Trở lại trang chánh của Website Thiên Lư Bửu Ṭa
|
CHƯƠNG XV LUÂN HỒI, CHUYỂN KIẾP Đối
với người Á Đông, luân hồi chuyển
kiếp là một chuyện dĩ nhiên. Nhưng đối
với Âu Mỹ, th́ vấn đề đó ngày nay
dần dần mới được đem ra bàn căi và
nghiên cứu một cách đứng đắn khoa học. Tại
Mỹ, trào lưu tin vào luân hồi được
khởi xướng vào khoảng giữa thế kỷ 19
với nhóm Transcendentalists gồm những nhân vật như
Ralph Waldo Emerson, Henry David Thoreau, Bronson Alcott; với nhóm Thông
thiên học gồm những người như bà H.B.
Blavatsky, đại tá H.S.Olcott, bà Annie Besant v.v... Hiện nay
phái Scientology, mà giáo chủ là L. Ron Hubard, cũng chủ trương
luân hồi. Người
khảo sát về luân hồi, nổi tiếng quốc
tế hiện nay là Bác Sĩ Ian Stevenson. Ông sinh tại
Montréal, Canada ngày 31 tháng 10, 1918. Sau khi tốt nghiệp y
khoa tại đại học McGill, ông chuyên về các
bệnh tâm thần. Năm 1957 ông làm khoa trưởng khoa
Thần kinh học và Tâm thần học tại Đại
Học Virginia trong ṿng 10 năm. Sau đó chuyên giảng
về Tâm Thần học tại đó. Ông dần dần
trở thành chuyên gia khảo về luân hồi. Hiện nay
ông đă thu thập được hơn 1000 trường
hợp luân hồi trên thế giới. Quyển sách Twenty
Cases Suggestive of Reincarnation của ông, xuất bản năm
1966, hiện nay được coi là một trong những
quyển sách chứng minh về luân hồi đứng
đắn nhất. Joseph Head và
S. L. Cranston từ khoảng 1960 cũng đă ra một
loạt sách về luân hồi, mỗi quyển đều
dày khoảng 5, 6 trăm trang. Tôi đă đọc qua 2
quyển của các ông nhan đề là: Reincarnation,
Causeway Books, New York 1967. Reincarnation,
The Phoenix Fire Mystery, Julian Press New York, 1977. Sách
viết rất công phu; tài liệu hết sức phong phú. Hiện
nay, tại đại học Virginia, Khoa Siêu Tâm Lư Học
(Department of Parapsychology) có tàng trữ tất cả các
hồ sơ về luân hồi. Bác Sĩ Pratt báo cáo
rằng tới tháng 7, năm 1974, viện đă có 1,339
hồ sơ luân hồi, trong đó Mỹ có 324 chuyện,
Miến Điện có 139 chuyện, ấn Độ có 135,
Thổ Nhĩ Kỳ 114, Anh có 111. 1 Âu Mỹ
hiện nay liên kết Luân Hồi mà họ gọi là Tái
Sinh (Reincarnation) với Thuyết Tiền Kiếp
(Pre-existence) của Plato. Họ cho rằng những trẻ
thơ mới ba, bốn tuổi mà đă biết nhiều
sinh ngữ, mà giỏi toán vượt mức, chính là v́
chúng nhớ lại được (Reminiscence) những ǵ
đă biết trong tiền kiếp. “Cái cảm giác như
là đă từng thấy qua, nh́n qua một cảnh nào,
một nơi nào” (sentiment du déjà-vu; feelings of déjà-vu) cũng
được cắt nghĩa bằng Tiền Kiếp. Tướng
Patton, khi tới thành phố Langres, ở Pháp, một thành
phố c̣n có nhiều cổ tích từ thời La Mă
chiếm đóng xứ Gaul xưa, tùy viên quân sự người
Pháp xin làm hướng đạo, ông nói không cần, v́
đă biết rơ khu này, mặc dầu ông tới đây
lần đầu tiên. Tướng Patton xác tín rằng xưa
kia ông đă từng theo chiến đoàn Coesar sang chiếm
Pháp..(Xem Daniel Cohen, The Mysteries of Reincarnation, Dodd Mead & Co,
New York, 1975, p.5). Song song với công tŕnh khảo sát về
“Tái sinh” và “Đầu Thai”, nhiều khoa học gia c̣n
khảo sát xem sau khi xác đă chết, hồn có c̣n
sống hay không. Có nhiều Bác sĩ, như bà Elizabeth
Kubler-Ross, chỉ chuyên khảo về những người
đă chết đi sống lại ở trong các bệnh
viện. Quyển sách của bà, nhan đề là On Death and
Dying, nổi tiếng thế giới, xuất bản năm
1969, đă chứng minh điều đó. Chứng
minh một cách hết sức vô tư và khoa học
rằng hồn con người sau khi ĺa xác có thể
sống riêng rẽ, và hồn con người sau khi
chết thực sự có đầu thai, các nhà khoa học
ngày nay cố làm cho mọi người thấy rằng luân
hồi là chuyện có thật. Nếu họ làm được
chuyện này, th́ trong một tương lai rất gần,
phía trời Âu Mỹ sẽ có những chuyển ḿnh
hết sức là lớn lao. Ngày nay,
mặc dầu cả Công Giáo lẫn Tin Lành đều không
dạy Tái Sinh, nhưng theo một cuộc thăm ḍ
của Gallup Poll tổ chức trong 12 nước Âu Mỹ
- là những nước mà đa số dân chúng theo Công Giáo
hay Tin Lành - vào tháng 2, 1969, đă cho thấy kết quả
như sau: Xỉ
số người tin có luân hồi: -Áo
Austria: 20% -Gia
Nă Đại: 26%. -Pháp:
23%. -Anh:
18%. -Hi
Lạp: 22%. -Na
Uy 14%. -Thụy
Điển: 12%. -Mỹ:
20%. -Tây
Đức: 25%. -Ḥa
Lan (The Netherlands): 10%. Chắc
ngày nay thăm ḍ lại sẽ thấy đông đảo
hơn, nhất là về phía giới trẻ. (Xin
xem Joseph Head va S.L. Cranston, Reincarnation, The Phoenix Fire Mystery, tr.
486.) Sau
đây, tôi sẽ bàn lần lượt về các đề
mục sau: 1.-
Luân Hồi là ǵ. 2.-
Vấn đề Luân Hồi trong các tôn giáo, và lịch
sử hoàn cầu. 3.-
Vấn đề Luân Hồi trước mắt một
số danh nhân hiện đại. 4.-
Ít nhiều chuyện về Luân Hồi. 5.- Đóng góp của tôi về Luân Hồi. 1.-
LUÂN HỒI LÀ G̀? Luân
Hồi thường được hiểu là một
sự chuyển kiếp từ kiếp này sang kiếp khác.
Phật Giáo, Ấn Giáo hiểu Luân Hồi là sự
chuyển kiếp. Nó được gắn liền với
thuyết Nhân quả, Nghiệp quả. Luân Hồi chính là
Samsara; Nghiệp quả chính là Karma. Theo Phật giáo, tùy nhân
duyên mà con người sẽ luân hồi trong sáu cơi
(Lục đạo) sau: -
Thiên -
Thần -
Người -
Súc sinh (súc vật, sâu bọ). -
Ngạ quỉ -
Địa ngục. Ba cơi sau cũng
c̣n được kêu là Tam đồ (ba con đường)
(tam ác đạo): -
Cơi Súc sinh là Huyết đồ, v́ dễ bị giết,
bị ăn thịt. -
Ngạ quỉ là Đao đồ, v́ ma đói vừa
bị đói khát, vừa bị hành hạ. - Địa ngục là Hỏa đồ, v́ hồn ở trong đó bị lửa thiêu đốt. Hi Lạp xưa hiểu Luân Hồi cũng là chuyển kiếp như lối Á Đông và dùng chữ Metempsychosis để chỉ luân hồi (Metem: biến thiên.- Psyche: Hồn), ư nói khi luân hồi, th́ thể xác thay, mà hồn chẳng thay). Âu Mỹ
ngày nay, chấp nhận luân hồi, nhưng không chịu
rằng người lại có thể đầu thai làm thú
vật, nên họ thích chữ Reincarnation hơn, v́
Reincarnation là “Tái nhập xác”. Đôi khi c̣n thấy dùng
những chữ như Palingenesis: Tái sinh; hay Transmigration:
chuyển kiếp. V́ nói
đến Luân Hồi là nói tới Kiếp trước,
Kiếp sau, nên những chữ như Pre-existence (tiền
kiếp, tiền thân) cũng ám chỉ luân hồi. -Ṿng Luân
Hồi v́ biến thiên nên cũng được gọi là
Ṿng biến thiên, hay Ṿng Dịch (Wheel of change). - Nó lệ
thuộc vào thời gian nên cũng được gọi là
Bánh xe Thời gian hay Ṿng Thời gian (Wheel of Time). - Chúng sinh
bám trên ṿng đó, chịu định luật nhân
quả, nên Ṿng Luân Hồi c̣n được gọi là Ṿng
Nhân Duyên (Wheel of Causation), hay Ṿng Số Mệnh (Wheel of
Fortune). - Hi
Lạp, nhất là môn phái Orpheus c̣n gọi Ṿng Luân
Hồi là Ṿng Thai sinh (Wheel of Birth). Thánh Thư thánh James có
đề cập đến ṿng Thai sinh. (Trong
bản Thánh Thư James (James 3:6), Vulgata đă dùng chữ
Rotam nativitatis nostrae, c̣n Linh Mục Nguyễn Thế
Thuấn, trong bản dịch Kinh Thánh của ông, ông đă
dùng ngay chữ Ṿng Luân Hồi). Người
xưa khi lấy bánh xe tượng trưng cho ṿng Luân
Hồi c̣n có một vi ư hết sức là sâu sắc. Thực
vậy Bánh Xe có hai phần: 1.-Ṿng bánh
bên ngoài luôn luôn quay tṛn, thăng trầm, biến hóa, cho
nên tượng trưng cho Luân Hồi. 2.- Trục
chính giữa vành xe, không biến thiên, nên tượng trưng
cho hằng cửu, cho Giải thoát. Tu mà vào
được giữa trục biến thiên sẽ trở
thành Chuyển Luân Pháp Vương... Ta sẽ
trở lại vấn đề này sau. Thuyết
Luân Hồi gắn liền với Thuyết Nghiệp
quả (Karma) Đại
khái rằng ở đời nếu ta hành động hay
sẽ được kết quả hay; hành động
dở sẽ gặp kết quả dở. Kiếp này không
thấy, kiếp sau sẽ thấy ứng nghiệm. 2.-
VẤN ĐỀ LUÂN HỒI TRONG CÁC TÔN GIÁO VÀ LỊCH
SỬ HOÀN CẦU: Khảo các
đạo giáo cổ kim, và lịch sử nhân quần, th́
thấy vấn đề Luân Hồi dân nào cũng tin,
thời nào cũng có. Các sắc
dân bán khai ở Phi, ở Úc, ở các quần đảo
Thái B́nh Dương, những người Da Đỏ
ở Mỹ, các bộ lạc xưa ở Âu Châu như
bộ tộc Celts, Teutonics, Letts, hay Lombards đều tin có
Luân Hồi. Người
dân đảo Okinawa chẳng hạn tin rằng sau khi
chết đi, vong hồn người quá cố luẩn
quẩn ở trong nhà 49 ngày. Sau đó sẽ xuống Âm
Ti, Địa Phủ, và trong ṿng 7 đời, tức là
trong ṿng từ 1 đến 210 năm sau sẽ đầu
thai lại. Nhưng cũng có những người sẽ
ở lại Địa Phủ không đi đầu thai. 2 Dân Aztecs
ở Mễ Tây Cơ xưa, khi gặp những người
Tây Ban Nha sang chiếm nước, cứ tưởng là
những vị thần xưa tái thế để đ̣i
lại đất đai, chính v́ vậy mà sinh nản chí,
chịu đầu hàng mau chóng. Trong
Hồi Giáo cũng có nhiều người tin vào luân
hồi. Họ tin rằng: - Thỉnh
thoảng lại có thần thánh giáng phàm. Họ gọi
hiện tượng này là Hulul. - Các
bậc lănh đạo tinh thần cũng có thể tái sinh
(Rij'at). - Người
thường sẽ đầu thai lại (Tanasukh). Trong Kinh
Koran cũng có nhiều đoạn ám chỉ đến Luân
Hồi (Koran, đoạn 8- Sura Iraf- Meccan các câu 6-6-13.- Chương
25- Sura Zakhraf- Meccan, câu 5-10-60.- Chương 14 - Sura Nahel- câu
2-12-80). Tôi thích
nhất câu này: “Bạn đă chết, và Ngài đă cho
bạn sống lại. Ngài
sẽ làm cho bạn chết đi, và sẽ lại cho tái
sinh, và lúc chung cuộc sẽ gom bạn về với Ngài”
(Sura 1:28). Nơi
đây tôi không bàn nhiều về Luân Hồi trong đạo
Bà La Môn và Phật giáo. Tôi chỉ muốn nhấn
mạnh một điểm hết sức quan trọng này là
sau khi đọc kỹ kinh sách của Bà La Môn như
Upanishads, Bhagavah Gita, và Phật Giáo Tiểu thừa như
Pháp Cú, và các bộ kinh Đại Thừa như Lăng
Nghiêm, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Niết Bàn, và sách vở do các
đại Thiền sư viết, tôi toát lược
mấy điểm trọng yếu sau: - Phải
phân biệt Đại Ngă và Tiểu Ngă. - Đại
Ngă thời thường hằng, siêu xuất sinh tử. - Tiểu
Ngă thời luẩn quẩn trong ṿng luân hồi. - Bao lâu chúng
sinh c̣n ôm ấp cái vọng tâm, vọng ngă, cái tiểu ngă
biến thiên, sinh tử của ḿnh, th́ bấy lâu c̣n
phải luân hồi. Luân
hồi để học dần cho ra bài học Đại
Ngă, để biết diệt tiểu ngă mà trở về
với Đại Ngă. Bà La Môn
gọi Đại Ngă là Atman. Phật giáo gọi Đại
Ngă là Bản lai diện mục hay Pháp tính Chân Như. Nhiều người
theo đạo Phật chỉ biết được cái Vô
Thường, Vô Ngă, cái Sinh Tử, Biến thiên, mà không
biết được bốn chữ THƯỜNG,
LẠC, NGĂ, TịNH, thật uổng phí thay. Bà Rhys
Davids, một học giả lỗi lạc về Tiểu
Thừa, và thông thạo tiếng Pali, đă chứng minh
rằng đức Phật không bao giờ dạy rằng
Chân Ngă là hư ảo; hay Atman là hư ảo, mà chỉ
dạy rằng không thể t́m thấy được Chân
Thường hằng cửu, hay Chân tâm Chân Ngă, trong cái thân
phiến diện, kết cấu bởi Tứ Đại
giả hợp; trong cái phàm tâm kết cấu bởi ngũ
uẩn. Bà
Rhys Davids và ông Humphreys đă chứng minh rằng trong
Tạng Kinh viết bằng tiếng Pali, nhất là Pháp Cú
Kinh (Dhammapada), Đức Phật đă dạy con người
có 2 thứ Ngă: Đại Ngă và Tiểu Ngă, và không
hề dạy rằng Đại Ngă hay A man là hư
ảo. Bà Rhys Davids và ông Humphreys cho rằng thuyết An-atta
(không có Ngă = Not-Self) là do một sự hiểu lầm
của nhiều người theo Tiểu Thừa (Theravada). 3 Đại
thiền sư Nhật bản là Bassui Tokusho (1327-1387) đă
bàn về Luân Hồi và Giải Thoát như sau: “Nếu
bạn muốn thoát ṿng sinh tử luân hồi, bạn
phải biết con đường thành Phật thẳng
nhất, ngắn nhất. Mà
con đường ấy không ngoài sự thực hiện
được Bản Tâm ḿnh. Bản Tâm hay Chân Tâm
của ḿnh, chính là Bản thể chân thực của
quần sinh, có từ trước khi cha mẹ sinh ra ta, và
luôn luôn, hiện hữu, trường tồn. Đó chính
là BẢN LAI DIỆN MỤC của chúng ta... Cái Bản Lai
Diện Mục ấy, khi chúng ta sinh ra, chẳng có phải
tạo ra thêm; sau khi ta chết đi, nó vẫn c̣n y nguyên
đó. Nó không có nam, không có nữ; nó siêu xuất trên
thiện ác. Không một cái ǵ có thể so sánh được
với Nó, v́ thế Nó được gọi là Phật tính...”4 Tất
cả Upanishads, Bhagavad Gita của Bà La Môn giáo, bằng cách
này hay cách nọ, cũng chỉ dạy có MỘT CHÂN LƯ VĨNH
CỬU đó. Nghĩa là
nếu ôm ấp cái tiểu ngă ḿnh, thời luân hồi muôn
kiếp...Nếu nhận ra Đại Ngă, ra Atman, nếu rũ
bỏ được vọng tâm vọng niệm, nếu
kết hợp nhất như được với Đại
Ngă, đó là Giải thoát. Đọc các Thánh Thư
Ấn Giáo nói trên, mà có những tư tưởng trên
đây dẫn đạo, th́ sẽ thấy toàn bộ kinh
sáng láng như ánh dương quang. Nếu không, sẽ như
đi lạc trong một đêm ba mươi, đă không
trăng sao, lại c̣n vân vũ mù mịt. Giữa ḷng
biến thiên của cuộc đời tang thương vân
cẩu, giữa những trận cuồng phong ác vũ
của hồng trần, người thấu thị luôn luôn
nh́n thấy Đại Ngă sáng chói trong ḷng ḿnh, nhờ
vậy mà sẽ được hạnh phúc, sẽ
được b́nh an, sẽ được giải thoát.<?xml:namespace
prefix = o /> Mới hay:
Toàn Tri bất diệt, bất sinh,
Không nơi, không chốn; quần sinh khác vời.
Ngoài ṿng sinh tử, thảnh thơi,
Xác thân dẫu nát, Ngài thời vẫn nguyên.
Nhỏ th́ nhỏ nhít thua kim,
Lớn thời vũ trụ muôn miền vẫn thua.
Ẩn trong tâm khảm, lặng tờ,
Trong ḷng muôn vật, mờ mờ ẩn thân.
Thấy Ngài, phải dụng mắt thần,
Mắt thần vừa mở, Chân Thần hiển dương.
Thấy Ngài bất biến trường tồn,
Không h́nh, không ảnh trong muôn h́nh hài,
Ai mà biết thế mới tài,
Thoát ṿng sinh tử, muôn đời trường
sinh...5 Tóm lại
bao lâu, con người nghĩ ḿnh sống tách rời Chân
Thể, Đại Thể, bấy lâu sẽ c̣n luân
hồi. Bao giờ thấy ḿnh với Đại Ngă, Đại
Thể là một, sẽ siêu thoát. 6 Đạo
Lăo cũng có cái nh́n y thức như vậy. Khẩu
quyết đắc Đạo, thoát Luân Hồi đă
được ghi trong quyển Thái Thượng Bảo
Phiệt như sau:
”Tâm dữ Đạo hợp, tắc tạo Bồng
Lai, Tam Đảo,
Tâm dữ Đạo
ly, tắc tạo lục đạo tam đồ.” Dịch:
Ḷng Người
hợp với Ḷng Trời,
Bồng Lai, Tam Đảo
tức thời hiện ra,
Ḷng người ḷng
Đạo ĺa xa,
Tam đồ, lục
đạo phôi pha, khốn nàn. Đạo
Cao Đài cũng hoàn toàn tin có luân hồi. Về phía
Công giáo, th́ ta có thể nói chắc chắn rằng
từ Công đồng Constantinople họp vào năm 543
trở đi, th́ Giáo hội nghiêm cấm không cho tin có luân
hồi. Ai tin như vậy sẽ bị vạ tuyệt thông.
Trước đó hơn ba trăm năm có Giáo phụ
lừng danh là Origen (A.D. c. 185- c. 254) đă chủ xướng
luân hồi, nhưng công đồng Constantinople khi họp cũng
phi bác thuyết trên của Giáo phụ. Sau này qua nhiều
thế kỷ, v́ sợ những h́nh phạt kinh khủng mà
các Ṭa H́nh Án (Inquisitions) dành cho những giáo dân dám suy nghĩ
khác với những điều Giáo hội dạy, nên không
c̣n ai dám chủ trương Luân Hồi và do đó
thuyết Luân Hồi hầu như bị tiêu diệt
tại Âu Châu cho đến thế kỷ 19. Ngay bây
giờ, người Công giáo bắt buộc vẫn
phải tin rằng con người chỉ sống có
một kiếp. Sau đó sẽ lên thiên đàng lĩnh thưởng,
hoặc xuống địa ngục chịu phạt đời
đời kiếp kiếp. Ngoài ra Công giáo c̣n dạy tin có
Luyện ngục, một nơi đền tội tạm
thời, trước khi lên Thiên Đàng. Đến ngày
tận thế, xác loài người đều sẽ
sống lại, hợp với hồn để lên
trời lĩnh thưởng hay xuống địa ngục
chịu phạt đời đời. Các học
giả ngày nay khi so sánh hai cái nh́n về lai sinh, một
của Công Giáo, một của ấn Giáo, Phật giáo nói
trên, th́ đều có nhận định rằng: Thuyết
Luân hồi nghiệp báo, dù sao cũng công bằng hơn,
từ bi hơn, hữu lư hơn. Ngày
nay nhiều người thấy khó chấp nhận
rằng con người có thể bị đốt trong
lửa hỏa ngục đời đời, v́ tội ḿnh
làm nơi gian trần này, nhất là khi bị ghép là đă
phạm trọng tội, nhưng thực ra chỉ là khinh
lỗi. Ta hăy tưởng
tượng một người phạm một lỗi
lầm hết sức nhỏ mọn, như ăn một
miếng thịt ngày thứ sáu, hay bỏ không đi xem
lễ ngày chủ nhật, v́ lười biếng chẳng
hạn, rồi nhỡ bất ưng chết đi, không
kịp ăn năn thống hối, mà phải xuống
hỏa ngục chịu phạt đời đời, th́
thật là phi lư. Rồi ta lại tưởng tượng
một tên gian ác, giết vô số mạng người, trước
khi lên ghế điện, được linh mục hay
mục sư đến giải tội cho; hắn thật
ḷng thống hối, và thề quyết không giết người
nữa. Chịu tử h́nh xong, chàng ta có rất nhiều
hi vọng lên thiên đàng hưởng phúc đời
đời. Và c̣n trăm ngh́n trường hợp lôi thôi,
“chéo cẳng ngỗng” như vậy. Tất cả
những thực tế phũ phàng ấy không thể nào
thích hợp với quan niệm Chúa từ bi vô cùng, công
bằng vô cùng được. Các
triết gia lớn như Origen, như các tác giả
Dịch Kinh đều cho rằng “Thiên địa
tuần hoàn chung nhi phục thủy”, nghĩa là tới lúc
chung cuộc, tất cả sẽ nhập vào lại
Bản Thể của trời đất, vào Thái Cực. Lăo tử
cũng viết:
Phù vật vân vân,
Các qui kỳ căn.
Qui căn viết tĩnh,
Tĩnh viết phục mệnh,
Phục mệnh viết thường.
(Đạo đức
kinh, chương 16). Dịch:
Muôn loài sinh hóa đa đoan,
Rồi ra cũng phải lai hoàn bản nguyên.
Hoàn bản nguyên an nhiên phục mệnh,
Phục mệnh rồi trường vĩnh vô cùng. Hiện tượng
ấy được gọi là Apocatastasis, hay Restitution of
all things. Luke có nhắc tới quan niệm này trong Actes 2:21,
nhưng ngày nay không c̣n mấy ai hiểu được
vấn đề này. Ngược lại, nếu theo đúng
như chủ trương của Giáo hội, th́ lúc
tận thế vẫn c̣n có hằng triệu tỉ người
bị phạt đời đời trong hỏa ngục.
Nếu đúng vậy, th́ thực là một sự ô danh
muôn đời cho Chúa, một đấng thông minh vô cùng,
toàn năng vô cùng, lân tuất vô cùng, và cho thấy Ngài
đă hoàn toàn thấy bại trong công tŕnh đại
tạo của Ngài... Ông David
Lloyd George (1863-1945) viết trong nhật kư của ông, đề
ngày 3, tháng 9, 1919, một đoạn rất là dí dỏm
như sau: “Khi c̣n
tấm bé, mỗi khi nghĩ tới thiên đàng, tôi
lại sợ hơn khi nghĩ tới hỏa ngục. Tôi
tưởng tượng Thiên đàng, là một nơi có
những ngày Chủ Nhật vô tận, và những lễ vô
tận, mà ai cũng phải dự, không cách nào trốn
thoát, bởi v́ Chúa Toàn năng, và các đạo binh thiên
thần của Ngài luôn để ư xem có ai trốn ra ngoài
không. Thật là một cơn ác mộng. Cái trời qui
ước với các thiên thần luôn luôn ca hát v.v... làm
tôi tưởng chừng phát điên lên, và làm tôi trở
thành vô thần mất 10 năm. Tôi nghĩ rằng chúng ta
sẽ đầu thai... và lai sinh, chúng ta sẽ sướng
hay khổ tùy theo hành động của ta ở đời
này. Ví dụ, một người chủ chuyên làm cho
thợ toát mồ hôi, th́ sau sẽ bị sợ toát
mồ hôi” 7 Có một
điều lạ là nếu ta đọc Phúc âm một cách
vô tư, th́ ta thấy chính Chúa Jesus cũng tin có Luân
Hồi v́ Ngài tuyên bố rằng John the Baptist, đấng
Tiền Hô Ngài, chính là Elijah tái sinh (Mat. 17:9-13.- Mat. 11:7,
10-11, 14-15). Các Tông đồ cũng cho biết rằng dân chúng tưởng Chúa Jesus là John the Baptist, hay Elias, hay Jeremias, hay một tiên tri khác. (Mat. 16:13-14). Chữ “Ṿng
Luân Hồi” (Ṿng sinh của Orpheus) cũng đă thấy
nhắc đến trong Thánh Thư James. Linh Mục
Nguyễn thế Thuấn khi dịch đoạn này cũng
đă dùng trúng chữ: BÁNH XE LUÂN HỒI (James 3:6). (Xem KINH
THÁNH, Nguyễn thế Thuấn dịch). Bản
VULGATA dùng chữ ROTAM NATIVITATIS NOSTRAE. Đó chính là chữ
mà xưa Môn Phái Orpheus, Hi Lạp dùng để chỉ ṿng
Luân Hồi. Nhiều
bản dịch Anh, Pháp có ư dịch tránh đi. Holy Bible
(Red Letter edition) dịch: The Course of Nature. Bible de
Jerusalem dịch: le Cycle de la création và chú thêm rằng Vulgate
dịch là LE CYCLE DE NOTRE EXISTENCE. Nếu dùng
đúng chữ như Bible de Jerusalem đă chú, th́ LE CYCLE DE
NOTRE EXISTENCE chẳng phải là Ṿng Luân Hồi th́ là cái ǵ? Chúng ta
sẽ hết sức thiếu sót, nếu khi ta bàn về Luân
Hồi, mà không nhắc đến những tên các đại
triết gia, hay các danh nhân, danh sĩ sau đây: - Các
triết gia Hi Lạp: Pythagoras (583-507 B.C.); Heraclitus Ephesus (c.
540- 480 B.C.); Socrates (469?-399 B.C.); Plato (427?-347 B.C.); Aristotle (384-
322)... - Các
triết gia, văn gia La Mă: Cicero (106-43 B.C.); Vergil (70-19 B.C.);
Ovid (43 B.C.- A.D. 17)... - Các
triết gia thuộc môn phái Tân Bá Lạp Đồ
(Neoplatonists): Plotinus (A.D. 205-270); Porphyry (A.D. 233- c. 304);
Iamblichus (A.D. c. 250-c. 330); Macrobius (thế kỷ 4-5)... - Danh nhân,
danh sĩ thuộc phái Gnosticism: Basilide; Valentinus; Marcion... - Các danh nhân
thời Trung cổ: Leonardo da Vinci (1452-1519); Paracelsus
(1493-1541); Giordano Bruno (1548-1600); Leibniz (1646-1716)... - Danh nhân
danh sĩ Hồi giáo: Mansur Al-Hallaj (thế kỷ thứ
10); Jalalu L-Din Rumi (1207-1273)... - Danh nhân
danh sĩ thuộc môn phái Kabala (Mật tông Do Thái): Rabbi
Isaac Luria (1534-1572); Rabbi Manasseh Ben Israel (1604-1657)... - Các danh nhân
thế kỷ 18: Voltaire (1694-1778); Benjamin Franklin (1706-1790);
Immanuel Kant (1712-1786)... - Các danh nhân
thế kỷ 19: J. W. Von Goethe (1749-1832); William Blake (1757- 1827);
Napoleon Bonaparte (1769-1821); G. W. F. Hegel (1770-1831); Arthur Schopenhauer
(1788-1860); Honoré de Balzac (1799-1850); Victor Hugo (1802- -1885)... - Nhóm
Transcendentalists Mỹ: Charles C. Emerson (1808-1836); Henri David
Thoreau; (1817-1862); Walt Whitman (1819-1892); Edgar Allan Poe (1809 -1849)... - Nhóm Thông
Thiên (Theosophists): Bà H.B. Blavatsky (1831-91); Henry Steel Olcott
(1830-1907); Annie Besant (1847-1933)... - Các danh nhân
thế kỷ 20 như: William James (1842-1950); Carl G. Jung
(1875-1961); Thomas Edison (1847-1931)... Ấy là tôi
chỉ mới kể sơ phác, và cho một danh sách
tối thiểu. Mới hay: Tiên thánh, hậu thánh kỳ quĩ
nhất dă (Mạnh tử)... Quí vị
nào muốn t́m kiếm thêm xem các bậc tiền bối
kể trên đă nói ǵ nghĩ ǵ về Luân Hồi, xin
đọc cuốn Reincarnation, The Phoenix Fire Mystery của
Joseph Head và S.L. Cranston. Thần
học gia Công Giáo Hans Kung, tác giả quyển Le Christianisme
et les Religions du Monde, (Editions du Seuil,, Paris 1984), đă nhận
định về vấn đề Luân Hồi đại
khái như sau: “Vấn
đề này thường không được các nhà
thần học Thiên Chúa Giáo coi trọng. Sống
hơn một kiếp - tái sinh (reincarnation), hay luân hồi
(metempsychosis) - phải chăng đó là những tư tưởng
kỳ quặc, ngộ nghĩnh; hay chẳng qua là mê tín
dị đoan có thế thôi? Phán đoán như vậy, người
ta đă quên mất hai điều: 1.-
Người Ấn Độ không phải là dân duy
nhất tin vào luân hồi, mà từ nhiều ngàn năm
nay, một phần lớn nhân loại cũng đă tin như
họ. Không
phải chỉ có vô số những dân tộc cổ sơ,
những dân tin vào vật hồn (animism) hay vật tổ
(totemism) mới tin có luân hồi. Mà c̣n tin có luân hồi
600 triệu dân Ấn, 300 triệu Phật tử ở Trung
Hoa, Nhật Bản và Đông Nam Á. Có thể niềm tín
ngưỡng của Ấn Độ nói trên về Luân
Hồi đă ảnh hưởng sang tới Hi Lạp, và
Tiểu Á. Nhưng có điều chắc chắn là từ
thế kỷ thứ sáu trước kỷ nguyên, Pherecydes
of Syros là người đầu tiên đă truyền bá
thuyết luân hồi tại Âu Châu, và sau đó môn phái
Orpheus cũng chủ trương như vậy. Rồi
đến Pythagoras, Empedocles, Plato, Plotinus, những triết
gia thuộc phái Neo-Platonism, và những thi sĩ La Mă như
Vergil. Ảnh hưởng của họ lan rộng cho
tới những người thuộc môn phái Gnosticism,
Manicheism, và giáo phái Cathari thời Trung Cổ sau này.. 2.-
Ở Âu Châu và Hoa Kỳ, ngày nay, rất nhiều người
tin có luân hồi: Trước hết là những người
tin vào thần linh, thần bí (spiritualists, spiritists); sau đó
c̣n có những người theo Thông Thiên của bà Blavatsky
và Annie Besant; những người theo phái Nhân Linh Học
(anthroposophy) của Rudolf Steiner. Họ c̣n nại ra vô
số các văn gia, triết gia người Đức cũng
chủ trương như họ. Đó là Kant, Lessing,
Lichtenberg, Lavater, Herder, Goethe và Schopenhauer... Có lẽ nào mà
chúng ta không thấy rằng nhiều người Âu Châu
đă nhờ tin vào thuyết luân hồi, mà ḷng bớt
trống rỗng...Cho nên thay v́ gán ghép cho Thuyết Luân
Hồi chiêu đề mê tín dị đoan, tưởng cũng
nên cân nhắc trọng khinh lại cho đứng đắn...”
(Xem sách trích dẫn, tr. 319-321). 3.-VẤN ĐỀ LUÂN HỒI TRƯỚC MẮT MỘT SỐ DANH NHÂN HIỆN ĐẠI. - Henri Ford
(1863-1947) đă trả lời như sau trong một cuộc
phỏng vấn: Tôi
chấp nhận thuyết luân hồi năm tôi 26
tuổi... Làm công kia việc
nọ cũng vô nghĩa, nếu ta không dùng được
kinh nghiệm của ta trong kiếp này cho kiếp sau. Khi tôi
t́m ra được thuyết Luân Hồi, tôi như t́m ra
được một chương tŕnh tổng quát. Tôi
thấy tôi có cơ hội để thực hành ư nghĩ
tôi. Thời gian không c̣n bị giới hạn. Tôi không c̣n
là nô lệ của những cây kim đồng hồ... Thiên
tài là do kinh nghiệm... T́m ra được Luân hồi làm
tôi thảnh thơi, thoải mái. Nếu bạn ghi lại
cuộc đàm thoại này, th́ xin hăy viết ra để
người khác cũng thấy thoải mái. Tôi muốn
chia sẻ cùng người khác sự thanh thản khi
nhận ra rằng chúng ta có thể có những thời gian
dài để mà sống... (Libro
citato, p. 355-356). - Albert
Schweitzer (1875-1965) vừa là bác sĩ, vừa là mục sư,
vừa là nhạc sĩ. Năm 1959 được mời
sang Mỹ công du. Khi cập bến, ông cúi đầu chào
mọi người, và dùng tiếng Pháp, tuyên bố
với những người ra đón mừng ông như
sau: “Thưa quí Bà, quí ông, khi c̣n trẻ tôi thật là
ngu. Tôi đă học tiếng
Đức, tiếng Pháp, tiếng La Tinh, tiếng Hi
Lạp, tiếng Do Thái, nhưng không học tiếng Anh.
Kiếp sau, tôi sẽ chọn tiếng Anh là tiếng ưu
tiên nhất.” (libro citato, tr. 182.) - Ông
Wincenty Lutoslaski đă viết trong quyển sách ông nhan đề
Tiền kiếp và Tái sinh (Pre-existence and Reincarnation), như
sau: Nếu ai
muốn biết thái độ của Giáo Hội La Mă
với vấn đề tái sinh ra sao xin hăy đọc
quyển sách nhan đề: Monsignor Arcivescovo L. Puecher
Passavalli, (tác giả là Attilio Begey e Allessandro Favero). Tác
giả cho thấy rằng sau khi khảo sát đời
sống và đọc các thư tín của Đức
Tổng Giám Mục nói trên đă cho thấy Ngài bắt
đầu tin có luân hồi năm Ngài 64 tuổi, sau khi
đă nghe các môn đệ của một nhà thấu
thị Ba Lan là ông Towianski thuyết giảng cho nghe về
Tiền kiếp và Tái sinh. Đức Tổng Giám Mục
cho rằng thuyết luân hồi không trái với lời
giảng giáo của Giáo hội, và không bị Giáo Hội
cấm đoán. Ngài sống tới 77 tuổi, và tin
chắc rằng ngài đă sống nhiều kiếp ở
trần gian, và sẽ c̣n tái sinh lại. (Ngài làm tổng
giám mục cho tới khi chết.) (libro citato, p. 179). - Đức
Dalai Lama thứ 14 (1935- ), tức Đức Phật sống
Tây Tạng hiện thời cho rằng Luân hồi sẽ
sinh ra t́nh bác ái phổ quát, v́ mọi người sẽ
nhận ra rằng chẳng kiếp này th́ kiếp khác
đă từng là bà con, họ hàng với nhau... (libro citato,
tr.100). Thực ra
đó cũng là tư tưởng hay... - Gandhi nói:
“ Sau khi đă quẳng gươm đi, tôi chỉ c̣n có
chén t́nh thương để tặng cho những người
chống đối tôi. Tặng
cho họ chén t́nh thương, tôi sẽ khiến họ thân
cận với tôi. Tôi không nghĩ rằng con người
măi măi sẽ là thù địch với nhau. Và v́ tôi tin vào
thuyết luân hồi, nên hi vọng rằng trong lai sinh, tái
kiếp, tôi sẽ có thể ôm ấp nhân quần vào trong
ṿng tay thân hữu của tôi.”(libro citato, p. 476). Thực là
lời lẽ của một thánh nhân! - Đại
tướng Mỹ George S. Patton rất tin có luân hồi. Ông
cho rằng ḿnh đă từ nhiều kiếp là một vơ
tướng, đă từng dự trận chiến ở thành
Troy Hi Lạp, đă phục vụ trong chiến đoàn
của Coesar, đă đánh nhau với Hung Nô, đă theo
đoàn quân thánh chiến sang Đất Thánh, đă đánh
nhau với phe Highland Scott để bảo vệ ḍng
họ Stuart...Năm 1944, ông làm bài thơ sau:
So as through a glass and
darkly,
The age-long strife I see
Where I fought in many
guises
Many names - but always me.
So forever in the future,
Shall I battle as of yore,
Dying to be born a fighter,
But to die again once more. (Daniel
Cohen,The Mysteries of Reincarnation,Dodd, Meat & Co, New York, 1975, p.
6-7)
Dịch:
Mờ mờ qua kính, qua gương,
Thấy ḿnh chiến đấu, nhiễu nhương
dài dài.
Thân này, xác nọ pha phôi,
Tên tuy có đổi, nhưng “TÔI” vẫn này.
Lai sinh, hậu kiếp bao nài,
Vẫn TÔI chiến đấu như thời xa xưa.
Thác đi, sống lại tha hồ,
Vẫn đời chiến sĩ như giờ khác
chi... 4.-
ÍT NHIỀU MẨU CHUYỆN VỀ LUÂN HỒI: Nếu ta có
ư đi thu thập các chuyện về luân hồi, đầu
thai, chuyển kiếp trong các tiểu thuyết xưa nay,
trong các báo chí, trong các chuyện truyền tụng trong dân
gian, ta sẽ có vô số là chuyện. Các nhà khoa
học ngày nay cho biết nhiều chuyện về luân
hồi, về tiền kiếp hậu thân, hoặc là do
đương sự tự nhiên kể lại, nhớ
lại hay kể lại khi bị thôi miên. Nếu
chỉ kể xong rồi chấp nhận th́ không có ǵ là
hay, nhưng các nhà khoa học lập tức đi điều
tra, hoặc đi t́m nhân chứng, hoặc đi tra lại
các sổ sách, hay các sách vở. Có những chuyện
rất lạ lùng như là những người, khi bị
thôi miên sau khi nhớ lại tiền kiếp của ḿnh c̣n
nói được trôi chảy những ngoại ngữ mà
khi tỉnh, đương sự không hề biết. Muốn sưu
tầm những chuyện trên, ngày nay không phải là
chuyện khó. Trong
quyển Have you lived before của Linda Atkinson, Dodd, Mead &
Company, New York 1981, có ghi 5 chuyện. Trong
quyển Reincarnation, The Phoenix Fire Mystery, của Joseph Head và
S. L. Cranston có thuật 15 chuyện. Trong
quyển The Mysteries of Reincarnation Daniel Cohen, Dodd Mead & Co New
York, có ghi 5 chuyện. Trong
quyển Twenty Cases Suggestive of Reincarnations, có ghi 20 chuyện. Từ khi tôi
c̣n bé, đọc Chinh Tây, tôi đă thấy chuyện Dương
Phàm, chồng hụt của Phàn Lê Huê, đă đầu
thai làm Tiết Cương để báo thù họ
Tiết. Tôi cũng c̣n nhớ đă đọc một
chuyện nhan đề là Hồn Trương Ba, da hàng
thịt, Lúc ấy tôi đă thấy thích thú. Sau đây,
tôi chỉ sao chép lại một vài chuyện để mua
vui. 1.-
Chuyện một phụ nữ Anh, năm 1961, kể lại
tiền kiếp là một người theo Giáo phái Cathars
thế kỷ XIII tại miền Nam nước Pháp.
thế kỷ 13. -Bác sĩ
Arthur Guirdham năm 1961, có chữa một phụ nữ 36
tuổi, chuyên môn bị ác mộng. Ác mộng
bắt đầu từ năm 12 tuổi. Năm 1961, bà ta
đă có chồng, nhưng vẫn bị ác mộng thường
xuyên như vậy. Bà luôn mơ thấy chém giết, và
khi mơ bà thường la lớn, đến nỗi
chồng bà lo rằng hàng xóm sẽ bị mất ngủ. Vài tháng
sau, bà ta viết lại những giấc mộng, và
thuật lại những người đă gặp,
những tên đă nghe, những thơ đă viết ra, khi
mộng mị. Bác sĩ
Guirdham ngạc nhiên khi thấy những bài ca đă
được viết là thứ tiếng Pháp thời Trung
cổ xưa. Bác sĩ Guirdham viết thư hỏi một
vị giáo sư linh mục, tên là Nellie ở Toulouse, th́
được vị linh mục này cho biết rằng
những chuyện mà đương sự kể lại có
liên quan đến một giáo phái xưa gọi là Cathars
hay Cathari ở Toulouse, Pháp thế kỷ XIII (giáo phái này
đă bị Công Giáo dùng vơ lực tiêu hủy). Bà ta c̣n
kể lại rằng bà ta đă bị Giáo hội Công giáo
thiêu sinh, và trước đó đă bị cầm tù trong
một hầm kín của một giáo đường. Năm
1967, Bác sĩ Guirdham, sang Toulouse để điều tra. ông
xin phép đọc các bản văn chép tay thế kỷ
XIII, và thấy rằng những ǵ thân chủ ông kể
lại rất là chính xác...ông cũng đă t́m lại
được trong các văn khố những bài hát đúng
như thân chủ ông đă chép lại. Những hầm kín
giam người, mới đầu tưởng là không có,
sau mới thấy là có thật. Bà ta c̣n kể lại
những lễ nghi, phẩm phục của giáo phái Cathars nói
trên, và sau khi truy cứu, tất cả đều phù
hợp. Bác sĩ
Guirdham cho rằng vụ này bắt buộc ông phải tin có
luân hồi. (Xem sách
Reincarnation and the Phoenix Fire Mystery của Joseph Head và S. L.
Cranston, tr. 398-400.) 2.-
Chuyện nhạc sĩ tí hon Tom, con một nô lệ da
đen, lại mù từ sơ sinh. Ông Perry H.
Oliver, một nông dân, thuộc quận Muscogee, Georgia có nô
lệ là hai mẹ con người da đen. Đứa con nô
lệ đó bị mù từ sơ sinh. Năm 1850, ông đem
hai mẹ con nô lệ đó bán cho tướng James Bethune
ở Columbus. ông Bethune đem nô lệ nhỏ đó về
trang trại, và đặt trên là Thomas Green Bethune. Tuy mù, nhưng
Bethune rất thích nghe tiếng gió ŕ rào trong những
ruộng ngô, và tiếng mưa trên trên những lá ngô. Năm
Tom lên 4 tuổi, ông Bethune mua một đàn dương
cầm cho các con gái ông. Các con gái ông sớm nhận định
rằng mỗi khi chúng đàn, là mặt mày của nô
lệ tí hon trở nên hớn hở.<?xml:namespace prefix = o
/> Một
đêm, khi cả nhà đă đi ngủ, bỗng nghe
tiếng đàn trong pḥng vẽ. Ông Bethune xuống kiểm
soát. Ông thấy pḥng tối như mực, nhưng vẫn
có tiếng đàn. Thắp đèn lên, ông thấy bé Tom
đang say sưa đánh đàn. Biết Tom
có thiên tài, ông đón một nhạc sư về dạy
Tom. Nhạc sư sau khi nghe Tom đánh đàn, liền thoái
thác không dám nhận dạy, v́ lẽ Tom chơi đàn c̣n
trội hơn ông. Năm Tom lên 7, đă bắt đầu
tŕnh diễn dương cầm ở Columbus, và được
nhiệt liệt hoan hô. Năm 11, Tom đă là một
nhạc sĩ trứ danh, đi tŕnh diễn khắp nước
Mỹ, và ngoại quốc. Tom chơi đủ các bài
của Beethoven, Mendelssohn, Bach, Chopin...và thuộc ḷng
khoảng 5000 bản đàn. Cứ nghe đánh một bài
mới, là Tom đánh lại được, không hề
sai. Năm 1860, khi Tom tŕnh diễn ở Washington D.C.,
nhiều người đ̣i thử tài Tom. Họ đánh
cho Tom nghe hai bàn đàn liền, một dài 15, một dài 20
trang. Nghe một lần xong, Tom đánh lại cả hai bài
đúng như in. Một lần khác, nghe xong Third Concerto
của Beethoven, Tom lập tức đánh lại. Có cái
lạ là Tom chẳng những vừa mù, lại vừa si,
chỉ biết được có khoảng 500 tiếng Anh.
Tom chết tại Hobeken năm 1908. Cũng nên nhận định
rằng, thoạt chơi đàn, khi 4 tuổi, tuy không
hề được ai dạy, Tom đă xử dụng
được tất cả các phím đàn, từ phím
đen đến phím trắng. Chuyện này,
nếu không chấp nhận tiền kiếp không sao
hiểu được. (Xem sách
đă trích dẫn, tr.409-411.) Tôi có
thể kể thêm vô số truyện khác, nhưng đó không
phải là mục đích của tôi khi viết bài này. 5.-NHỮNG
ĐÓNG GÓP CỦA TÔI VỀ VẤN ĐỀ LUÂN HỒI. - Sự
đóng góp của tôi chia làm mấy giai đoạn. A.- Trong giai
đoạn đầu tiên, trong khi suy tư về sự
sinh thành, biến hóa của vũ trụ quần sinh, tôi
đă tự hỏi như sau: 1.-Hỏi:
Trời sinh ra vũ trụ quần sinh bằng cách nào? Thưa:
Trời đă sinh ra muôn loài không phải bởi không, mà
bằng cách phân hóa, phóng phát, tán phân chính bản thể
ḿnh. 2.- Hỏi
: Sinh hóa để làm ǵ? Thưa:
Đó chính là sự phát huy, sự biểu dương,
sự hiển dương của Trời. 3.- Hỏi:
Bản thể thời vô biên, hiện tượng thời
hữu hạn. Làm sao cho hữu hạn theo kịp
được vô biên; thời gian theo được vĩnh
cửu? Thưa:
Bằng cách biến hóa có chu kỳ liên tục kế
tiếp nhau. 4.- Hỏi:
Nếu trời đất này cáo chung, th́ quần sinh lúc
ấy sẽ ra sao? Thưa: Muôn
loài sẽ thể nhập lại vào ḷng Trời; muôn
hiện tượng sẽ qui căn về Bản thể. Tôi
nhận định rằng: Nhân nào sinh Quả ấy.
Nếu Trời là NHÂN, là NGUYÊN NHÂN vạn hữu, th́ sau
những chu kỳ biến hóa đa đoan, rốt cuộc
QUẢ Trời sẽ phải sinh lại. Khi bàn
về quẻ KIỀN, tôi đă viết:
Thóc gieo thành lúa, thành bông,
Tuần hoàn, thóc vẫn thủy chung là ḿnh.
Trời dầu vạn trạng thiên h́nh,
Nhưng mà chung cuộc sự t́nh chẳng hai. Người
xưa nói: Thiên địa tuần hoàn, chung nhi phục
thủy, chính là nh́n thấy rằng THỦY, CHUNG phải
NHƯ NHẤT sau một chu kỳ biến hóa. Âu Châu cũng
có quan niệm này khi nói Alpha bằng Omega, hay khi dùng h́nh
vẽ dưới đây: Trong đó: a = là nguyên thủy w
= là cùng đích r
= là chữ rho (Hi Lạp) T
= là chữ tau (Hi
Lạp) 'Rho' 'Tau' có thể đọc thành Rota. Mà Rota có thể hiểu được là V̉NG BIẾN THIÊN, V̉NG DỊCH, hay là một CHU KỲ BIẾN HÓA. H́nh ảnh trên gợi ư rằng: Sau một ṿng biến hóa sẽ thấy Omega (Chung) chính là Alpha (Thủy) nguyên thủy. Tư tưởng
cho rằng “Thiên địa tuần hoàn chung nhi phục
thủy”, hay “Thủy chung như nhất”; hay “Nguyên
thủy phản chung” của DỊCH (Hệ từ thượng
IV) họa hoằn lắm mới có được một
người bên trời Âu hưởng ứng. Origen
(185-251? hay 257?) một giáo phụ công giáo duy nhất đă
dám nói rằng lúc chung cuộc biến hóa muôn loài sẽ
trở lại nguyên trạng, tức là trở lại vào
ḷng Tạo hóa. Tiếc thay tư tưởng này đă
bị Công giáo phi bác trong Công Đồng Constantinople năm
543. Âu Châu
gọi hiện tượng : “Chung nhi phục thủy” này
là Apocatastasis, hay Re-establishment of all things. Môn phái Stoics
của Hi Lạp và sau này Nietzche cũng có chủ trương
này. Trong Tân ước, ta thấy thánh Luke trong Công vụ
sứ đồ 3: 21, cũng có đề cập đến
quan niệm này, nhưng không ai để ư khai thác. Vulgate ghi:
tempora restitutionis omnium. Holy Bible
(Red letter edition) dịch: the times of restitution of all things. Bible de
Jerusalem dịch: temps de la restauration universelle. Cũng nên
ghi nhận rằng gần đây Linh Mục Teilhard de Chardin
chủ trương con người sẽ tiến hóa
tới điểm Omega, tức là sẽ trở thành
Thần Chúa trong một tương lai c̣n xa lắc. 5.-Hỏi:
Tại sao lại có biết bao nhiêu điều như
tuồng là dang dở, như tuồng là chếch mác
bất toàn, trong vũ trụ này? Thưa: Ta
tưởng vậy, v́ ta không nh́n được tấn
tuồng đại tạo từ đầu đến
cuối. Một vở kịch lớn diễn ra trong ṿng
bốn tiếng; ta vào giữa chừng xem trong ṿng năm
phút, rồi đi ra phê b́nh là quá dở. Như vậy là
tại ta, không phải tại vở kịch. Càng trông
thấy bất toàn, khuyết điểm bao nhiêu, tôi càng
tin chắc đó là v́ chu kỳ biến hóa mới c̣n
đang ở giữa chừng. Nh́n vào chu
kỳ biến hóa của nước, tôi thấy đầu
hết, nước ở trên trời, trong vắt như
ngọc thạch. Rồi nước thành mưa, sa
xuống trần gian, chảy xuống sông, xuống
biển, xuống cống, xuống rănh. Trần hoàn tha
hồ dùng nước, tha hồ làm cho nước ô
uế. Nhưng có lúc nước lại bốc hơi lên
để bay lại lên trời, t́m lại được
cái bản tính trong trắng, khinh phiêu của ḿnh. Nh́n vào chu
kỳ của ĐẠM KHÍ cũng vậy. Lúc mà thấy
cây cối thối nát, rữa mục chính là chặng
đường thấp nhất mà ĐẠM KHÍ phải băng
qua trong chu kỳ biến hóa, để rồi ra mới
trở lại được lại thể khinh thanh,
thuần túy của nó. Trong người
có máu đỏ, máu đen. Đừng thấy máu đen,
mà bảo rằng nó không thể hóa đỏ. Đừng
thấy máu đỏ, mà bảo rằng nó không thể hóa
máu đen. B.- Khi
khảo sát về Nho giáo, về Dịch, và t́m hiểu
về con người tôi đă dùng: -Ba ṿng tṛn đồng tâm: Ṿng trong cùng là Thiên (Thần); ṿng giữa là Nhân (Tâm, hay Hồn); ṿng ngoài cùng là Địa (Xác). Đó là v́ tôi dựa vào Thuyết Tam Tài. Từ đó tôi mới xác quyết rằng trong người có THẦN. -
Bảy ṿng tṛn đồng tâm tượng trưng
cho: -
Thần. -
Khí (phần hồn thanh). -
Tâm (phần hồn trọc). -
Trí. -
Xác. -
Gia đ́nh, quốc gia, xă hội. -
Ngoại cảnh, nghề nghiệp. Sau khi
vẽ xong 7 ṿng trên, tôi không c̣n quan niệm rằng con ngướ
chỉ là một sinh vật có hồn có xác, mà tôi định
nghĩa rằng con người là TẤT CẢ. Trong tâm
linh, th́ trực tiếp với THẦN LINH nội tại,
ngoài xác thân th́ có thể liên lạc với và chịu
ảnh hưởng của ngoại cảnh, của
quốc gia xă hội, và cả của các v́ tinh tú cùng tít
trên trời thẳm. Tôi nghĩ
ra bảy ṿng v́ lẽ Dịch có Thái cực và 6 hào. Tôi
dùng 7 ṿng để cắt nghĩa các hiện tượng
đạo giáo, gia đ́nh, chính trị, quốc gia, xă
hội, nghề nghiệp. Sau này tôi đă dùng bảy ṿng
tṛn này để cắt nghĩa về LUÂN HỒI. Mới
đầu tôi chỉ dùng bảy ṿng tṛn để bao quát
mọi hiện tượng của một con người
trên mọi thần linh, tâm lư, ư thức, sinh lư, nội
giới, ngoại giới v.v... Ư tưởng
dùng 7 ṿng tṛn để cắt nghĩa LUÂN HỒI, đến
với tôi một cách hết sức bất ngờ, và lư
thú. Năm 1961,
khi mà quân đội Hoa Kỳ mới đem những đoàn
trực thăng vào Việt Nam, khi mà tôi c̣n là y sĩ trưởng
Tổng Y Viện Duy Tân, Đà Nẵng, một hôm tôi
được các đồng nghiệp Hoa Kỳ, đóng
ở phi trường cạnh đó, mời sang xem sự
hoạt động của đài radar mới thành lập. Họ cho tôi
vào xem trong đài quan sát radar. Tôi nhớ rằng trong pḥng
đó ngoài những tấm bản đồ quân sự
lớn ra, c̣n có những màn ảnh trắng, trên có
vẽ nhiều V̉NG TR̉N ĐỒNG TÂM, và có phân sẵn
đông, tây, nam, bắc và Tâm Điểm. Họ
cắt nghĩa rằng TÂM ĐIỂM tượng trưng
cho thành phố Đà Nẵng, là chính thành phố Đà
Nẵng. Mỗi ṿng tṛn tượng trưng cho 1 khoảng
cách Đà Nẵng ví dụ là 20 km. H́nh ảnh các máy bay
đều hiện ra trên màn ảnh. Và tùy theo hướng
di động của máy bay, tùy theo máy bay đang ở
trong ṿng tṛn nào, người quan sát sẽ biết máy bay
đó hiện cách Đà Nẵng là bao nhiêu cây số, và
đang ở hướng nào. Ví dụ như có một h́nh
ảnh máy bay đang ở ṿng tṛn trong cùng gần tâm
điểm, nhưng đang bay hướng ra ngoài, th́
chắc máy bay đó sẽ rời xa Đà Nẵng dần
dần. Ví dụ có một h́nh ảnh lạ, từ ṿng
ngoài cùng nghĩa là khoảng 100 km cách Đà Nẵng, nhưng
đang bay vào hướng Trung Tâm. Nếu xét ra không
phải là máy bay nhà, mà là máy bay địch, th́ lập
tức phải báo động cho các cơ quan hữu trách
để pḥng bị v.v... Lúc ấy
lập tức tôi nh́n thấy cơ chế của Luân
Hồi. Tôi thấy rằng Thượng
đế ở trung cung, trung điểm của ḷng
mỗi một con người. Từng giây, từng phút,
Ngài thấy con người đang hoạt động trên
b́nh diện nào, đang chú tâm về vấn điều ǵ.
Giả sử suốt ngày đêm, một con người nào
đó chỉ lo về vấn đề cơm áo, vấn
đề nghề nghiệp, tức là ở măi ṿng
thứ bảy bên ngoài cùng, mà bảo rằng kẻ đó
vào được nước trời, tức là vào
được tâm điểm của ṿng tṛn trong cùng
nhất, th́ đó là một điều không thể
xảy ra. Cho nên khi Chúa Jesus nói: “Người giàu có vào
nước thiên đàng, thực khó hơn lạc đà
chui qua lỗ kim” (Luke 18:25; Mat.19:24; Marc 10:25), chính là v́
lẽ đó. H́nh vẽ
bảy ṿng tṛn, nếu được vẽ thêm hai mũi
tên hướng ngoại, hướng nội, và nếu
được hiểu là 'TRẺ ĐI RA, GIÀ ĐI VÔ', ta
sẽ hiểu ư nghĩa ṿng DUYÊN NGHIỆP một cách khác.
Thay v́ coi luân hồi và nghiệp báo là sự “ân đền,
oán trả” hết kiếp này qua kiếp khác, ta có
thể quan niệm rằng đă sinh ra đời, ai cũng
có bổn phận trở về với Đạo, với
Trời, hợp nhất với Đạo với Trời,
khác nhau chăng là kẻ trước người sau; người
nhanh kẻ chậm mà thôi. Nếu ta
nh́n thấy rơ các tầng lớp, các b́nh diện của
con người chúng ta, nếu chúng ta biết rằng
trở về với Đạo với Trời là đi sâu
vào tâm điểm ḷng ta, th́ ta có thể về với
Đạo với Trời trong phút giây. Nếu không
được vậy, ta có thể vừa đi ra, vừa
đi vô trong một kiếp người. Nếu ta không
biết đường, biết phương hướng,
ta có thể mất nhiều kiếp, hay trăm ngàn
kiếp. Dẫu sao, ta chỉ có thể dừng chân khi
về tới TRUNG ĐIểM. Thế tức là “CHỈ
Ư CHÍ THIỆN” theo Nho giáo. Ngoài
mục đích chính yếu là trở về với Đạo
với Trời, ta c̣n có nhiều bổn phận khác
nữa. Nói cách khác ngoài bổn phận TIẾN HÓA
TỚI TINH HOA HOÀN THIỆN, ta c̣n có bổn phận THÍCH
ỨNG VỚI HOÀN CẢNH. Cho nên tôi
hiểu DUYÊN NGHIỆP, NGHIỆP QUẢ là những bổn
phận mà con người phải làm, những công tŕnh mà
con người cần thực hiện, những tấn
tuồng mà con người cần phải đóng trên sân
khấu đời và trên sân khấu vũ trụ. Và tôi
hiểu LUÂN HỒI là những chặng đường mà
tôi đang đi để về với Đạo với
Trời. Mỗi
kiếp sống của tiểu ngă là một kiếp để
ta tăng thêm hiểu biết, tăng thêm kinh nghiệm,
để ta tiến gần thêm về phía Đại Ngă.
Trời thực sự luôn luôn dẫn dắt muôn loài
một cách hết sức tế nhị. Suy tư
về các kiếp khác nhau, mà con người phải
trải qua để trở về ḷng Đại thể vô
biên tận, tôi thấy, tùy cao thấp mà mỗi kiếp
cho chúng ta phương tiện nhiều hay ít, độ
số sướng khổ nhiều hay ít, tuổi thọ
cao hay thấp. Đây là tôi bàn chung, chứ không hạn
hẹp nguyên vào một kiếp con người. Chẳng
hạn con vật thua con người, v́ bộ óc chúng không
mấy phát triển, và chúng không có một ngôn ngữ
phong phú như chúng ta. Chúng ta
phải tâm niệm rằng trong bất kỳ kiếp
sống nào, chúng ta sẽ không được ù ĺ,
thụ động, mà phải phát huy các tài năng c̣n
tiềm ẩn trong ta, để ngày một trở nên tinh
tế, ngày một trở nên sống động, khinh khoát,
từ ái, khoan ḥa, bao dung, quảng đại, và không bao
giờ được đóng khung chúng ta vào một vai tṛ
nào, một hoàn cảnh nào. Nói
cách khác, khi chúng ta đă cầm tấm bản đồ
luân hồi và giải thoát trong tay, tấm bản đồ
tiến hóa trong tay, chúng ta tha hồ chu du trong vũ
trụ. Tuy nhiên, dẫu ở trong cảnh nào, dù sướng
mấy đi chăng nữa, chúng ta cũng không thể v́
MÊ CẢNH mà quên mục phiêu tối hậu của chúng
ta, đó là HỢP NHẤT VỚI BẢN THỂ VŨ
TRỤ BẤT BIẾN, TRƯỜNG TỒN, VÔ NGĂ, VÔ PHƯƠNG
SỞ nhưng VÔ SỞ BẤT TẠI. Chúng ta
phải luôn luôn tâm niệm rằng bao lâu chúng ta c̣n
sống xa ĺa Đại Thể, bấy lâu chúng ta c̣n LUÂN
HỒI. Bao lâu chúng
ta c̣n ở trong ṿng h́nh, danh, sắc tướng, bấy lâu
chúng ta c̣n luân hồi. Mà đối với các nhà
thấu thị Á Đông, th́ dẫu là đă vào hàng thượng
tiên, thượng thánh, nếu chưa Hợp Nhất
với Đại Ngă, với Bản Thể, th́ cũng
vẫn là c̣n ở trong ṿng luân hồi... Bao lâu c̣n
sống trong ṿng Âm Dương đối đăi, trong ṿng
không gian thời gian, bấy lâu c̣n luân hồi. Trong khi ghi
lại những tư tưởng của tôi đă có
từ khoảng 1960, đồng thời trong những ngày
gần đây đọc thêm ít sách nói về LUÂN
HỒI, tôi thấy những tư tưởng của tôi
kể trên, như đă được đồng
vọng lại khắp nơi trên thế giới. Đó cũng
là một sự yên ủi hết sức lớn lao. Ví dụ,
sách Zohar, một kỳ thư bí điển của mật
tông Kabbalah Do Thái đă nhận định về LUÂN
HỒI như sau: Mọi linh
hồn đều phải trở về với Bản
thể Tuyệt đối mà từ đó chúng đă phát
sinh. Muốn đạt mục
tiêu đó, chúng phải triển dương, phải
thực hiện được sự hoàn thiện mà
mầm mộng đă được cấy sẵn trong chúng.
Nếu chúng không thực hiện được trạng
thái trên trong kiếp này, th́ phải bắt đầu
một kiếp khác, hay kiếp khác nữa, cứ như
thế cho đến khi thực hiện được t́nh
trạng HỢP NHẤT VỚI THIÊN CHÚA. 8 Nhà
thần học Thiên Chúa Giáo Paul Tillich chẳng hạn cũng
đă bàn về Luân Hồi, Niết Bàn như sau: Niết Bàn
tượng trưng cho đời sống vĩnh cửu, và
một đời sống tuyệt đối viên măn,
chứ không phải là một sự chết chóc, hủy
diệt, hư vô. Đời
sống Niết Bàn siêu xuất lên trên mọi phân
biệt nhĩ, ngă; chủ, khách; nó là mọi sự v́ không
nhất định là cái ǵ... Nhưng
muốn đạt tới Niết Bàn, cần phải kinh
qua nhiều kiếp. Những kiếp này luân phiên nối
tiếp nhau trên triền thời gian, và cũng có pha phách
khổ đau, được coi như là những sự
trừng phạt. Sau
khi đă thoát được hết các kiếp sống
lệ thuộc vào thời gian, đời sống vĩnh
cửu mới bắt đầu. Cá thể siêu thăng thành
Toàn thể. Một sự tái hồi NGUYÊN CĂN đă
xảy ra...9 Ông Huston
Smith cũng nhận định về Luân Hồi và
Giải Thoát một cách hết sức sâu sắc như
sau: Chữ
“Personality” (“cái tôi”) là do chữ la tinh Persona (mặt
nạ) mà ra. Người
kịch sĩ đeo mặt nạ để bước vào
sân khấu tŕnh diễn vai tṛ ḿnh đóng. Mặt nạ
hóa trang như để nói lên cái vai tṛ diễn xuất,
c̣n người thủ vai th́ ẩn bên trong, như kẻ
vô danh. Cái mặt nạ hóa trang ấy chính là “cái ta”,
“cái tôi” ta xưng khi đang đạo diễn vai tṛ nào
đó trong tấn kịch vĩ đại của cuộc
sống con người. Nhưng
khổ nỗi là chúng ta đă quên mất không phân
biệt Con Người Thực của chúng ta với
những “cái tôi giả tạo” ta mang để đóng
tṛ. Những cái tôi giả tạo ấy, như xống áo,
sẽ được cởi ra khi đóng xong vở
tuồng. Chúng
ta đă bị hoàn toàn mê hoặc bởi cuộc sống
hiện tiền, mà quên hết những vai tṛ đă đóng
trong các văng kiếp, cũng như không ngờ được
những vai tṛ sẽ đóng trong các lai sinh. Chúng ta có
bổn phận phải sửa lại sự sai lầm
đó. Con người phải biết hồi quang quán
chiếu để nh́n thấu qua, và tiêu hủy vô số
những lớp lang của các “cái tôi”, các mặt
nạ hóa trang tạm bợ, để rốt cuộc t́m
lại được “con người chân thực, vô
danh, rốt ráo” ẩn nấp đàng sau. Trong
chuyến lữ hành ấy, con người không bao giờ
cô đơn, và lạc lơng. Từ trước đến
sau, từ đầu đến cuối, Atman, cái Chân tâm,
cái Cốt Lơi con người ấy, cái Thực Thể duy
nhất ấy, lúc nào cũng như là một điểm
Linh quang ẩn áo trong tâm khảm con người, đồng
thời lại cũng vô biên, vô tận như một
bầu trời vô hạn, bất khả phân và tuyệt
đối. 10 Đă
từ lâu tôi coi Luân Hồi, Giải Thoát như là một
hệ luận tất nhiên của Thuyết “Thiên Địa
vạn vật đồng nhất thể”, với chủ
trương “Nhất tán vạn, vạn qui Nhất”, mà
trong ṿng mấy chục năm nay tôi đă cố công tŕnh
bày, và khai triển. Tôi cũng cho rằng học thuyết
“Thiên địa vạn vật đồng nhất
thể” này là chủ trương chính yếu của thánh
hiền kim cổ, th́ Joseph Head và S. L. Cranston trong quyển
Reincarnation The Phoenix Fire Mystery, sau khi tổng hợp lại các
mật giáo đông, tây, kim cổ, đă viết nơi các
trang 502, 503, đại khái như sau: Mật tông,
mật giáo, và ngay cả Kabala cũng chủ trương
như Ấn giáo, Phật giáo rằng từ muôn thủa có
một Bản Thể vô h́nh danh, bất khả tư
nghị, hằng cửu, nhưng có hai bề động tĩnh
thường xuyên đắp đổi. Đạo sĩ
Manu gọi đó là “ngày” và “đêm” của Brahmâ.
Brahmâ như thể có thức có ngủ. Khi động,
khi bắt đầu thời kỳ phóng phát, triển dương,
th́ từ ḷng sâu Nguyên Thể thần linh đó, tung
tỏa ra những huyền năng, huyền lực vô biên.
Những huyền năng đó được thi triển,
và tác động trên nhau, theo những định luật
vĩnh cửu để cuối cùng sinh ra cái vũ
trụ h́nh tướng này. Cũng như
vậy, khi đến thời kỳ tĩnh, th́ Nguyên
thể Thần Linh đó, như co lại, như thu
hấp lại, và tất cả những ǵ là vũ
trụ hữu h́nh, hữu tướng này, dần dà
sẽ tan biến đi, hóa giải hết đi, và thu hút
lại vào ḷng Nguyên Thể. Lúc ấy,
vũ trụ tưởng chừng như lại hoang vu, mù
mịt... Nếu dùng
hai chữ Hô Hấp mà mô tả sự Thành, Trụ,
Hoại, Không kể trên, th́ Hô (thở ra) là sinh ra vũ
trụ quần sinh; mà Hấp (hít vào) là thu nhiếp vũ
trụ quần sinh trở về lại ḷng Bản
thể. Tiến tŕnh
này đă có như vậy từ thủa đời đời;
vũ trụ hữu h́nh hiện nay chẳng qua là như
một mắt xích trong cái giây xích vô biên tận ấy. 11 C.-Tới
đây tôi muốn nhấn mạnh thêm rằng tuy Đông
và Tây hiện nay đă xích gần lại với nhau trong
vấn đề luân hồi, nhưng Âu Mỹ hiện nay
chỉ hiểu luân hồi là TÁI
SINH (REINCARNATION), c̣n Âu Châu hiểu chữ Luân Hồi
bao quát hơn. Đối với người Á Đông, con
người chết đi không cứ là sẽ đầu
thai lại làm người, mà tùy nghi có thể thành Tiên,
thành Thần, hay có thể làm loài vật, làm ma quỉ.
Khảo kỹ tín ngưỡng dân gian, ta thấy con người
sau khi chết không cứ sẽ tái sinh lại nơi
hạ giới, mà c̣n có thể lên trung giới, thượng
giới. Tất
cả các kiếp trên tuy có thể lâu mau khác nhau, nhưng
không có ǵ là vĩnh cửu. Cho nên Tiên
Thánh cũng có thể GIÁNG TRẦN hay GIÁNG PHÀM. Danh nhân,
danh sĩ có thể có TIỀN THÂN, HẬU KIẾP. Tục
truyền Lưu Bá Ôn là hậu thân của Gia Cát Lượng. Người
thường có thể đi ĐẦU THAI. Sâu bọ
có thể LÊN LÀM NGƯỜI. Con người
có thể đọa xuống kiếp vật: Làm thân trâu
ngựa đền ngh́ trúc mai... Từ
kiếp dưới lên kiếp trên gọi là THOÁT
KIẾP. Từ
kiếp trên xuống kiếp dưới là bị Đọa
hay bị Trích. V́ thế có chữ TRÍCH TIÊN. Từ
kiếp này sang kiếp khác gọi là Hóa Kiếp, hay
Chuyển Kiếp (Transmigration). Ngay đức
Vishnu trong các tiền kiếp cũng có những kiếp
vật, như kiếp voi, kiếp cá, kiếp rùa. Người
Ấn Độ tả lại những chuyện ấy không
hề có một mặc cảm ǵ. Những
từ ngữ tôi vừa dùng đó là những từ
ngữ của dân gian, chứ không phải là của tôi
tạo ra. Tôi vẫn
mường tưởng như là muôn loài được
xếp loại như sau: 1.- Theo
tỉ trọng (density), càng khinh thanh th́ càng đi lên trên,
càng trọng trọc th́ càng sa xuống thấp. Khinh thanh th́
dễ cảm xúc, th́ “nhạy cảm”; trọng trọc
th́ cứng rắn, khó lay ḷng.
Tục ngữ có câu:
Quân tử ư hữ th́ đau,
Tiểu nhân vác đá đánh đầu như không. 2.- Theo tŕnh
độ phát quang và tùy theo màu sắc. Càng trong sáng th́ càng
lên trên, càng mờ đục th́ càng sa xuống thấp. 3.- Tùy theo
“năng lực”, tức là tùy theo tŕnh độ
mạnh yếu của cá thể, tùy theo những khả năng,
những tài năng sẵn có của cá thể. Chữ năng
lực này cũng có thể hiểu là ĐỨC, là ÂM
ĐỨC. Âu Châu gọi đó là: vertu, hay virtue, hay virtus.
Tất cả đều hàm nghĩa là 'năng lực', là
'khả năng'. 4.- Theo
bản chất. Nguyên chất là Tinh, tạp chất là Thô.
Nhất là Tinh; Vạn hay Đa Tạp, Bác Tạp là Thô. Cho nên
đạo Nho dạy TINH, NHẤT; Bà La Môn, Phật dạy
Bất Nhị Pháp Môn. 5.- Theo
vị trí có được trong ṿng Đại Chu Thiên. Càng
Tinh th́ càng gần tâm điểm, càng Tạp th́ càng xa Tâm. Vào
được Tâm là Giải thoát. Đạo
Trung Dung tức là đạo dạy con người trở
lại được với TRUNG TÂM HẰNG CỬU. 6.- Tóm
lại TRUNG, TINH, NHẤT tượng trưng cho Hoàn
Thiện, cho Lư tưởng. Bác tạp, ô trược là
khiếm khuyết. 7.- Theo hành
động. Lành là những ǵ làm ơn ích cho mọi loài;
dữ là cái ǵ gây họa hại cho mọi loài. 8.- Tùy theo
Mê và Ngộ. Mê là ở trong Phân Biệt, nghĩ ḿnh tách
rời Đại thể và quần sinh vũ trụ.
Ngộ là đă có được cái nh́n VÔ PHÂN BIỆT:
Ta và trời đất
cùng sinh,
Ta và muôn vật
sự t́nh chẳng hai.
(Trang tử, Nam Hoa
Kinh, Tề vật luận). 9.- Chỉ
có cái hồn biến thiên -cái tiểu ngă- là đi đầu
thai, hay chuyển kiếp. - Cái xác
sẽ tan rữa sau khi hồn ĺa xác, v́ nó là “tứ
đại giả hợp”. Thành
phần đất, nước, gió (khí), lửa, sẽ tùy
nghi, tùy duyên mà nhập vào đất đai, vào cây
cối, vào muông thú, vào con người, và như vậy
vẫn luôn luôn đóng góp vào tấn kịch đời
thường nhật diễn ra triền miên, bất
tận. - Đại
Ngă, hay Thần thiêng, thời siêu xuất Luân Hồi. Tất
cả những yếu tố trên là những tiêu chuẩn
có thể dùng để hiểu biết về luân hồi
và giải thoát. Để
kết thúc chương này, tôi mượn lời thơ
Les Contemplations của Victor Hugo:
Ḱa sinh khí chứa
chan lai láng,
Rung lá cành, làm sáng
cỏ hoa.
Tung hoành từ đá
đến hoa,
Lại từ
thảo mộc chuyển qua muông cầm.
Từ nham thạch
chuyển dần tới bạn,
Có lẽ đâu tiêu
tán nơi người.
Không, không, sinh khí chơi vơi,
Đường mây
ai cản, đường trời ai ngăn?
Sức vô địch
băng băng hướng thượng,
Tiến sâu vào vô lượng
vô h́nh.
Làm cho tràn ngập thái
thanh,
Một trời sáng
quắc, treo tranh non bồng.
Sán lạn với muôn
thần, vạn thánh,
Ánh hào quang tạo
cảnh dao tŕ.
Thần linh sánh
với tiên tri,
Thiên thần rực
rỡ quang huy trong ngoài.
Sinh khí ấy láng lai
vô tận,
Bắc thang sao, muôn dặm thiên thai.
Từ nơi ngạ
quỉ, tuyền đài,
Tung lên cho tới muôn
loài thần tiên.
Thấp với cao, tương
liên kết giải,
Muôn thánh thần
chắp nối duyên tơ.
Băng qua muôn
triệu cơi bờ,
Nối liền sao sáng, cùng là trời mây.
Cao với thấp
đó đây ở hết,
Từ biên khu tới miết trung tâm.
Băng chừng muôn
dặm muôn tầm, Rồi ra biến dạng vào tâm khảm Trời...
1 Joseph Head & S. L. Cranston, Reincarnation, The Phoenix Fire Mystery, Julian Press, New York, 1977, p. 436. 2 cf. libro
citato, tr. 193. 3
In the article “Buddhism Teaches Rebirth,” Humphreys relates that Mrs.
Rhys Davids, in her day the leading Pali scholar in the West, once made a
list of “ten things which Gotama the Buddha will not have taught.” The first
is “that the man, the very man: self, spirit, soul, purusa is not real.”
Mrs. Rhys Davids, a life student of Theravada Buddhism - the very school that
lay so much stress on no-soul idea - adds that in reality Buddha “begins his
mission by advising men to seek thoroughly for the Atma, and ended by bidding
men lives as having Atma for their lamp and refugee. The Buddha concern, she
said, was with a Wayfarer upon the Way. “How to wayfare from this to That;
here was life's problem.” And this was a long journey... Mr. Humphreys
asks:<?xml:namespace prefix = o /> Are
there, then, two types of self in the Pali Canon? Miss ỊB. Horner, a pupil
of Mrs. Rhys Davids and the present President of the Pali Text Society, shows
that this is so. In a famous article reprinted in The Middle Way ( Vol. 27, p.
76), she lists some seventeen passages from the Pali Canon which make this
clear. The “lesser self” and “the greater self” are clearly
distinguished, and the “great self” is described as “a dweller in the
immeasurable.” But the Dhammapada, the most famous text in the Canon, will
itself suffice. “Self is the lord of self. What other lord could there be?”
And again, “Self is the lord of self, and self's bourn,” i.e. the very goal
of all endeavour. If it is possible to lift the Buddha teaching nearer still to
the Hindu original, look at: “The Self in thee knows what is true and what is
false.” Every mystic since the world began would agree. ”If,”
Humphreys continues, “the Buddha, then, taught Atta, as his brilliant
predecessors in the field of Indian thought, what did he say was Not-self,
An-atta? He is quite specific. It is the five skandhas, the constituents of
personality in which there is no permanent Self to be found...But the monks
would not leave this statement alone. Attacking the concept of the Atman as
degraded in the Buddha's day to a thing, the size of a thumb, in the human
heart, they swung too far. 'No self, no self' they cried, and in time produced
the joyless, cramping doctrine as drearily proclaimed today,” especially in
Theravada Buddhism. Elsewhere
Humpreys concedes that the attack of the Theravada monks, or Bhikkus, is
legitimately “directed against the concept of an unchanging individuality, a
separate Self, distinct from the vast totality of Life and its illimitable
forms.” However, he adds, “the Bhikkus ignore the 'Unborn, Unoriginated,
Unformed' of their own Scriptures, as inherent in every manifested thing.”
“Clearly the phenomenal self, whether called ego, shadow, or the evolving
soul, is changing all the time,” but this does not mean “no soul”, no
soul, no self at all.” Libro
citato, tr.63 và 75-76). 4
If you would free yourself of the sufferings of samsara (rebirth), you must
learn the direct way to become a Buddha. This way is no other than the
realization of your own Mind. Now what is this Mind? It is the true nature of
all sentient beings, that which existed before our parents were born and hence
before our own birth, and which presently exists, unchangable and eternal. So it
is called one's Face before one's parents were born... When we are born it is
not newly created, and when we die, it does not perish. It has no distinction of
male and female, not has it any coloration of good and bad. It cannot be
compared with anything, so it is called Buddha-nature. (Xem sách trích
dẫn, tr. 89). 5
The knower is never born nor dies, nor is it from anhywhere, nor did it
become anything. Unborn, eternal, immemorial, this ancient is not
slain, when the body is slain...Smaller than small, greater than great, this
Self is hidden in the heart of man...In all beings it shines not forth; but it
is perceived by the piercing subtle soul of the subtle-sighted...Understanding
this great Lord the Self, bodiless in bodies, stable among unstable, the wise
man cannot grieve... He is released from the mouth of Death, having gained the
lasting thing which is above the great, which has neither sound nor touch nor
form nor change nor taste nor smell, but is eternal,, beginninless, endless. Cf.libro
citato, p. 40.- cf. Katha Upanishad,
dialogue between Nichiketas and Death. 6
Nichiketas thus having received the knowledge declared by the Death, and the
whole law of union, became a passionless dweller in the Eternal, and Deathless;
and so may another who thus knows the union with the Self.(Cf. sách đă trích
dẫn, tr. 41). ...Two
syllables are death; three syllables the eternal Brahma. “Mine” (Mana) is
death, and “not mine” (na mana) is the eternal... Ib.
p. 50. 7
When I was a boy, the thought of Heaven used to frighten me more than the
thought of Hell. I pictured Heaven as a place where there would be perpetual
Sundays with perpetual services, from which there would be no escape, as the
Almighty, assisted by cohorts of angels, would always be on the look-out for
those who did not attend. It was a horrible nightmare. The conventional Heaven
with its angels perpepually singing, etc... nearly drove me mad in my youth and
made me an atheist for ten years. My opinion is that we should be
reincarnated... and that hereafter we shall suffer or benefit in accordance with
what we have done in this world. For example, the employer who sweats his
workpeople will be condemned to be sweated himself.... (Libro
citato, p.354). 7.
The souls must re-enter the absolute substance whence they have emerged.
But to accomplish this end they must develop all the perfections, the germ of
which is planted in them: and if they have not fulfilled this condition during
one life, they must commence another, a third, and so forth, until they have
acquired the condition which fits them for reunion with God. 8. (Libro
citato, p. 131.- Isaac Myer's Qabbalah,
p. 413. (The Zohar ii, 99b, Sab-ah D'Mishpatim, Brody edition, Cremena
edition, ii. fol. 45a, col. 177-78). Joeph
Head and S.L. Cranston,Reincarnation, The Phoenix Fire Mystery, p. 131. 9.-
The Nirvana as a symbol of eternal indicates the life of absolute fullness, not
the death of absolute nothingness. The life of Nirvana is beyond all distinction
of subject and object; it is everything because it is nothing definite... But
in order to reach this, many reincarnations are necessary. They are
continuations of temporal existence and consist of punishment and suffering.
Only the end of temporal existence brings full particiption in eternal life. In
it individualization is transcended by participation. A full recession to the
“Ground” has taken place... Libro
citato, p. 523. 10
Our word “personality” comes from the Latin persona which originally meant
the mask an actor donned as he stepped onto the stage to play his role. The mask
carried the make-up of the role, while the actor behind it remains hidden and
anonymous. This mask is precisely what our personalities are - the roles into
which we have been cast for the moment in this greater drama of all, life
itself. The
disturbing fact, however, is that we have lost sight of the distinction between
our true self and the veil of personality that is its present costume, but which
will be laid aside when the play is over. We have come completely under the
fascination of our present lines, unable to remember previous roles or to
anticipate future ones. The task is to correct this false identification.
Turning his awareness inward [man] must pierce and dissolve the innumerable
layers of the manifest personality until, all strata of the mask at length cut
through, he arrives finally at the anonymous actor who stand beneath. Never
during its pilgrimage is the spirit of man completely adrift and alone. From
start to finish its nucleus is the Atman - the self- luminous abiding point,
“boundless as the sky, indivisible, absolute,” the only reality. Ib.
p. 14. 11.-
The esoteric doctrine teaches, like Buddhism and Brahmanism, and even the
Kabala, that one infinite and unkown Essence exists from all eternity, and in
regular and harmonious successions is either passive or active. In the poetical
phraseology of [the Hindu lawgiver] Manu these conditions are called the
“day'and the 'night” of Brahmâ. The latter is either “awake” or
“asleep”...Upon inaugurating an active period an expansion of this Divine
essence, from within outwardly, occurs in obedience to eternal and immutable
law, and the phenomenal or visible universe is the ultimate result of the long
chain of cosmical forces thus progressively set in motion. In like manner, when
the passive condition is resumed, a contraction of the Divine essence takes
place, and the previous work of creation is gradually and progressively undone.
The visible universe becomes desintegrated, its material dispersed; and
“darkness,” solitary and alone, broods once more over the face of the
“deep.” To use a metaphor which will convey the idea still more clearly, an
outbreathing of the “unknown essence” produces the world; and an inhalation
causes it to disappear. This process has been going on from the eternity, and
our present universe is but one of an infinite series which had no beginning and
will have no end. Ib.
pp. 502-503. |
Thiên-Lư Bửu-Ṭa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674 Website: www.thienlybuutoa.org Email Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT
|