T̀M HIỂU
THIỀN TÔNG
(Trích: "Sáu
cửa vào động Thiếu Thất")
Thiền tông, có thể nói là vĩ đại
và đáng kính phục.
Đường
lối tu hành
Ư chỉ của
Tổ về pháp tu của Thiền tông được thâu
gọn trong bốn câu kệ :
"Bất
lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền,
Trực chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành Phật."
(Chẳng lập văn tự, Truyền ngoài giáo lư,
Chỉ thẳng tâm người, Thấy tánh thành
Phật). Bốn câu đó tŕnh bầy đường
lối tu hành của Thiền tông khác hẳn với các pháp
tu khác trong đạo Phật.
Hai câu đầu:
"Bất lập văn tự, Giáo ngoại biệt
truyền" là hai câu mà đức Phật truyền
cho tổ Ca Diếp trong hội Linh Sơn. Mới đọc
qua hai câu đó chúng ta có cảm tưởng như đức
Phật mật truyền cho tổ Ca Diếp một pháp nào
mà không dùng tới văn tự và ở ngoài các kinh điển.
Nếu đọc bài kệ của đức Phật khi
truyền pháp cho tổ Ca Diếp th́ chúng ta hiểu rơ hơn,
hai câu đầu bài kệ là: "Pháp bổn pháp vô pháp,
Vô pháp pháp diệc pháp." Câu khó hiểu đó
được John Blofeld lược dịch trong cuốn
"Hoàng Bá ngữ lục" là: "Giáo lư căn
bản của Phật pháp là không có pháp nào hết, nên cái
pháp 'không có pháp nào hết' chính là Phật pháp". (tr.
64) Như vậy tới chỗ cứu cánh là chỉ có pháp
"không có pháp nào hết", vậy th́ văn tự nào
có thể diễn tả được pháp đó, như
vậy pháp đó cũng phải nằm ngoài giáo lư v́ giáo
lư cũng là văn tự.
Hai
câu "Bất lập văn tự, Giáo ngoại
biệt truyền" đă chỉ tới chỗ
cứu cánh của đạo Phật. Như trong kinh Duy Ma
Cật, khi Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi ông Duy
Ma Cật thế nào là Bồ tát vào pháp môn Không hai
(Bất Nhị). "Ông Duy Ma Cật im lặng không nói.
Ngài Văn Thù Sư Lợi khen rằng: Hay thay! Hay thay! Cho
đến không có văn tự, ngữ ngôn đó mới
thật là vào pháp môn không hai." Tổ cũng đă
nhận ra là tới chỗ cứu cánh th́ không c̣n văn
tự, ngôn ngữ nào, tức là kể cả kinh điển,
có thể dùng để tỏ bầy được.
C̣n hai câu "Trực
chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành Phật" nói lên
đường lối tu độc đáo của
Thiền tông. Thiền tông "chỉ thẳng",
tức là chỉ ngay cái ở trước mắt người
tu, và ngay hiện tại, chứ không dùng những lời
giảng, phương tiện huyền bí, tượng trưng,
bóng bẩy, xa vời. Chỉ thẳng cái ǵ? đó là
chỉ thẳng ngay cái tâm của người tu hành.
Hiểu được cái tâm đó cũng là hiểu
được bản tánh của tâm ḿnh cùng vạn
vật. Người nào "thấy tánh" th́ sẽ thành
Phật, tức người giác ngộ. Tổ nói rất
giản dị :"Nếu thấy tánh tức là
Phật, không thấy tánh tức là chúng sanh". (tr.
90). Giữa Phật và chúng sinh, hoặc nói rơ hơn là
giữa người giác ngộ và người si mê,
chỉ khác nhau có điểm căn bản đó thôi.
Mục đích
tu hành của Thiền tông thật là giản dị, nhưng
không dễ dàng. Nhiều người nghe như vậy
liền vội vă giở kinh, luận, ngữ lục, sách
vở ra t́m kiếm định nghĩa thế nào là
"tánh" để thao thao giảng nghĩa. Công
việc đó sẽ chẳng mang lại kết quả ǵ,
v́ c̣n trụ, chấp vào văn tự, lời nói, lư
luận mà hy vọng t́m thấy "tánh" th́ chẳng
bao giờ được. Vậy muốn tu theo Thiền tông
th́ phương pháp tu như thế nào. Tập "Sáu
cửa vào động Thiếu Thất" (Thiếu
Thất Lục Môn) của Tổ để lại đă
chỉ ra pháp tu hành của Thiền tông.
Sáu cửa vào
động Thiếu Thất
Sáu cửa vào
động, tức là sáu pháp môn tu hành để đạt
được đạo quả. Sáu pháp môn đó là: (1)
Tâm kinh tụng, (2) Phá tướng luận, (3) Nhị
chủng nhập, (4) An tâm pháp, (5) Ngộ tánh luận và
(6) Huyết mạch luận. Muốn vào được
động Thiếu Thất th́ có thể vào bằng
cửa nào cũng được, không nhất thiết
phải qua cả sáu cửa. Tu theo bất cứ một pháp
môn nào cũng đạt Đạo, không nhất thiết
phải tu cả sáu pháp môn.
(1)
Tâm kinh
tụng.
Tổ nhắc lại từng câu trong Bát Nhă Tâm
Kinh, sau mỗi câu đều có những câu giảng. Đại
ư cũng là phát triển về tâm của tông Bát Nhă.
Tổ chỉ rơ tướng "không" của muôn pháp
để chúng ta hiểu được cái thể "Như
lai không tướng", vốn thanh tịnh, chẳng
phải có/không, chẳng sạch/nhơ, chẳng tăng/giảm,
một khi giác được điều đó th́ "chợt
rơ bỏ ư tu, thênh thang vượt pháp giới, tự
tại hết lo âu". Tổ c̣n căn dặn "chấp
có đâu thực có, theo không lại lạc không",
v́ Tổ biết rơ chúng ta thường chấp chặt vào
hoặc "có" hoặc "không".
(2) Phá tướng
luận. Phần này gồm những câu hỏi và đáp.
"Hỏi:
Nếu có người chí cầu Phật đạo th́
phải tu pháp ǵ thật là tỉnh yếu (đơn
giản và thiết yếu).
Đáp: Chỉ 'quán
tâm'. Đó là một pháp tổng nhiếp hết các pháp
cho nên rất là tỉnh yếu.
Hỏi: Sao nói
một pháp hay nhiếp tất cả các pháp ?
Đáp: Tâm là
cội nguồn của muôn pháp. Tất cả các pháp
chỉ do tâm mà sinh ra."
Người
hỏi vẫn thắc mắc là tại sao chỉ 'quán tâm'
là đủ, nên sau đó nêu ra những câu hỏi như:
"Sáu đường, ba cơi rộng lớn bao la,
nếu chỉ quán tâm th́ sao thoát được những
khổ đau không cùng tận?" - "Như lời
Phật dạy: 'Ta đă trải qua ba đại a tăng
kỳ kiếp, chịu vô số khổ nhọc mới thành
được Phật đạo', sao nay nói chỉ quán tâm
th́ chế được ba độc là giải thoát?"
- "Các đại Bồ tát nhờ giữ ba giới tu
tịnh, thực hành lục độ, mới thành
Phật đạo. Sao nay nói người học chỉ
cần quán tâm, chẳng tu giới hạnh th́ thành
Phật thế nào được? " - "Như
lời kinh nói, 'dốc ḷng niệm Phật chắc
được văng sanh qua cơi Tịnh độ Phương
tây, chỉ cần theo một cửa ấy tức
được thành Phật', sao c̣n nói quán tâm để
cầu giải thoát là ǵ? ". Đó cũng là những
thắc mắc mà những người không hiểu
Thiền tông thường đặt ra v́ thấy pháp tu này
khác với những pháp tu của các tông khác trong đạo
Phật.
Mỗi câu
hỏi đều được Tổ giải đáp rơ
ràng nên cũng giúp cho những người tu Thiền
hiểu hơn. Tổ nói rơ , nếu muốn đạt
tới cứu cánh th́ phải thấy được tâm là
Phật, và muốn thấy được tâm th́ cần
phải bỏ những chấp về tướng. Tất
cả những câu hỏi trên cho thấy đều v́
chấp tướng, hướng ngoại, quên tâm nên không
thể thấy được tâm. Tổ không nói những
pháp tu theo chấp tướng là sai, nhưng Tổ
thấy rơ những pháp tu đó chỉ là phương
tiện thôi.
(3) Nhị
chủng nhập. Phần này chỉ pháp tu hành một cách
cụ thể:
"Phàm vào
đạo có nhiều đường, nhưng nói cho cùng
th́ không ngoài hai đường là: lư nhập hay hạnh
nhập."
"Lư nhập là
mượn 'giáo' để ngộ 'tông', tin sâu rằng
tất cả sinh linh đều chung đồng một chân
tánh, chỉ v́ khách trần bên ngoài và vọng tưởng
bên trong che lấp nên chân tánh không hiển lộ
được."
"Hạnh
nhập là nói về bốn hạnh, ngoài ra các hạnh khác
đều bao gồm trong ấy.
Bốn hạnh là:
(a) báo oán hạnh, (b) tùy duyên hạnh, (c) vô sở cầu
hạnh và (d) xứng pháp hạnh". Báo oán
hạnh là khi gặp cảnh khổ th́ hiểu là v́ trước
có gây ra nghiệp dữ nên nay nhẫn nhục chịu. Tùy
duyên hạnh là hiểu nay được quả báo
tốt cũng là do nhân lành thủa trước, mọi
khổ vui đều do nhân duyên sanh, nhưng tâm người
không v́ vậy mà được thêm hoặc bớt
mất ǵ. Vô sở cầu hạnh là hiểu muôn
vật đều là không, nên không cầu mong ǵ mới
thực là đạo hạnh. Xứng pháp hạnh là
bậc trí tin hiểu "pháp" chính là cái lư thanh
tịnh của tự tánh, tức cái thể tánh thanh
tịnh của ḿnh, nên vẫn tùy xứng theo pháp mà hành
nhưng không có chấp.
(4) An tâm
pháp.
Sau đây là vài đoạn trích:
"Khi mê, người
đuổi theo pháp. Lúc tỉnh, pháp đuổi theo người."
"Tự trên
'sự' vươn lên mà tỏ suốt, đó là hàng khí
lực mạnh. Theo chữ nghĩa mà thông rơ , đó là người
khí lực kém."
"Hỏi: Các
pháp đă là không th́ dựa vào ǵ mà tu đạo? - Đáp:
Nếu có dựa vào ǵ th́ cần tu đạo. Nếu không
có ǵ để dựa, tức chẳng cần tu đạo."
"Chẳng
thấy ǵ hết, gọi là thấy đạo. Chẳng làm
ǵ hết, gọi là hành đạo."
(5) Ngộ tánh
luận.
Phần này chỉ
về điểm quan trọng trong khi tu hành là phân
biệt được giữa mê và ngộ, và tu hành sao
để ngộ. Cũng nên lưu ư là có ư kiến cho
rằng phần này nói về làm sao ngộ được
bản tánh của chính ḿnh.
"Phàm đem tâm
cầu pháp, ấy là mê. Chẳng đem tâm cầu pháp,
ấy là ngộ."
"Khi mê th́ có
bờ bên này, khi ngộ th́ không bờ bên này.
Tại sao
vậy? V́ kẻ phàm phu mỗi mỗi đều có xu hướng
trụ ở bên này. V́ giác được phép tối thượng
thừa th́ tâm chẳng trụ bên này cũng chẳng
trụ bên kia, nên ĺa được cả hai bờ bên này
và bên kia vậy."
"Phàm mê là mê
ở ngộ. C̣n ngộ là ngộ nơi mê. Không có mê
ngộ mới gọi là chánh giác, chánh kiến."
"Khi mê th́ sáu
thức, năm ấm đều là pháp phiền năo, sanh
tử. Khi ngộ th́ sáu thức, năm ấm đều là
pháp niết bàn, không sanh tử."
"Khi mê th́ có
Phật, có pháp. Khi ngộ rồi th́ không Phật, không pháp.
Tại sao vậy? V́ ngộ tức là Phật pháp."
(6) Huyết
mạch luận.
Phần này chỉ
rơ nếu không thấy tánh th́ việc tu hành sẽ không
thể đưa đến chỗ đạt đạo
được.
"Nếu
muốn t́m Phật hăy cần thấy tánh. Tánh tức là
Phật. Nếu chẳng thấy tánh th́ chay lạt,
giữ giới đều vô ích cả."
" Nếu không
thấy tánh th́ dầu giỏi nói mười hai bộ
kinh, vẫn là ma nói."
"Chúng sanh
điên đảo không biết tự tâm là Phật,
cứ hướng ngoài mà ǵn giữ, cầu cạnh,
suốt ngày lăng xăng niệm Phật, lạy
Phật."
(Trích: "Sáu
cửa vào động Thiếu Thất")
|