Bước
đầu thử nhận xét
Mấy
nét tâm lư của người tín đồ Cao Đài
LÊ
ANH DŨNG
Chính
thức ra đời từ tháng 11-1926 với một
lễ rất long trọng (gọi là Khai minh Đại
đạo) tại chùa G̣ Kén, làng Long Thành,
đạo Cao Đài dần dần h́nh thành
những cộng đồng Cao Đài khác nhau trong
lịch sử phát triển của nền tôn giáo
bản địa mới mẻ. Mỗi cộng đồng
bao gồm nhiều tín đồ với những sinh
hoạt tu hành lâu đời kết tập. Sự
thấm nhuần giáo lư và hàm dưỡng trong
việc thực hành pháp môn trải qua thời gian
mấy mươi năm đă h́nh thành những
sắc thái riêng trong nếp nghĩ, trong hành vi, trong
t́nh cảm của các tín đồ Cao Đài. Như
vậy là có tâm lư của người tín đồ
Cao Đài, nếu hiểu thật đơn
giản rằng: Tâm lư là những đặc điểm
về t́nh cảm và hành vi của một cá nhân,
một nhóm người, hay một hoạt động.
Khi
nghiên cứu tâm lư của người tín đồ
Cao Đài, cũng cần lưu ư rằng:
1.
Nghiên cứu tâm lư của người tín đồ
Cao Đài khác với nghiên cứu những đặc
điểm tâm lư của cộng đồng dân cư
Nam Kỳ vào đầu thế kỷ 20 đă
khiến cho dân Nam Kỳ mau lẹ và đông đảo
đi theo đạo Cao Đài.
2.
Qua nghiên cứu tâm lư của người tín đồ
Cao Đài cũng có thể nhận diện được
một số đặc điểm tâm lư dân
tộc của người Việt, bởi lẽ
đông đảo tín đồ Cao Đài qua gần
tám thập niên đă có mặt khắp đất nước,
từ hầu hết các tỉnh trong Nam ra miền
Trung, rồi Hà Nội và một số tỉnh, thành
miền Bắc, nghĩa là đă trở thành một
phần của cộng đồng cư dân Việt
Nam.
°
Phần
đông người tín đồ Cao Đài rất dễ
mủi ḷng. Những khi đọc thánh giáo hay
nhắc lại thánh ngôn, họ rất dễ xúc
động một cách chân thành, có thể ứa nước
mắt một cách tự nhiên. Có dịp dự các
buổi thuyết minh giáo lư ở các thánh thất,
thánh tịnh, v.v... thính giả sẽ có dịp
chứng kiến những giọt lệ, hoặc trên
mặt thuyết tŕnh viên đang đứng ở
bục giảng, hoặc trên mặt người nghe
đang ngồi ở các hàng ghế trong hội trường.
Cho
nên, nếu muốn xét xem một tín đồ Cao
Đài có c̣n mặn mà với Đạo hay không, có
thể chú ư tới phản ứng t́nh cảm, tâm lư
của họ những khi đọc, nghe, nhắc
tới lời dạy trong thánh giáo, thánh ngôn Cao
Đài.
Ngoài
đặc điểm tâm lư này, thử xem c̣n có cái
ǵ khác cũng là nét tâm lư của người tín
đồ Cao Đài. Ở đây tạm nêu ra
năm nét lớn, dễ nhận thấy. Chắc
chắn ngần ấy vẫn chưa đủ, và cách
gọi tên cho năm nét tâm lư này có thể chưa
chuẩn xác lắm, cần được bổ túc
và sửa chữa sau này.
I.
Tính mở (openess)
Tính
mở bắt nguồn từ truyền thống khoan
dung tôn giáo (religious tolerance) của người
Việt, từ truyền thống Tam giáo đồng
nguyên như một hệ quả của cuộc giao
lưu văn hóa Việt-Hoa.
Tính
mở cũng bắt nguồn từ đặc điểm
địa lư, đặc điểm đa văn hóa
và đa tín ngưỡng của Nam Kỳ, cái nôi
của đạo Cao Đài.
Tính
mở cũng bắt nguồn từ chủ trương
vạn giáo nhất lư của đạo Cao
Đài, từ chủ trương rằng tất
cả giáo chủ, giáo thuyết đều có
một nguồn cội là Thượng đế.
Tại chùa Vĩnh Nguyên (làng Long An, quận Cần
Giộc, tỉnh Chợ Lớn),
ngày 07-4-1926 đức Cao Đài dạy:
Ngọc
Hoàng Thượng đế
viết
Cao Đài Tiên ông Đại bồ tát Ma ha tát.
Nhiên
Đăng Cổ phật thị Ngă.
Thích
Ca Mâu Ni thị Ngă.
Thái
Thượng Nguơn Thỉ thị Ngă.
Kim
viết Cao Đài.
(Ngọc
Hoàng Thượng đế
tức
là Cao Đài Tiên ông Đại bồ tát Ma ha tát.
Nhiên
Đăng Cổ phật là Ta.
Thích
Ca Mâu Ni là Ta.
Thái
Thượng Nguơn Thỉ là Ta.
Nay
gọi là Cao Đài.)
Tính
mở cũng bắt nguồn từ tính tổng
hợp với chủ trương kết tinh kim
cổ dung ḥa đông tây của giáo lư Cao Đài.
·
Mặt tích cực của tính mở
Khi
đă chấp nhận giáo chủ Cao Đài
(Trời) cũng là Thích Ca (Phật), là Thái Thượng
(Lăo), v.v...; khi đă chấp nhận một Thiên bàn
(bàn thờ Cao Đài) trên thờ Ngọc Hoàng Thượng
đế (Trời, tượng trưng bằng
Thiên nhăn), bên dưới là Tam giáo Tổ sư
(Thích Ca, Lăo Tử, Khổng Tử), Tam trấn Oai
nghiêm đại diện cho Tam giáo (Quan Âm, Lư Thái
Bạch, Quan Thánh), Chúa Giê-xu (Thánh đạo) và
Khương Thái công (Thần đạo), th́ rơ
ràng người tín đồ Cao Đài không thể
dị ứng với các giáo lư, tín ngưỡng khác.
Cho nên không lạ khi thấy một trong những
ấn phẩm đầu tiên của đạo Cao
Đài, ra đời ngày 15-10-1926, là Phổ cáo chúng
sanh Đại đạo Tam kỳ phổ độ,
ngoài b́a vẽ h́nh Thích Ca ngồi giữa, hai bên
là Khổng Tử và Lăo Tử.
Thế
nên, khi đứng trước một bàn thờ hay
tượng thờ của một tôn giáo khác, người
tín đồ Cao Đài cũng thành kính tự nhiên
như lúc đối diện với thánh tượng
Thiên nhăn trên thiên bàn của tôn giáo ḿnh.
Cũng
vậy, khi nói chuyện giáo lư, người tín đồ
Cao Đài không hề tự g̣ bó ḿnh, không tự
giới hạn ḿnh trong nguồn thánh giáo Cao Đài
mà trái lại họ thường có xu thế
viện dẫn một cách thích thú và tự nhiên các
điển tích thông dụng của Nho, Thích, Lăo, Gia
Tô giáo...
Với
tính mở của ḿnh, người tín đồ Cao
Đài sẵn có ưu điểm rất nhân
bản là họ không thể mắc phải tệ phân
biệt, kỳ thị tín ngưỡng, văn hóa,
chủng tộc...
II.
Tính nhiệt thành (enthusiasm)
1.
Tính nhiệt thành bắt nguồn từ ư thức hăng
say làm công quả. Công quả là phụng sự vô
vị lợi cho người khác. Giáo lư Cao Đài
đề cao công quả, dạy rằng thế gian là
trường thi công quả; con người muốn
thi đậu (thành tiên phật) th́ phải làm công
quả. Không công quả, không t́m cách giúp đời,
trả nợ nhân quần th́ không mong giải thoát.
Tại
thánh thất Cầu Kho, ngày 05-3-1927, đức Cao
Đài dạy: “Trong các con có nhiều đứa
lầm tưởng hễ vào Đạo th́ phải
phế hết nhơn sự, nên chúng nó ngày đêm
mơ tưởng có một điều rất
thấp thỏi là vào một chỗ u nhàn mà ẩn
thân luyện đạo [công phu: tu thiền,
tịnh luyện]. Thầy nói cho các con biết,
nếu công quả chưa đủ, nhân sự chưa
xong, th́ không thể nào các con luyện thành đặng
đâu mà mong. Vậy muốn đắc quả th́
chỉ có một điều phổ độ chúng
sanh mà thôi. Như không làm đặng thế này th́
t́m cách khác mà làm âm chất...”.
2.
Trong nhiều h́nh thức công quả có một công
quả rất lớn là “độ”
cho người khác cũng giác ngộ để vào
Đạo tu học (nhập môn), và mỗi
một tín đồ cần độ ít nhất là
mười hai người vào Đạo, thực hành
lời dạy của đức Cao Đài ngày
27-8-1926 (20-7 Bính Dần): “... buộc mỗi đứa
phải độ cho đặng ít nữa là mười
hai người.”
Đó cũng là yếu tố khiến cho hầu
hết tín đồ Cao Đài thường có tính
nhiệt thành truyền giáo (enthusiasm for
proselytization) cho dù họ không phải là giáo sĩ
được đào tạo chuyên nghiệp.
·
Mặt tích cực của tính nhiệt thành
a.
Tính nhiệt thành công quả khiến cho người
tín đồ Cao Đài giàu tinh thần làm công tác xă
hội một cách vô vị lợi (nếu như có
mong lợi, cũng chỉ là mong về tâm linh,
được giải thoát, hoặc hưởng phước
vô vi, tạo âm chất...). Trong một xă hội
từng bị chiến tranh tàn phá, nhiều cảnh
nghèo đói và thương đau, tính nhiệt thành
công quả này có mặt rất tích cực là giúp
đỡ đồng đạo và đồng bào
ruột thịt. Đối với tín đồ Cao
Đài đó là nhân đạo làm nền tảng
cho thiên đạo: Dục tu thiên đạo, tiên
tu nhân đạo; nhân đạo bất tu, thiên
đạo viễn hỹ. (Muốn tu đạo
trời [giải thoát] trước nên tu đạo làm
người; không tu đạo làm người th́ cách
xa đạo trời vậy.)
Ngày
20-02-1926 đức Cao Đài dạy:
Vào
ṿng huynh đệ khá thương nhau,
Một
đức trổi hơn một phẩm cao.
Chí
quyết thiên đường men bước tới,
Phải
nhiều máu thịt mới đồng bào.
b.
Tính nhiệt thành truyền giáo khiến cho người
tín đồ Cao Đài sẵn tinh thần xả thân
hành đạo, do đó đạo Cao Đài phát
triển nhanh về quy mô ngay trong buổi sơ khai.
Tổ chức giáo hội (hội thánh) non trẻ không
giàu về tiền bạc, nghèo cả về cơ
sở vật chất, thế mà mỗi khi có một
công cuộc ǵ lớn lao th́ bổn đạo
tự nguyện gom sức người sức của
vào rất mau và rất hăng hái.
III.
Tính kham nhẫn lạc quan (optimistic
patience)
1.
Tính kham nhẫn lạc quan của người tín
đồ bắt nguồn từ sự thấm
nhuần lư nhị nguyên (dualism) trong giáo lư Cao
Đài, rằng muôn việc chi ở thế gian cũng
là song hành hai mặt tương phản,
cho nên nỗi khổ đau không thể tách rời
khỏi niềm hạnh phúc. Tính kham nhẫn lạc
quan cũng bắt nguồn từ đức tin
về luật nhân quả: con người phải
trả quả cho các nhân xấu trong kiếp trước,
thậm chí nếu muốn mau trả hết
nghiệp quả trong kiếp này để chóng
sạch nợ tiền khiên, sớm được
nhẹ nhàng giải thoát về cơi trời th́
phải chịu nhồi quả, tức là thay v́
dần dần trả nợ góp, phải trả
dồn dập một lần cả vốn lẫn lăi,
thế nên thân thế đành chịu vô cùng lao
đao, điên đảo... Trong bài Kinh hộ
mạng của tín đồ Cao Đài có hai câu
kết phản ánh rất rơ tính kham nhẫn lạc
quan này:
Cam
ḷng với cảnh thuyền xê,
Có
Thầy [Trời]
con trẻ ủ ê chi mà.
2.
Với đức tin tuyệt đối nơi
Trời và luật nhân quả, người tín đồ
Cao Đài hiểu thêm rằng mọi nghịch
cảnh mà họ giáp mặt hôm nay không hề là
chuyện vô căn vô cớ. Nếu chẳng v́
trả nợ nần kiếp trước th́ cũng
là sự thử thách tâm chí can trường của
người tu cho xứng đáng là học tṛ đủ
đầy đạo hạnh của Thượng
đế. Ngày 13-3-1926 đức Cao Đài dạy:
“Muốn xứng đáng làm môn đệ Thầy là
khổ hạnh lắm. Hễ càng thương bao nhiêu
th́ Thầy lại càng hành bấy nhiêu. Như đáng
làm môn đệ của Thầy th́ là Bạch
ngọc kinh [nơi
Thượng đế ngự] mới chịu rước,
c̣n ngă th́ cửa địa ngục lại mời.
Thương thương, ghét ghét, ai thấu đáo
vậy ôi!
“Bởi vậy cho nên Thầy chẳng v́ ghét mà không
lời khuyến dụ; cũng chẳng v́ thương
mà không sai quỷ dỗ dành. Thầy nói trước
cho các con biết mà giữ ḿnh: chung quanh các con,
dầu xa dầu gần, Thầy đă thả
một lũ hổ lang ở lộn với các con.
Thầy hằng xúi giục chúng nó thừa dịp mà
cắn xé các con, song trước Thầy đă cho các
con mặc một bộ thiết giáp; chúng nó
chẳng hề thấy đặng, là đạo
đức của các con.”
·
Mặt tích cực của tính kham nhẫn lạc quan
Do
tính kham nhẫn lạc quan người tín đồ
Cao Đài khi đối mặt với nghịch
cảnh, cho dù phũ phàng nhất, vẫn có thể
cam ḷng ẩn nhẫn sống, ǵn giữ thân
mạng để tu hành. Có thể nói rằng thái
độ bi quan, tuyệt vọng đến mức
phải tự tử là việc rất hiếm
thấy trong cộng đồng Cao Đài.
IV.
Tính dân chủ hay b́nh đẳng (characteristic
of democracy or equality)
Mặc
dù hội thánh Cao Đài được thiết
lập với hệ thống chức sắc, giáo
phẩm tinh vi, mang tính tổ chức vững
chắc,
nhưng trong thực chất đạo Cao Đài là
một cộng đồng mang tính gia đ́nh rất
sâu đậm. Cơ cấu thấp nhất của hành
chánh đạo (Caodaist administration) là thánh
thất (nhà thánh, holy house), và ngày 18-9-1926 nó
được đức Cao Đài định nghĩa:
“Thầy đă lập thành thánh thất, nơi
ấy là nhà chung của các con...”
Tính
dân chủ hay b́nh đẳng trong tâm lư của người
tín đồ Cao Đài đă bắt nguồn từ
tính gia đ́nh sẵn tiềm tàng trong tổ
chức Hội thánh, trong cách xưng hô giữa các
đấng Thiêng liêng với tín đồ, giữa
đồng đạo với nhau.
Theo
luật lệ Cao Đài (Tân luật), các
chức sắc đối với tín đồ là anh
chị lớn đối với em nhỏ; phẩm Giáo
tông (Pope) cao tột trong hệ thống Cửu
trùng đài cũng chỉ là Anh Cả...
Trong cách xưng hô giữa tín đồ với nhau,
tùy theo vai vế, tuổi tác mà gọi bạn đạo
là anh lớn, chị lớn, đạo
huynh, đạo tỷ, đạo đệ, đạo
muội.
Đến
như đấng Giáo chủ Cao Đài là Trời, là
Ngọc Hoàng Thượng đế mỗi khi đến
với tín đồ vẫn chỉ xưng ḿnh là Thầy,
là Cha; các tiên thánh, bồ tát đến
dạy đạo cũng gọi tín đồ là hiền
đệ, hiền muội, coi những kẻ phàm
trần ấy là em trong nhà.
Với
tín đồ Cao Đài, đức Diêu Tŕ Kim
mẫu (Phật mẫu) là Mẹ và khi vào đền
Phật mẫu chầu lễ Mẹ, các chức
sắc không được mặc áo măo (phẩm
phục), tất cả chỉ mặc quần và áo dài
trắng, chỉ đội khăn đóng đen (phái
nam) hay lúp trắng (khăn vải trùm đầu
phái nữ),
đơn sơ như một tín đồ thông thường.
Ư nghĩa căn bản của quy tắc này là: khi
về với Mẹ, tất cả con cái đều
ngang hàng như nhau.
·
Mặt tích cực của tính dân chủ hay b́nh
đẳng
Tính
dân chủ hay b́nh đẳng trong cộng đồng
Cao Đài khiến cho trong mối quan hệ giữa
cấp dưới với cấp trên không có sự
sợ sệt, quỵ lụy. Hệ quả là ḷng tôn
kính, tùng phục đàn anh đàn chị trong đạo
Cao Đài không phải do h́nh thức áo măo, chức
vụ (phần bên ngoài) mang lại mà chính là do t́nh
thương chân thật, do đạo hạnh gương
mẫu và tâm đức ngời sáng của đàn
anh đàn chị (phần bên trong)...
V.
Tính lăng mạn (romantic
characteristic)
1.
Lăng mạn được hiểu theo nghĩa là
“có nhiều tư tưởng lư tưởng hóa
hiện thực và nuôi nhiều ước mơ
về tương lai xa xôi.”
Tính lăng mạn của người tín đồ Cao
Đài sớm có ngay từ khi mới h́nh thành
nền tôn giáo, được nuôi dưỡng và
củng cố bằng đức tin mănh liệt
với các thánh giáo Cao Đài đặc biệt nói
trước về một tương lai kỳ vĩ,
không riêng cho dân tộc Việt Nam mà sẽ từ cái
nôi Việt Nam lan rộng ảnh hưởng ra
khắp thế giới, cho cả nhân loại cùng
hạnh hưởng.
Phụng
gáy non Nam, Đạo trổ ṃi,
Trổ
ṃi nhơn vật bốn phương trời.
Trời
Âu biển Á chờ thay sắc,
Sắc
trắng mây lành phủ khắp nơi.
2.
Tính lăng mạn của người tín đồ Cao
Đài bắt nguồn từ t́nh dân tộc, ḷng yêu
nước. Trong khi đất nước Việt Nam
vẫn c̣n đang bị thực dân Pháp chia làm ba
mảnh là Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc Kỳ, th́
ngày Rằm tháng 9 năm Bính Dần (21-10-1926), người
tín đồ đă được đức Cao
Đài (Thầy) dạy rằng:
Từ
đây ṇi giống chẳng chia ba,
Thầy
hiệp các con lại một nhà.
Nam,
Bắc cùng rồi ra ngoại quốc,
Chủ
quyền Chơn đạo một ḿnh Ta.
3.
Tính lăng mạn ấy cũng bắt nguồn từ
ḷng tự hào dân tộc. Ngay từ giữa thập
niên 20 của thế kỷ 20,
những người đang mang thân phận một dân
tộc nô lệ dưới ách thống trị
xiềng xích của thực dân Pháp lại được
đức Cao Đài dạy rằng tuy nhược
tiểu, tuy mất nước, nhưng Việt Nam
sẽ sớm mở hội Niết bàn, tức là
sẽ có một cảnh thiên đàng tại thế:
Hảo
Nam bang! Hảo Nam bang!
Tiểu
quốc tảo khai hội Niết bàn.
(Tốt
thay nước Nam! Tốt thay nước Nam!
Nước
nhỏ mà sớm mở hội Niết bàn.)
Đến
với một tôn giáo trẻ, người tín đồ
Cao Đài đă sớm được thánh giáo gieo
đức tin rằng đạo Cao Đài mai sau
sẽ là Quốc đạo, sẽ là đạo riêng
của nước Nam. Đức Cao Đài dạy:
Từ
thử nước Nam chẳng đạo nhà,
Nay
Ta gầy dựng lập nên ra.
Ngày
18-9-1926: “Từ đây trong nước Nam duy
có một Đạo chơn thật là Đạo [mà]
Thầy [đức Cao Đài] đă đến
lập cho các con, gọi là Quấc đạo.”
4.
Tính lăng mạn của người tín đồ Cao
Đài cũng bắt nguồn ở đức tin
rằng đạo Cao Đài (Đại đạo
Tam kỳ Phổ độ) là phương tiện
cứu độ sau cùng của nhân loại do
Trời ban riêng cho dân tộc được chọn
và dân tộc này có sứ
mạng
rất trọng đại và vinh dự trong Tam
kỳ Phổ độ là phải cứu độ
toàn nhân loại. Đức Cao Đài dạy:
Ngày
25-7-1926: “... trong Tam kỳ Phổ độ
nầy các con phải độ rỗi cả nhơn
loại khắp cả năm châu...”
Ngày
13-12-1926: “Vốn Thầy lập nền chánh giáo
cho dân Nam Việt chẳng phải là việc nhỏ
đâu.”
Ngày
17-01-1927: “Thầy lại đến lập trong nước
các con một nền chánh đạo đủ tư
cách độ rỗi chúng sanh. Các con và cả dân
tộc các con v́ nơi Đạo mà đặng
đoạt đến phẩm vị cao thượng...”
·
Mặt tích cực của tính lăng mạn
Có
đặt ḿnh vào xă hội Nam Kỳ thời
thuộc địa th́ sẽ thấy mặt tích
cực nơi tính lăng mạn của người tín
đồ Cao Đài. Tính lăng mạn này thỏa măn
những ức chế của người dân mất
nước, đánh mạnh vào ḷng tự hào
của một dân tộc bất khuất và nuôi dưỡng
ước vọng muốn được giải phóng
để dân tộc ngửng cao đầu cùng năm
châu bốn bể, rồi sẽ c̣n đem phong hóa nước
Nam ảnh hưởng tới các dân tộc khác. Có
thể nói rằng, tính lăng mạn trong thánh giáo Cao
Đài hay trong tâm hồn người tín đồ
Cao Đài cũng là một biểu hiện của
truyền thống yêu nước. Phải chăng
đó cũng là yếu tố khiến cho đạo
Cao Đài sớm là nơi quy tụ những đồng
bào yêu nước, một sự thực mà ngày nay các
nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đều
nh́n nhận.
°
Nghiên
cứu tâm lư của người tín đồ Cao
Đài có lẽ hăy c̣n là vấn đề quá
mới đối với cả trong và ngoài cộng
đồng Cao Đài. Đây là một đề tài
c̣n có thể tiếp tục nghiên cứu sâu
rộng hơn tùy theo mục đích của các nhà
nghiên cứu để có được những
ứng dụng thích hợp với những nhu
cầu cụ thể.
LÊ
ANH DŨNG
(27-5-2000)
(Lê
Anh Dũng là một người nghiên cứu về
đạo Cao Đài rất nghiêm túc. Đọc bài
của ông sẽ nhận ra nhiều khám phá đặc
biệt bằng con mắt nh́n và cách diễn
giảng qua ngôn ngữ Việt Nam cuối thế
kỷ XX, đầu thế kỷ XXI. Ông là nhà giáo,
đồng thời là tác giả một số sách
giáo khoa, văn học… bên cạnh những tác
phẩm về đạo Cao Đài cũng như Tam
giáo tại Việt Nam. Một số tác phẩm
của ông -- kể cả các công tŕnh nghiên cứu
về đạo Cao Đài) đă in thành sách, ghi âm
vào băng cassettes / CD-rom, hoặc đă đăng trên
các báo, tạp chí ở Hà Nội, Huế, Sài G̣n.
Gần đây được giới thiệu
tại địa chỉ http://leanhdung.dk3.com.
Nhập môn ở Vĩnh Nguyên Tự , Cần
Giuộc, Long An, gần 30 năm qua ông là nhân viên
phụ trách công tác nghiên cứu, dịch thuật, và
đào tạo giáo sĩ-tu sĩ tại CƠ QUAN
PHỔ THÔNG GIÁO LƯ CAO ĐÀI GIÁO VIỆT NAM mà danh xưng
hiện nay là CƠ QUAN PHỔ THÔNG GIÁO LƯ ĐẠI
ĐẠO.
Tại
hải ngoại bài trên đồng thời được
in ở trang nhà của Thiên-Lư Bửu-Ṭa, Đường
Về Đại Đạo và Tín Ngưỡng Á Châu.)
[Werner
1981], Jayne Susan. Peasant politics and religious sectarianism:
peasant and priest in the Cao Dai in Viet Nam. Connecticut:
Monograph Series No. 23, Yale University Southeast Asia Studies. |