dài,
kể từ thế kỷ I, II trở đi, cho nên dễ
hiểu v́ sao Tam giáo đă có ảnh hưởng sâu
sắc không phải chỉ trong tầng lớp trí thức
giỏi chữ Hán mà c̣n gieo được tư tưởng
đạo đức trong quần chúng b́nh dân không
biết chữ Hán. Văn học dân gian (hay văn chương
truyền khẩu) qua các loại h́nh cổ tích, dân ca, ca
dao, tục ngữ... là những bằng chứng rơ ràng cho
thấy dấu ấn Tam giáo trong văn hóa đạo
đức của dân tộc Việt. Các vị tiên,
phật luôn luôn có mặt trong các câu chuyện cổ tích
khuyến thiện để giáo dục con người tu
nhân tích đức, làm lành lánh dữ. 1. DẤU ẤN
CỦA LĂO GIÁO Vũ
trụ luận Lăo Trang cho Đạo là nguyên lư tối sơ,
là tuyệt đối thể, và Đức là sự
thể hiện cái Đạo nơi con người.
Triết lư đó có thể hơi quá trừu tượng
đối với cách suy nghĩ của quần chúng b́nh dân.
Tuy nhiên, không biết từ bao giờ, hai chữ đạo
đức đă là dụng ngữ quen thuộc trong
lời ăn tiếng nói hằng ngày của mọi người.
Theo đó, đạo hiểu giản dị là lẽ
phải trong cách sống giữa người với người.
Thế nên, người Việt bảo nhau hăy biết
ăn ở cho phải đạo, rồi từ đó mà có
đạo làm người, đạo vợ chồng,
đạo thầy tṛ, đạo làm con… Đạo
làm con chớ hững hờ, Phải đem hiếu kính
mà thờ mẹ cha. Biết
đạo đối với người Việt là
biết cư xử đúng đắn trong mọi quan
hệ giữa bản thân với gia đ́nh, thân tộc, xóm
giềng, xă hội, đất nước. Một chàng
trai quê chân lấm tay bùn khi kén bạn đời cũng
biết trân trọng giá trị của người
biết đạo, nên đă tỏ lời: Hột
thủy tinh, Đây nh́n sáng rỡ. Để dành từ
thuở, Làm nhẫn đeo tay. Dầu ai năn nỉ
hỏi nài, Đợi người
biết đạo, của này sẽ trao. Những
kẻ sống trái lẽ phải có thể bị mắng
là vô đạo, thất đức. Ngược lại,
người tốt, biết đạo th́ được
khen là ăn ở có đức. Chữ đức
c̣n là tiếng xưng hô cao quư nhất những cho
những vị, những đấng mà nhân dân sùng kính, như:
Đức Chí tôn, Đức Mẹ, Đức Chúa, Đức
thánh Trần, Đức Bồ tát… Đức
trở nên giá trị tinh thần có huyền lực siêu
nhiên để nâng đỡ cuộc sống con người.
Gia đ́nh biết đạo không cho rằng của
cải thế gian là tài sản bền vững truyền
lại cho cháu con; ngược lại, chỉ có đức
tuy vô h́nh (v́ là âm đức), nhưng mới thực
đáng dành cho mai hậu. Thế nên: Cây
xanh th́ lá cũng xanh, Cha mẹ hiền lành
để đức cho con. Người
trồng cây hạnh người chơi, Ta trồng cây đức
để đời mai sau. Khi
ví đức với cây xanh, lá xanh, rơ ràng người
Việt coi đức là một thực hữu, nghĩa là
một cái ǵ cụ thể, có thể nuôi lớn, chăm
bón cho xum xuê, để cho đức sẽ nảy nở,
đơm hoa kết quả. Nhờ thế, đức ngày
một dày, và lâu bền măi măi. Hiểu và thực hành
chữ đức một cách linh hoạt, tài t́nh như
thế chính là nét độc đáo nổi bật của
dân tộc Việt Nam. 2. DẤU ẤN
CỦA NHO GIÁO Về
phần đạo Nho, các phạm trù đạo đức
như tam cương (quân
thần, phụ tử, phu thê) và ngũ
thường (nhân, nghĩa,
lễ, trí, tín) cũng được Việt hoá, trở
thành lời ca tiếng hát mộc mạc giữa chốn hương
đồng cỏ nội: Anh
làm trai học đạo thánh hiền, Năm hằng chẳng
trễ, ba giềng chớ sai. Làm trai giữ trọn
ba giềng, Thảo cha, ngay chúa,
vợ hiền chớ vong. Ngũ
luân (quân
thần, phụ tử, phu thê, huynh đệ, bằng
hữu) và ngũ thường cũng
được gọi cho gọn là luân
thường, hay luân thường
đạo lư. Trong các mối quan hệ ấy, đạo
làm con đối với cha mẹ là lấy chữ hiếu
làm đầu, c̣n phận làm em đối với anh
chị hay phận kẻ nhỏ đối với các
bậc vai vế lớn phải lấy chữ đễ.
Hiếu đễ được
giải thích như sau: Thờ
cha mẹ ở hết ḷng, Ấy là chữ
hiếu ở trong luân thường. Chữ đễ có nghĩa
là nhường, Nhường anh, nhường
chị, lại nhường người trên. Ghi ḷng, tạc dạ
chớ quên, Con em phải giữ
lấy nền con em. Câu
chữ Hán của Thầy Tăng tử “Hiếu
giả bách hạnh chi tiên” (Hiếu đứng đầu
trong trăm hạnh tốt) khi thoát ra khỏi trang sách Nho sĩ
đă được ca dao diễn đạt tài t́nh: Làm
con nết đủ trăm đường, Trước tiên điều
hiếu đạo thường xưa nay. Nhân
sinh bách hạnh hiếu vi tiên, Chữ rằng mộc
bổn thủy nguyên, Làm người phải
biết tổ tiên ông bà. Câu
chữ Hán “Thần tỉnh
mộ khang” (Sớm thăm tối viếng) từ trong
trang sách nhà Nho cũng được chuyển qua ca dao và
gắn liền với đạo hiếu của con với
mẹ: Mẹ
già ở túp lều tranh, Sớm thăm tối
viếng mới đành dạ con. Nếu
nói nhờ có đạo Nho mà người Việt mới
biết nêu cao đạo hiếu th́ rất sai lầm. Là
một dân tộc có truyền thống đạo đức
tốt đẹp, người Việt tự nhiên cũng
biết tôn thờ chữ hiếu, tuy nhiên, với sự
du nhập của đạo Nho, những giáo lư tốt
đẹp của Nho giáo phù hợp với t́nh cảm
trong sáng của dân Việt đă có môi trường
thuận lợi để phát triển, nảy nở, và
người Việt bằng ca dao đă dành một nội
dung phong phú để nhấn mạnh đến t́nh
cảm thiêng liêng này: Công
cha như núi Thái sơn, Nghĩa mẹ như nước
trong nguồn chảy ra. Một ḷng thờ
mẹ kính cha, Cho tṛn chữ hiếu
mới là đạo con. Công
cha như núi ngất trời, Nghĩa
mẹ như nước ở ngoài biển Đông. Núi
cao biển rộng mênh mông, Cù
lao chín chữ ghi ḷng con ơi. Tu
đâu cho bằng tu nhà, Thờ cha kính mẹ
mới là chân tu. Như
vậy, hiếu cũng là phép tu thân. Mệnh đề tu
thân tề gia được nói tới ở đầu
sách Đại học: “Thân
tu nhi hậu gia tề.” Người Việt chuyển hóa
ư đó thành ca dao như sau: Tu
thân rồi mới tề gia, Ḷng ngay nói vạy, gian
tà mặc ai. 3. DẤU ẤN
CỦA PHẬT GIÁO Ảnh
hưởng Phật giáo trong đời sống nhân dân
rất sâu đậm, nhất là đức tin về
nghiệp báo, luân hồi nhân quả. Triết lư về
nghiệp (karma) được
diễn tả: Lênh
đênh qua cửa Thần Phù, Khéo tu th́ nổi,
vụng tu th́ ch́m. Cửa
sông Thần Phù là chỗ sông Chính Đại đổ ra
vịnh Bắc Bộ, thuộc huyện Yên Mô, tỉnh Ninh
B́nh. Cuối đời Lê cửa sông bị cát bồi
lấp mất và trở thành đất liền. Một
địa danh không c̣n, nhưng câu ca dao c̣n măi. Tư
tưởng nhân bản của đạo Phật cũng
thấm nhuần t́nh cảm, đạo đức người
Việt. kinh Lăng nghiêm
có câu: “Tương thử tâm
thân phụng trần sát, thị tắc danh vi báo Phật
ân.” Ngụ ư nói rằng: Ai dốc ḷng phụng
sự cơi thế gian (trần sát), tức là đă đền
đáp, báo ân Phật. Ca
dao Việt có câu tương tự: xây bảo tháp (phù
đồ) thờ Phật, cũng chưa bằng cứu giúp
cho con người thế gian trước đă. Dù
xây chín bậc phù đồ, Không bằng làm phúc
cứu cho một người. Dấu
ấn của Tam giáo c̣n nhiều. Những dẫn chứng
nêu trên chỉ mới tạm coi là một vài điển
h́nh, tiêu biểu, có tính cách minh họa. Điều
cần lưu ư, đó là bên cạnh ảnh hưởng
của Tam giáo, c̣n có bản sắc tín ngưỡng riêng
của người Việt. 4. TAM GIÁO VÀ TÍN
NGƯỠNG THỜ TRỜI Ngoài
Tam giáo lại c̣n có đức tin ở Trời và tín ngưỡng
thờ Trời của người Việt. Một cô gái
quê cắc cớ hỏi bí người bạn trai: Thấy
anh hay chữ, Em hỏi thử đôi
lời. Thuở tạo thiên
lập địa, Ông Trời tṛn ai xây? Dĩ
nhiên hỏi lắt léo như vậy ai mà trả lời
được! Tuy không biết Trời có từ bao
giờ, Trời từ đâu sinh ra, nhưng ai cũng kính
Trời v́ hiểu rằng có ta đây v́ có Trời. Người
Việt nói: Trời cho ai
nấy hưởng. Trời kêu ai nấy dạ. Trong
bối cảnh xă hội nông nghiệp, ḷng tin Trời
gắn liền với sinh hoạt của con người: Nhờ
Trời mưa thuận gió ḥa, Nào cày nào cấy
trẻ già đua nhau. Nhờ
Trời hạ kế sang đông, Làm nghề cày cấy
vun trồng tốt tươi. Lạy
Trời mưa thuận gió đều, Cho đồng lúa
tốt cho ch́u ḷng em. Người
Việt tin Trời là đấng cầm cân nảy mực
công bằng, nên bảo nhau: Ở
hiền th́ gặp lành, Những người nhân
đức Trời dành phúc cho. Tin
Trời, tin vào vận mệnh trường cửu của
đất nước non sông, cho nên dù gặp
lúc chiến tranh phân cắt, người
Việt vẫn vững ḷng chặt dạ một đức
tin mănh liệt rằng: Nước
non là nước non Trời, Ai chia được nước,
ai dời được non. Đạo
làm con cũng lồng vào đức tin kính Trời qua cái
bàn Thiên ngoài sân, người con hiếu thảo từng
đêm đến đó khấn nguyện: Mỗi
đêm mỗi thắp đèn Trời, Cầu cho cha mẹ
sống đời với con. Tín
ngưỡng thờ Trời không có một cách bức nào
đối với tín ngưỡng Tam giáo. Cho nên nếu có
bước vô chùa mà ḷng tưởng Phật lẫn
Trời cũng không có ǵ lạ: Vô
chùa thắp một nén nhang, Miệng nam mô A-di-đà
phật, Nguyện cùng Trời chùa
chật cũng tu. Trời
và Phật trong quan niệm người Việt không có ranh
giới phân biệt. Khi hoạn nạn, Phật và Trời
đều là nơi con người hướng vọng
cầu xin sự tế độ từ bi: Nghiêng
vai ngửa vái Phật Trời, Đang cơn hoạn
nạn độ người trầm luân. Nói
về biểu hiện của tinh thần bao dung tôn giáo (religious tolerance) của người b́nh dân
Việt Nam th́ không những chỉ t́m thấy ở ca dao
hay tục ngữ, mà c̣n t́m thấy cả trong cách thờ
phượng. Chùa ở Việt Nam không hẳn chỉ là nơi
thờ Phật. Có chùa thờ cả Quan thánh Đế quân.
Ngoài Bắc, ở làng Kim Bảng (Vụ Bản, Nam Định)
có chùa Tam giáo, tức là thờ cả Tam giáo Tổ sư
(Thích-ca, Khổng tử, Lăo tử). Trong Nam, đường
Cao Thắng, quận 3, Sài G̣n, có chùa Tam tông miếu (Minh Lư
Thánh hội). Trong quyển Tam
giáo kinh lưu hành ở Việt Nam một nghệ nhân
nào đó đă khắc gỗ thành một bức tranh tài
t́nh minh họa một ṭa sen lớn, cùng ngồi chung trên
đó là Đức Phật Thích-ca (ở giữa), Đức
Lăo tử (bên trái), Đức Khổng tử (bên
phải). Ba vị bằng nhau, ba vầng hào quang như
nhau. Bên dưới là một b́nh hương nghi ngút.
Khổng, Lăo mà ngồi ṭa sen, người Việt Nam nghĩ
ra được h́nh tượng ấy mới là độc
đáo. Tam giáo Tổ sư,
Tam giáo kinh (bản khắc
của Việt Nam) 5. TAM GIÁO TRONG
TRUYỆN PHẬT BÀ CHÙA HƯƠNG Trong
kho tàng văn chương b́nh dân Việt Nam có một
truyện thơ thường được gọi là: Phật
Bà Quan Âm diễn ca, Nam Hải Quan Thế Âm sự tích
diễn ca, hay là Truyện
Phật Bà chùa Hương… Theo bản in của nhà in
Phúc Chi (Hà Nội, 1950), truyện dài 1.424 câu lục bát. Truyện
này thể hiện một tín ngưỡng tổng hợp
của người Việt, ở đây đức tin
Trời, đạo Phật, Nho, Lăo không hề phân chia ranh
giới, mà ḥa điệu với tín ngưỡng của
giới b́nh dân. Cho nên các h́nh ảnh, các nhân vật
của Tam giáo đều đầy đủ. Nào là
triều đ́nh, thủy phủ, Thiên cung, Phong đô địa
ngục, có cả cung Diêu Tŕ với Hội yến Bàn
đào. Nào là Ngọc Hoàng Thượng đế,
Phật tổ Như lai, Quan Âm, Văn Thù, Phổ Hiền,
Thiện Tài Đồng tử, Long nữ, Thái Bạch Kim
tinh, Long vương, Diêm vương, Thiên tướng,
Thổ địa, Sơn thần, Công đồng Tam
phủ, Nam tào, thần Ngũ lôi, thần Du địch,
thần Ôn hoàng, thần Lục đinh… Về
mặt tư tưởng, truyện đă giải quyết
mối quan hệ giữa cá nhân và xă hội, bao gồm
việc tự độ là
giải thoát thành Phật (tức phần cá nhân), và
việc độ tha (khía
cạnh xă hội) là chữ hiếu
với gia đ́nh, chữ trung
với nước và chữ nhân
với chúng sanh. Ngay từ khi vào truyện tác giả
khuyết danh đă nhấn mạnh: Chân
như đạo Phật rất mâu, Tâm trung chữ hiếu,
niệm đầu chữ nhân. (câu
1-2) Tác
giả định nghĩa: Hiếu
là độ được đấng thân, Nhân là độ
được trầm luân mọi loài. (câu
3-4) Trên
th́ hiếu báo sinh thành, Dưới th́ nhân
cứu chúng sanh ta bà. (câu
1397-1398) Tác
giả đă gắn liền Đạo pháp với dân
tộc: Thân
này thành Phật may ra, Hộ nước
hộ nhà th́ mới có phương. (câu
315-316) Tư
tưởng tích cực đó rất gần gũi với
dân tộc Việt Nam, và đă có những tấm gương
sáng trong lịch sử, trải qua các đời Đinh, Lê,
Lư, Trần… Ḷng
tin Trời và luật nhân quả báo ứng được
thể hiện qua lời Hoàng hậu tâu cùng Vua: “Trong
cơ báo ứng đạo Trời ở trong”. (câu
24). Tin Phật mà cũng kính Trời, thế nên nhà vua
đă thốt: “Trẫm nay
ơn Bụt (Phật), ơn
Trời…” (câu 1335). Và cũng với đức tin vô
phân biệt ấy cho nên lúc công chúa phát đại
nguyện xuất gia tu Phật th́ lại khấn Trời: Nói
thôi ngửa mặt khấn Trời, Chứng minh xin chớ
để sai ḷng này. (câu
345-346) Nhân
vật chính trong truyện là Chúa Ba, tu Phật, đắc
quả, được gọi là Bồ
tát, là Phật Bà, mà cũng rất nhiều lần
được gọi là Tiên nga (các câu 937, 946, 949, 1049, 1054…) Điều này
không nên đánh giá cạn cợt là tác giả thiếu
nhất trí. Trái lại, cần thấy sự kiện
đó phản ảnh tâm lư b́nh đẳng tín ngưỡng
có từ lâu đời, và đă ăn sâu vào tiềm
thức của người Việt. [2] 6. TAM GIÁO TRONG
TRUYỆN LÂM TUYỀN KỲ
NGỘ (BẠCH VIÊN TÔN CÁC) Một
tác phẩm khuyết danh tác giả nữa là Lâm
tuyền kỳ ngộ (sự gặp gỡ lạ lùng
giữa chốn suối rừng) với hai nhân vật chánh
là Bạch viên (con vượn cái lông trắng) và chàng Nho
sĩ Tôn Các. Bạch
viên tiền kiếp là tiên nga, bị đày xuống
trần gian làm thân vượn cái lông trắng. Bạch viên
tự thuật: Tiện
thiếp từ tu ở cơi tiên, Chưa hề bén
lụy cơi trần duyên. (Viên
thị tự tâm sự) Vốn
thiếp xưa thân cửa Đế Thiên, V́ duyên cho phải
lụy trần duyên. (Viên
thị biệt Tôn sinh) Tiện
thiếp thân xưa khách Quảng Hàn, Thác sinh đày xuống
cơi trần gian. (Viên
thị kiến Huyền Trang) Do
căn tiên nên Bạch viên biết giác ngộ tu hành, t́m
đến chùa Phi Lai học đạo Phật với
Thiền sư Huyền Trang. Đêm
thanh náu gót ngoài tăng viện, Ngày vắng dâng hương
trước Phật đài. (Bạch
viên nhập tự thính kinh) Theo
đường Phật giáo mong cầu phúc, Đội đức
Thiền sư cứu khỏi nàn. (Viên
thị kiến Huyền Trang) Do
phép lực của Phật, Bạch viên lại cởi
bỏ lốt vượn, hóa thành thiếu nữ xinh đẹp.
Thế rồi Bạch viên kết duyên cùng chàng Nho sinh Tôn
Các, sinh được hai con trai. Nhưng Bạch viên
phải tuân lệnh Thiên đ́nh, măn số ở trần
gian, từ giă chồng con về cơi tiên. Trăm
lạy giă chàng c̣n ở thế, Năm mây xin thiếp
lại lên tiên. (Viên
thị biệt Tôn sinh) Tôn
Các ở lại trần gian, đi thi được
chấm đậu, vua ban áo măo vinh quy. Tôn Các vốn cũng
là tiên thượng giới, nguyên là sao Tử Vi. Tôn
Các nay tuy người hạ giới, Tử Vi xưa cũng
khách Thiên tào. (Thượng
đế chiếu hứa Bạch viên tái hợp) Ngọc
Hoàng Thượng đế thương t́nh hai người
ly biệt nên lại theo lời xin của Bạch viên cho
phép Bạch viên xuống trần lần nữa tái hợp
cùng Tôn Các để trọn đạo phu thê. Lại
ban sum họp duyên hương lửa, Cho đấng anh Nho sánh
má đào. (Thượng
đế chiếu hứa Bạch viên tái hợp) Và
sau rốt Bạch viên, Tôn Các khi số trần đă măn,
lại cùng nhau trở về Thượng giới. Duyên
nợ oan t́nh đền kiếp trước, Về sau hương
lửa rạng rừng thiền. Cũng
giống như truyện Phật
Bà chùa Hương, truyện Lâm
tuyền kỳ ngộ mang đầy đủ dấu
ấn của Nho, Thích, Lăo. Với Nho, đó là đạo
phu thê, đạo cha con, đạo quân thần, phải
nhập thế giúp đời. Với Thích, là giáo lư
giải thoát khỏi nghiệp chướng thế gian
(Bạch viên cởi lốt). Với Lăo là vai tṛ cầm
luật Thiên tào của Thượng đế, là kiếp
trích tiên ở chốn thế gian của Bạch viên, Tôn
Các… [3] Tóm
lại, kho tàng văn học dân gian Việt Nam, từ ca
dao, tục ngữ, đến truyện thơ, đă có
những bằng chứng cho thấy nét văn hóa đạo
đức truyền thống của người Việt,
đó là ḷng b́nh đẳng trước mọi tôn giáo,
và khả năng tiếp thu, chuyển hóa Tam giáo cho ḥa
hợp với văn hóa bản địa, tạo thành
một tín ngưỡng tổng hợp trên đất nước
Việt Nam. Tín ngưỡng tổng hợp đó gồm
Nho, Thích, Lăo, và tín ngưỡng thờ Trời vậy. LÊ
ANH DŨNG CHÚ
THÍCH [1]
Đă in trong Văn hóa &
đời sống, chủ đề Cái
thiện cái ác, nxb Tp.HCM, tháng 9-1992. [2]
Về truyện Phật Bà chùa
Hương, ngoài bản in Phúc Chi (Hà Nội, 1950), c̣n có
thể xem Truyện Bà chúa Ba (Nam Hải Quan Thế Âm), Nxb
Khoa học Xă hội (Hà Nội, 1991). [3]
Về truyện Lâm tuyền
kỳ ngộ có thể t́m bản rô-nê-ô năm 1960
của Pḥng Nghiên cứu Văn học sử và Văn chương
Việt Nam thuộc Đại học Sư phạm
Huế. Hoặc đọc trong Lịch
sử tư tưởng Việt Nam, Tập 6, của
Nguyễn Đăng Thục, Nxb Tp.HCM, 1992, tr. 257-272. HẾT CHƯƠNG
V Đôi ḍng sơ lược về tác giả Lê Anh Dũng |
Thiên-Lư Bửu-Ṭa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674 Website: www.thienlybuutoa.org Email Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT
|