Thuyết
Thiên Địa vạn vật nhất thể
trong khoa học hiện đại
Bác sĩ
Nguyễn Văn Thọ
Xưa nay nhiều người thường
cho rằng Khoa học có cái nh́n khác biệt với các nhà
Huyền học, Đạo học. Đă đành, không phải
là các khoa học gia có cùng một đường lối
như nhau, nhưng cũng đă có những khoa học gia
chứng minh được rằng các nhà huyền học
(Mystics) và khoa học gia đă nhận ra rằng Vũ
trụ này có một bản thể duy nhứt. Người
đă làm được chuyện này là nhà vật lư
Fritjof Capra. Năm 1976, ông cho in quyển The Tao of the physics.
Sách này đă được nhiều nhà xuất bản
in lại. Mới đầu là nhà xuất bản Shambala,
rồi đến Quality Book Club, rồi đến Bantam
Edition. Từ 1976 đến 1977, Shambala in lại sách
bốn lần. Quality Book in lại một lần năm
1977. Bantam từ 1977 đến 1984 in lại tất cả
chín lần.
Fritjof Capra viết rằng khoảng năm 1970, một hôm
ông ngồi ngoài băi biển đă chứng kiến
thấy vũ trụ chuyển hóa trong ông và quanh ḿnh ông,
như một vũ điệu vũ trụ. Ông thấy cát,
đá, nước và không khí là những phân tử, nguyên
tử rung động, va chạm lẫn nhau, ảnh hưởng
lẫn nhau, tiêu diệt lẫn nhau. Ngoài ra c̣n thấy
những luồng vũ trụ tuyến thường xuyên
phả qua làn không khí, gây nên những va chạm, những
sự huấy diệt lẫn nhau. Trước đây, ông
chỉ biết chuyện này trên lư thuyết, trên toán
học. Bây giờ ông mới thấy thế giới quanh
ông và trong thân thể ông nhảy nhót theo nhịp điệu
vũ trụ. Ông cảm động đến rơi
lệ và ghi chép lại trên giấy những cảm giác mà
ông có được. (1)
Ông không những là một khoa học gia mà c̣n mê say
triết học và huyền học Á Châu. Ông càng ngày càng
nh́n thấy rơ sự tương đồng giữa
những cái nh́n của các nhà huyền học Bà La Môn,
Phật giáo, Kinh Dịch và Lăo giáo với những khám phá
mới nhứt của khoa Vật Lư Lượng tử
(Quantum Physics) hiện đại.
Ông chủ trương vạn vật trong vũ trụ này
đồng thể và hỗ tương ảnh hưởng
lẫn nhau (The unity of all things and mutual interrelation of all things).
Bản thể rốt ráo ấy của Vũ trụ, Bà la
Môn gọi là Brahman, Phật giáo gọi là Dharmakaya, Tathata
hay Suchness (Pháp thân, Chân Như), Lăo giáo gọi là Đạo.
Khoa học hiện đại cũng chủ trương y
thức như vậy.(2)
Ông đă dành cả một chương "The Unity of all
things" để bàn về Vạn vật nhứt
thể. Ông nhận định đại khái rằng trong
đời sống b́nh thường, con người không
biết rằng vạn vật là nhứt thể mà cho
rằng vũ trụ này có nhiều sự vật khác nhau,
có nhiều chuyện khác nhau. Sự phân biệt này tuy
cần cho đời sống hằng ngày, nhưng không
đúng với thực tại. Sự phân tách này là do
sự biện phân sắp xếp của khối óc chúng ta
mà thôi. Tưởng rằng vũ trụ này sai biệt
lẫn nhau, và có nhiều biến cố khác nhau là
chuyện huyễn vọng (illusion, maya). Đạo Bà La Môn và
đạo Phật cho rằng huyễn vọng đó sinh ra
là do Vô minh (Avidya) hay là sự dốt nát (ignorance) của
ta. Khi con người biết định tĩnh (Samadhi),
sẽ t́m thấy sự nhứt quán của vũ trụ.
Sự nhứt quán của vũ trụ là đặc điểm
của các nhà huyền học, và cũng là sự mặc
khải của khoa vật lư học hiện đại. Càng
đi sâu vào ḷng nguyên tử, vào đáy ḷng vật
chất, ta càng thấy điều đó hiện ra. Càng sánh
Khoa học hiện đại với triết học Á Đông
ta càng thấy vạn vật là nhứt thể, và vũ
trụ này có liên quan mật thiết với nhau. (3)
Ông tŕnh bày vấn đề trên rất khéo léo. Trước
tiên ông tŕnh bày cái nh́n của khoa học hiện đại.
Sau đó ông tŕnh bày cái nh́n tương tự của Bà
La Môn, của Phật Giáo, của Trung Hoa, của Kinh
Dịch, của Lăo Giáo, của Zen. Tiếp đến, ông
cho thấy những điểm tương đồng
về Nhứt thể, về Siêu xuất âm dương,
về Không gian Thời gian, về Vũ trụ sinh động,
về Sắc Không, về Vũ điệu vũ trụ
v.v... Đại khái ông cho rằng vũ trụ này là
nhứt thể. Chỉ nh́n thấy mâu thuẫn là cái nh́n
phiến diện. Không gian và thời gian là một, không
thể tách rời nhau. Vũ trụ này biến thiên,
chuyển động chứ không phải ù ĺ, chết chóc,
rời rạc. Sắc, Không là một; và tất cả chúng
ta đều đang nhảy múa trong một vũ điệu
có lớp lang tiết tửu của vũ trụ.
Ông đi đến một cái nh́n chung như vậy dĩ
nhiên v́ ông vừa là một nhà huyền học (Mystic)
vừa là một nhà khoa học. Khi ông tŕnh bày vấn
đề theo khoa học, th́ có nhiều điểm ta có
thể không bắt kịp. Nhưng khi ông tŕnh bày vấn
đề theo huyền học và đạo giáo th́ ta
thấy rất là sáng tỏ.
Trước hết, ông nhận định rằng có hai cách
hiểu biết: Một là hiểu biết bằng trực
giác (Intuitive consciousness), hai là hiểu biết bằng lư trí
(Rational consciousness). Upanishads cũng có hai loại hiểu
biết: Hiểu biết cao (Higher knowledge) và hiểu
biết thấp (lower knowledge). Hiểu biết cao là
hiểu biết về đạo giáo; hiểu biết
thấp là hiểu biết về khoa học. Phật giáo cũng
có hai loại hiểu biết: Tuyệt đối và tướng
đối (absolute and relative knowledge). Theo ông, th́ đạo
Lăo và triết học Trung Hoa gọi Hiểu biết
bằng trực giác là Hiểu biết Dương, c̣n
hiểu biết bằng lư trí th́ gọi là Hiểu
biết Âm.
Hiểu biết bằng lư trí là nhận định
về đời sống thực tại với những
sự việc xảy ra trong kinh nghiệm và môi trường
quanh ta. Lúc này ta dùng trí khôn để phân tích, đo lường,
so sánh, phân loại. V́ hiểu biết bằng lư trí bao
giờ cũng cần đo lường, phân loại và
sắp xếp nên dĩ nhiên là sự hiểu biết này
rất bị giới hạn, như Heisenberg đă nói:
Một từ ngữ nào, một khái niệm nào, cho dù là
trong sáng đến đâu cũng chỉ có tầm ứng
dụng rất hạn chế.(4)
Cho nên đạo gia Á Châu dạy ta đừng nên cho
những khái niệm đó là thực tại. Tuy ngón tay
cần để chỉ trăng, nhưng ngón tay không
phải là trăng. Lờ để bắt cá, bẫy
để săn thỏ, nhưng khi đă bắt được
cá, được thỏ rồi th́ phải quên lờ,
bẫy đi.
Á Châu dạy ta đi t́m Chân lư rốt ráo siêu xuất trên
lư trí, trên ngũ quan, như Upanishads đă nói: Cái ǵ vô
thanh, vô h́nh, hằng cửu, vô xú, vô vị, vô thủy vô
chung, cao hơn mọi sự, bền vững nhứt, ai mà
t́m thấy nó sẽ trở nên bất tử.(5)
Tại sao, chỉ là một con người, mà sao lại
lắm loại chân lư như vậy? Theo tôi v́ Âu châu
đă có cái nh́n sai lạc về con người. Không
thể nói được rằng con người chỉ có
xác, có hồn mà phải nói con người có đủ
Tam Tài, Thiên, nhân, địa trong ḿnh nghĩa là có
Thần, Khí, Tinh. Thiên hay Thần ở trong cùng, giữa là
Nhân hay Khí, ngoài cùng là Tinh hay Vật.
V́ có Thần nên con người mới có Tuệ giác, có
trí Bát Nhă (Intuition), mới có được sự
hiểu biết cao siêu, mới có thể trở thành
thần thánh (Intuitive Knowledge). V́ có Hồn nên con người
mới thích dùng Trí Khôn, Trí Lự (Intellect) mà đi t́m
về khoa học, triết học. (Rational knowledge) V́ có Xác
nên con người mới biết dùng ngũ quan (Sensory
perception) mà t́m hiểu. Tuy nhiên rất ít người có
được tuệ giác, được trí Bát nhă, nên
đành dắm mắt tin theo người đi trước.
Ravi Ravindra, tác giả quyển Science and Spirit cho
rằng xưa Hi Lạp, Ấn Độ và Công giáo đều
tin rằng con người có ba phần là Thần, Hồn,
Xác. Thánh Paul đă dùng ba chữ Thần, Hồn, Xác trong
1 Thessalonians, 5, 23.
Thần là Đại Ngă trong ta, Hồn là Tiểu Ngă trong ta.
Tiểu ngă phải nhường bước cho Đại Ngă,
cho Thần như Đạo Lăo đă nói Tâm tử Thần
hoạt.
Cho nên Hồn mới là cái mà ta cần phải lưu tâm
uốn nắn rũa mài. Chúa Jesus nhiều lần cũng
dạy phải diệt trừ Tiểu Ngă (Mat, 10, 39, Mc 8,
34-35; Luc 17, 33; 14, 36; Jn 12, 25). Bao nhiêu câu Kinh thánh này
dạy Diệt trừ Tiểu Ngă, mà chữ Tiểu Ngă
hay Hồn Kinh Thánh Vulgate viết đúng là Anima hay Hồn,
nhưng các bản dịch xưa nay đều dịch Âme
hay Anima ở các đoạn này là Sự sống. Thành
thử câu văn trở nên vô nghĩa. Giáo chủ Mohammed
cũng dạy phải chế ngự Tiểu Ngă, hay
Hồn ḿnh. ông nói : Chinh phục ngoại cảnh không khó,
chinh phục hồn ḿnh mới là khó.(6)
Ravi Ravindra cho rằng Descartes là người đă coi
Hồn và Thần là một, và gọi Hồn và Thần
đều là Mind. (Science and Spirit, Editor and Principal Author
Ravi Ravindra, Paragon House, New York, 1991, p. 338-339). Thế là con
người thay v́ có ba phần đă bị Giáo Hội Công
Giáo (Công đồng Latran IV (1215) Vatican I (1869-1870), và
Descartes (1546-1650)) rút xuống c̣n có hai phần. Do đó
mà những nhận định về con người
trở nên sai chệch (7).
Capra mời chúng ta đi vào khoa học vật lư cổ
điển của Newton, của Laplace (Classical Physics); vào
vật lư học hiện đại (Modern physics) với
những thay đổi nhăn quan qua các thế hệ để
đi từ Vật lư Nguyên tử (Atomic Physics) đến
Vật lư Lượng tử (Quantic physics) với cái nh́n
hiện đại về vũ trụ.
Thiết tưởng chúng ta cũng nên có một vài khái
niệm về vấn đề trên. Trước hết
Capra cho rằng vào khoảng thế kỷ VI trước
C.N., Hi Lạp đă có Vật lư và hiểu Vật lư là
sự t́m hiểu về bản thể sự vật (8).
Thủa ấy, có trường phái Milesian (Milesian School).
Họ coi vạn vật đều sống động.
Họ chưa phân biệt tinh thần và vật chất.
Thales coi vạn vật đầy thần minh. Anaximander coi vũ
trụ như một cơ thể có linh khí (pneuma)
chuyển hóa bên trong.
Sau đó Heraclitus (thế kỷ V) chủ trương
vạn vật biến hóa vô cùng, biến hóa do cặp
ngẫu lực tướng đối. Tướng đối
nhưng vẫn ḥa hợp. Và Logos xiêu xuất trên sự
đối chọi đó. Chủ trương của
Heraclite cũng giống Thái Cực và Âm Dương trong
kinh Dịch.
Tiếp đó là Trường phái Eleatic cho rằng có
vị thần linh đứng đầu vạn vật. Trưởng
môn là Parmenides và học tṛ ông là Zeno. Parmenides cho rằng
vũ trụ này không có biến thiên.
Rồi đến những người chủ xương
ra thuyết Nguyên tử: đó là Leucippus và Democritus
(thế kỷ V). Họ coi thế giới này rốt ráo
gồm những cục gạch đầu tiên (basic building
block). Đó là những phần tử chết, di chuyển
trong chân không (They were purely passive and intrinsically dead particles
moving in the void). Sức chuyển động chúng sau này
được coi là năng lực tinh thần, khác
hẳn với vật chất. Và từ đấy Âu châu
mới phân biệt rơ về vật chất và tinh
thần, xác và hồn. Và các triết gia cho rằng con người
phải chú trọng đến đời sống siêu linh,
đến hồn, đến vấn đề luân lư, hơn
là đến vật chất.
Từ đó với ảnh hưởng của Aristotle và
của Giáo hội La Mă, con người không tiến
được nữa trong ṿng 2000 năm từ thế
kỷ V trước Công Nguyên đến thời kỳ
Phục hưng hay Phục Sinh ở âu Châu (thế kỷ
14-thế kỷ 15). Măi đến khoảng giữa thế
kỷ XV, Âu Châu mới bắt đầu đi vào con
đường khoa học, mới biết quan sát, thí
nghiệm, mới biết dùng toán học hỗ trợ cho
khoa học. Galileo (1564-1624) được coi là cha đẻ
của nền khoa học hiện đại.
Song song với sự khai sinh của Khoa học và tiếp
theo đó là sự phân tách đến triệt để
giữa tinh thần và vật chất. Sự tách biệt
giữa tinh thần và vật chất xảy ra vào
khoảng thế kỷ XVII do ảnh hưởng Descartes.
Descartes gọi Tinh thần là cái suy tư (Res Cogitans) và
vật chất là cái trải rộng ra (Res Extensa). Vật
chất là cái ǵ không sống động, và theo Descartes th́
thế giới này là những bộ phận của
một máy móc khổng lồ. Isaac Newton (1642-1727) cũng xây
dựng Vật lư trên quan điểm này. Từ giữa
thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX, quan
niệm của Newton coi vũ trụ này như một máy móc
lấn, hoàn toàn thống trị Âu Châu. Âu Châu coi Thượng
đế như vị vua ngồi trên cao, chỉ huy
thế giới này bằng những định luật vĩnh
cửu. Các định luật mà các nhà bác học đi
t́m chính là những định luật vĩnh cửu
đó, mà thế giới này phải tuân theo.
Triết học Descartes cho đến nay vẫn c̣n có
một tầm ảnh hưởng lấn đến đời
sống hằng ngày. Cogito ergo sum, Tôi suy tư nên có tôi. Câu
này đă khiến người Âu Châu trở thành
những Ngă riêng rẽ nằm trong thân xác. Như vậy
tâm thần đă hoàn toàn tách rời khỏi thân xác, và
trí thức (the Conscious will) đối nghịch với
bản năng (Involuntary instincts). Rồi mới con người
lại c̣n được chia ra thành nhiều ngăn
lớp khác tùy theo tài năng, ư thức, tâm tư , tín ngưỡng
ḿnh v.v... và gây ra không biết bao nhiêu là va chạm do
những lẫn lộn và thất vọng về siêu h́nh.
Thế giới bên ngoài cũng được phân thành vô
số sự vật. Cái nh́n gẫy vụn này được
áp dụng vào xă hội và thế giới được
chia thành nhiều nước, nhiều sắc dân, đạo
giáo, chính tri Sự tin tưởng rằng những
mảnh vụn đó - trong ta, quanh ta, trong xă hội ta - là
có thật, có thể được coi là nguyên nhân gây ra
muôn điều bất ổn trong xă hội, trong môi trường
và trong xă hội hiện nay. Sự phân tách, chặt
cắt này đă làm ta xa rời vạn hữu, xa rời
con người. Nó đă đem đến sự phân phát
bất công về tài sản, đă gây nên mọi thảm
họa chính trị và kinh tế, gây nên những cao trào
bạo động, gây nên những ô nhiễm ngoại
cảnh và làm cho đời sống tinh thần và thể
chất ta thêm bệnh hoạn. Như vậy, sự phân tích
và cái thế giới máy móc của Descartes vừa có
hại vừa có lợi. Nó lợi cho khoa học cho máy móc
nhưng hại cho nền văn minh chúng ta. Cái hay nhứt
là khoa học thế kỷ 20 này là tuy nó sinh ra từ cái
nh́n lưỡng đoạn và từ cái thế giới máy
móc của Descartes, đă bỏ được cái nh́n trên
và trở về được với quan niệm nhứt
thể của các Đạo gia Á Châu.
Các Đạo Gia Á Châu coi vũ trụ như là một
vật sống động. Và vạn vật vạn sự
mà ngũ quan thấy được như là muôn loài muôn
sự, thật ra là vẫn liên kết, gắn bó với
nhau, liên hệ với nhau và chỉ là những biến hóa
của một thực thể duy nhứt. (9)
Sở dĩ con người không có cái nh́n như vậy là
v́ u mê (Avidya) mà thôi. Mă Minh đại sĩ nói: " Khi tâm
loạn sẽ thấy vũ trụ là vạn hữu; nhưng
khi tâm mà tịnh th́ sẽ không c̣n thấy thế
nữa." (10)
Sự chuyển động biến hóa là đặc điểm
cố hữu của sự vật, nên cái sức
chuyển hóa đó không thể ở ngoài các vật mà
thật đă ở trong ḷng mọi vật. Chính v́
vậy mà các Đạo Gia Á Châu, khác với các triết gia
Hi Lạp, đă chủ trương rằng Thượng
đế không phải giám sát hồng trần từ trên
trời cao mà thực ra đă ở ngay trong ḷng con người.
Upanishads chủ trương: Đỗng ngự trong vạn
hữu, nhưng không phải là vạn hữu. Tuy vạn
hữu là xác thân Ngài nhưng vạn hữu không hề
hay biết. Đỗng đó chỉ huy muôn loài từ bên
trong. Ngài là Hồn bạn, Đỗng bất tử, đớng
chỉ huy từ bên trong. (11)
Frifjop Capra chứng minh rằng cái nh́n của các Đạo
Gia và khoa học gia hiện đại về vũ trụ
là một. Cả hai đều chủ trương vũ
trụ này là nhứt thể và hỗ tương ảnh hưởng
đến nhau. Càng đi sâu vào ḷng vũ trụ, khoa
học càng thấy vũ trụ là nhứt thể hỗ tương
ảnh hưởng đến nhau, và người quan sát cũng
không thoát ra ngoài hệ thống đó được.
Chúng ta hăy cùng Fritjop Capra đi sâu vào khoa học hơn, Ta
sẽ sánh vật lư cổ điển của Newton với
Vật lư hiện đại.
Vật lư học Newton.
Trước khi vật lư học hiện
đại ra đời, th́ có Vật lư học Newton.
Vật lư Newton là vật lư ba chiều. Newton chấp
nhận không gian là tuyệt đối, thời gian là
tuyệt đối, và vận chuyển từ quá khứ,
đến hiện tại, đến tương lai. Trong
không gian và thời gian tuyệt đối đó có
những phân tử vật chất chuyển vận.
Vật chất được coi như là những
khối nhỏ (mass points), rắn chắc, bền vững,
không thể phá tán. Như vậy quan điểm Newton
về Nguyên tử cũng giống Hi Lạp. Cả hai cũng
đều phân biệt cái Có và cái Không (the Full and the
Void), vật chất và không gian. Vật chất có h́nh thù
cố định. Vật chất bao giờ cũng thụ
động. Newton khác với Democritus ở chỗ là Newton
tin rằng giữa các phân tử có một năng lực
hoạt động trên nó, mà nay ta gọi là sức
hớp dẫn. Và Thượng đế đă làm cho
thế giới này chuyển động, như một cái
máy khổng lồ được chi phối bằng
những định luật bất biến. Vật lư
Newton dựa trên sự vận chuyển của các hành
tinh. ông cũng như Laplace (1749-1827), tin rằng mọi
sự là tất định, và có thể dùng toán học
mà tính ra được hết.
Tuy nhiên cái nh́n của Newton đă bị xụp đổ
từ khi Michael Faraday (1791-1867) và Clerk Maxwell ( 1831-1879) t́m ra
được Từ Điện Học (Electromagnetism) và
Từ trường. Newton chỉ biết có Sức (force)
chứ không biết ǵ là Trường (field). Thế là
Vật Lư Newton đă bị Điện từ học
(Electromagnetism) vượt qua mặt. Tiếp theo là nhân
loại biết thêm về Điện động học
(Electrodynamics), và người ta khám phá ra rằng ánh sáng cũng
có từ trường, từ điện và vượt không
gian bằng những Làn sóng. Rồi người ta thấy
rằng Truyền thanh, Radar, Ánh Sáng, Tia Quang tuyến X, tia
Gamma, Vũ trụ tuyến đều là những làn sóng.
Điều mà Newton không hề biết tới.
Thế là cho đến đầu thế kỷ XX, người
ta có hai lối giải thích vũ trụ: Một là
lối giải thích theo Newton, hai là lối giải thích
theo Điện động lực học (Electrodynamics).
Khoa học hiện đại.
Ba chục năm đầu thế kỷ XX,
đă hoàn toàn thay đổi cái nh́n của Vật lư. Người
ta t́m ra được Thuyết tướng đối, và
Vật lư nguyên tử. Hai sự kiện này đă phá tan
nhăn quan của Newton. Ngày nay không c̣n không gian và thời
gian tuyệt đối nữa, không c̣n có những hạt
nguyên tử riêng rẽ nữa, không c̣n nói được
rằng vật chất hữu h́nh được khiên
dẫn bằng những nguyên nhân cố định, không
c̣n nói được rằng có thể biết thế
giới một cách khách quan. Vật lư học mới không
chấp nhận cái nh́n trên nữa.
Người có công xây dựng Vật lư học mới là
Albert Einstein (1879-1955). Einstein đưa ra thuyết Tướng
đối (Theory of Relativity), và đóng góp vào thuyết lượng
tử (Quantum Theory). Năm 1905, Einstein đưa ra thuyết
Tướng đối hẹp (Special theory of Relativity)
hợp nhứt khoa Cơ Học (Mechanics), và khoa Điện
động lực học (Electrodynamics). Ông cũng c̣n
gắn liền thời gian với không gian, coi thời gian
là chiều kích thứ tư của vũ trụ. Einstein
cho rằng vạn sự tùy theo sự đo lường
của mới người trở nên khác nhau. Einstein c̣n
cho rằng vật chất là năng lực, theo phương
tŕnh E=mc2. Năm 1915 ông đưa ra thuyết Tướng
đối rộng (General Theory of Relativity), và chủ trương
sức hớp dẫn có thể làm cong không gian và thời
gian. Như vậy từ nay không c̣n không gian và thời
gian tuyệt đối của Newton nữa. Từ nay cũng
không c̣n không gian trống rỗng nữa (Empty space).
Rồi người ta t́m ra được quang tuyến X,
t́m ra được các chất phóng xạ (Radiooactive
substance) và thấy rằng nguyên tử có thể biến h́nh,
và vật chất có thế thay h́nh đổi dạng
được. Người ta thấy Nguyên tử c̣n sinh
ra được các tia Alpha, Beta, Gamma. Ernest Rutherford
(1871-1927) đă dùng tia Alpha để bắn phá trong ḷng sâu
nguyên tử. Sau đó lại khám phá thêm rằng nguyên
tử được sắp xếp như những hành
tinh, và người ta t́m ra được các định
luật về hóa học dựa trên vật lư nguyên
tử.
Năm 1920 nhiều khoa học gia góp sức để t́m
ra các định luật đó như Niels Bohr người
Đan Mạch, Louis de Broglie người Pháp, Erwin Schrodinger và
Wolfgang người Áo, Paul Dirac người Anh, Werner
Heisenberg người Đức. Các nhà khoa học trên
thấy càng đi vào ḷng vật chất, vạn vật càng
khó hiểu và mâu thuẫn. Tại sao ánh sáng lại
vừa là phân tử vừa là ba động. Max Planck
(1858-1947) nhận ra rằng sức nóng chẳng hạn không
phả ra đồng đều nhưng từng đợt,
mà ông gọi là những túi Năng lực (Energy packets).
Einstein gọi túi năng lực đó là quantum. Einstein c̣n
cho rằng không cứ ǵ là ánh sáng mà tất cả điện
từ cũng đều phả năng lực ra như
vậy. Thế là chúng ta bắt đầu đi vào
Vật Lư Lượng tử (Quantum Physics). Chúng ta không
biết chắc bao giờ Ánh Sáng là phân tử và khi nào nó
là ba động, chỉ đoán chừng được mà
thôi. Đó là Nguyên lư bất định của Heisenberg.(12)
Vật lư lượng tử như vậy đă phá tan nhăn
quan của Newton, và không c̣n có những vật cứng
cố định, những định luật tất
định nữa. Đi vào ḷng vũ trụ, ḷng vật
chất, nay chỉ c̣n thấy những ba động,
sự vật tướng liên tướng ứng lẫn
nhau mà thôi. Thuyết lượng tử cho ta thấy
bản chất vũ trụ là một, và không c̣n có
những nguyên tử cố định, những viên
gạch căn bản xây nên vũ trụ. Xưa người
ta tưởng Nguyên tử là nhỏ nhứt. Té ra không
phải vậy. Nguyên tử c̣n có Proton, Positron, Electron.
Meson, Baryon v. v... Năm 1935, người ta tưởng Nguyên
tử chỉ có sáu tiểu nguyên tử, đến năm
1955 người ta t́m ra được 15 tiểu nguyên
tử, nay ta đă t́m ra được hơn 200 rồi.
Như vậy trong Vật lư hiện đại, vũ
trụ này được coi là cái ǵ linh động, là cái
ǵ toàn khối, toàn bích, và người quan sát không tách ḿnh
ra ngoài nó được. Từ nay không c̣n không gian,
thời gian riêng rẽ, không c̣n sự vật riêng rẽ.
Cái nh́n trên rất giống cái nh́n của các Đạo gia
Á Châu. Sau khi chứng minh đại loại như vậy
rồi, ta đă thấy Capra đi vào chi tiết để
chứng minh.
Vật lư học Newton nh́n thấy Vạn, và đă đi
từ Nhứt đến Vạn, C̣n Vật lư Lượng
tử nh́n thấy Nhứt, và đă đi từ Vạn
về Nhứt. Nh́n thấy Vạn thời ai cũng làm
được, nhưng nh́n thấy Nhứt xưa nay
thực không mấy ai. Về phía Đạo Giáo chỉ có
một số Đạo Gia thượng thặng mới nh́n
thấy Nhứt. Về phía Khoa Học gia, ta thấy
phải có nhiều người hợp lại mới t́m
ra được Nhứt. Ta thấy chỉ có một
số khoa học gia thượng thặng như Einstein, Max
Plank, Werner Heisenberg, Schrodinger, Rutherford, Niels Bohr, Louis De Broglie,
Eugene Wigner, Fritjof Capra v.v... mới làm nổi chuyện này.
Werner Heisenberg khi quyết tâm từ giă Vật Lư Newton để
đi t́m con đường vào khoa Vật lư lượng
tử đă ví ḿnh như Kha Luân Bố đi t́m Tân
Thế Giới. Ông viết đại khái rằng: Cái hay
của Kha Luân Bố chính là v́ đă dám rời bỏ vùng
ḿnh đă biết, và dương buồm tiến về phía
Tây, vượt xa điểm mà lương thực đă
dự trữ để đủ trở về. Đối
với với Khoa học cũng vậy, nếu muốn t́m
ra đất mới, th́ không thể nào cứ măi ở yên
trong bến bờ của những học thuyết sẵn
có mà phải chịu liều vọt bước ra đi.
Tôi thấy Capra hợp nhứt được khoa học và
đạo học, công lao đó không phải là nhỏ. Nó
có thể giúp cho nhiều học giả tới nay chưa
có lập trường sẽ hồi tâm chuyển hướng.
Vạn vật là một đă được Eckhart xác
định. Eckhart viết: Mọi cái mà con người
thấy như là Vạn thù bên ngoài, thật ra chỉ là
một. Ở đây, cọng cỏ, gỗ, đá mọi
sự đều là một. Đó là cái ǵ thâm sâu nhứt.
(13)
Thảo nào mà Dịch Kinh từ mấy ngh́n năm nay
đă nói Âm Dương tướng thôi nhi sinh biến hóa.
Và Âm Dương luôn biến từ cái này sang cái kia, không
có ǵ là cố định: rốt ráo chỉ c̣n có Hư
Vô, Không Tịch. Niels Bohr đă nhận H́nh Thái cực làm
phù hiệu của ông, và công nhận rằng Contraria sunt
complementaria (Opposites are complementary), tức là không có ǵ là mâu
thuẫn nhau cả.
Tuy khoa học đă t́m ra được rằng vạn
vật là nhứt thể, như không biết được
rằng nhứt thể đó là ǵ. Ngược lại các
đạo gia đă thấy rằng nhứt thể đó
là Thực tại tối hậu (Ultimate Reality). Người
th́ gọi đó là Brahman, là Chân Như, là Pháp Thân, và Đạo,
là Trời. Eckhart gọi đó là Thần của Hồn
(The Spirit of the Soul); Hugh of St. Victor gọi là Mũi nhọn tâm
hồn (Acumen mentis), Thánh Teresa of Avila gọi đó là Tâm Điểm
linh hồn (Center of the Soul); thánh Jerome gọi đó là Tàn
lửa linh hồn (Spark of the Soul); Upanishads gọi đó là
Atman [Thou art that; it is Atman (Self) which is Brahman.] Ấn độ
cũng c̣n gọi đó là Khí Prana, hay Purusha, hay Atman hay
Brahman v.v... Như vậy Prana cũng tướng
đương với chữ Thần (Spirit, hay Pneuma). Tuy
nhiên các đạo gia đều đồng thanh cho
rằng cái thực tại tối hậu ấy hay con người
tối hậu ấy, ta phải t́m cho ra ngay trong tâm
thần của ta, bằng Thiền định, bằng Yoga
hay bằng Kundalini. Phương tiện không quan trọng.
Điều quan trọng là cái hiểu biết rốt ráo
của ḿnh. (14)
Ta phải biết chúng ta ai cũng có hai phần: Một
phần hằng cửu, bất biến. Đó là Bản
thể chúng ta (Noumenon, Essence). Một phần là biến thiên,
vô thường, vô định. Đó là tất cả
những hiện tượng biến thiên trong ta (Phenomenon,
Accidents). Bản thể vĩnh cửu là Niết bàn.
Ảo hóa biến thiên là Luân hồi, sinh tử.
Chúng ta phải biết dùng đời chúng ta, dùng mọi
khả năng biến hóa cúa chúng ta, để mà thoát
khỏi ṿng luân hồi ảo ảnh, để mà t́m
lại được Chân Nguyên, Chân thể của Chúng
ta, đó là Đạo, là Trời. Ta có thể gọi đó
là Phối thiên (Mystical Union with God), là đạt đạo
Yoga (Finding Yoga), là đắc Đạo (Finding the Tao), hay Giác
Ngộ (Enlightenment, hay Self- Realisation). Trong dĩ văng đă có
vô số người lên tới tŕnh độ này. (15)
Mới hay ta sinh ra đời không phải là vô mục
đích. Rơ ràng là ta phải biết dùng đời ta
để biến thiên, tiến hóa. Chúng ta là những con
người Biến Thiên (Becoming) và Tiến Hóa. Gopi Krishna
nói: Chúng ta, bạn cũng như tôi, chúng ta phải
tiến để thực hiện chân ngă chúng ta, để
cho tâm hồn ta nhận ra được và thực
hiện được bản thể thần minh của chúng
ta. (16)
Ước ǵ chúng ta kẻ trước người sau
đều bước được vào con đường
này. Đó là bổn phận của mới người chúng
ta. Không làm được nó kiếp này, sẽ làm trong các
kiếp sau. Tôi nhớ lời Kinh Upanishads:
Từ ảo ảnh xin đưa tôi
về thực tại,
Từ tối tăm xin đưa tôi về ánh sáng,
Từ tử vong, xin đưa tôi về bất tử (17).
Bác sĩ Nguyễn Văn
Thọ
Chú thích:
1.-
Fritjof Capra, The Tao of Physics, Bantam Books, 1984, Preface to the first
edition, p. XIX.
2.-
The basic oneness of the universe is not only the central characteristic of the
mystical experience, but also one of the most important revelations of modern
physics. It becomes apparent at the atomic level and manifests itself more and
more as one penetrates deeper into matter, down to the realm of subatomic
particles... (The Tao of the Physics, p. 117).
3.-
The unity of all things and events will be a recurring theme throughout our
comparison of modern physics and Eastern philosophy. (The Tao of Physics, p.
117-118).
4.-
Every word or concept, clear as it may seem to be, has only a limited range of
applicabilitỵ (The Tao of Physics, p. 15).
5.-
What is soundless, touchless, formless, imperishable, Likewise tasteless,
constant, odorless, Without beginning, without end, higher than the great,
stable - By discerning That, one is liberated from the mouth of death. (Katha
Upạ 3, 15. The Tao of Physics, p. 76).
6.-
The little holy war is a war against the infidels, buy the great holy war is the
war against onés own soul. (Ravi Ravindra, Science and Spirit, Paragon House,
New York, 1991, p. 338).
7.-
Ib. p.339.
8.-
The endeavor of seeing the essential nature of all things. (The Tao of Physics
p.6).
9.-
For the Eastern mystics, all things and events perceived by the senses are
interrelated, connected, and are but different aspects of the same ultimate
reality. (Fritjof Capra, The Tao of the Physics Bantam Books, 1984, p. 10).
10.-
When the mind is disturbed, the multiplicity of things is produced, but when the
mind is quieted, the multiplicity of things disappears. (Ib. page 10).
11.-
He who, dwelling in all things, Yet is other than all things, Whom all things do
not know, Whose body all things are, Who controls all things from within - He is
your Soul, the Inner Controller, The Immortal. Brihađaranyaka Upanishad,
3,7.15.
12.-
Principle of uncertainty : It means that, in the subatomic world, we can never
know both the position and momentum of a particle with great accuracỵy.
(Fritjof Capra, The Tao of the Physics, Bantam books, 1988, p, 143).
13.-
All that man has here externally in multiplicity is insitrically Onẹ Here
all blade of grass, wood and stone, all things, are Onẹ This is the
deepest depth... (Ravi Ravindra, Science and Spirit, Paragon House, New York,
1991, p.195).
14.-
Science and Spirit, Ravi Ranindra, Paragon House, New York, 1991, p.375 &
p.358.
15.-
The Meeting of Science and Spirit, John White, Paragon House, New York, 1990,
p.67.
16.-
This, I believe, is the purpose for which you and I here - to realize
ourselves... to bring the soul to a clear realisation of its own divine
naturẹ (The Meeting of Science and Spirit, John White, Paragon House, New
York, 1990, p.126).
17.-
From the unreal lead me to the real, From the darkness lead me to light, From
dead lead me to immortality. (Brihađaranyaka-Upanishad)
|