Trở lại trang chánh của Website Thiên Lư Bửu Ṭa
|
THIÊN NHĂN VÀ THƯỢNG ĐẾ Thiên Nhăn được dùng để chỉ Thượng Đế trong Cao Đài, trong Tam Điểm, trong đồng 1$ Dollar Mỹ. Cao Đài
chọn Thiên Nhăn làm
biểu tượng cho Đạo CAO ĐÀI, tại Phú
Quốc vào năm 1921. Thượng
Đế là Thần trong chúng ta. Trong ta gồm có hồn xác.Trong
ta có đủ Tam Tài: Thần (Thượng Đế),
Hồn (Tiểu Ngă, Giả Ngă, Vọng Ngă), Xác Như
vậy thay v́ coi Thượng Đế là một nhân
vật ngoại tại, ta hăy coi Ngài là Chính Chúng ta. Ngài
thường xuyên hoạt động trong mỗi người
chúng ta, cuộc đời ta cốt là thực hiện Chân
Thiện Mỹ, thực hiện Ngài. Đời
xưa người ta thường nghĩ Thượng
Đế là 1 nhân vật QUYỀN UY, nhưng khác ta, và
ở ngoài ta, và xét nét mọi công việc ta làm để
thưởng phạt, Ngài như
một Ông vua tuyệt đối c̣n chúng ta là
thần dân tùy quyền Ngài thưởng phạt. Ngày nay ta
gọi Ngài là Đại Linh Quang, chúng ta là Tiểu Linh
Quang, Ngài với ta là Một. Ngài nói: :”Thầy là các
Con, các Con là Thầy”(Thánh Giáo Sưu Tập, 70- 71, tr.
134). Lại nói:
” Con là Một Thiêng Liêng tại thế,
Cùng với Thầy đồng thể linh Quang.
Khóa ch́a Con đă sẵn sàng,
Khi vào cơi tục, khi sang Thiên Đ́nh. “ (Thánh Giáo
Sưu tập 66- 67, tr. 36) Ngài
nhận là Ngài ở trong Ta. Thánh Giáo Sưu
Tập 68- 69 nơi trang 5 viết:” Bao nhiêu huyền bí,
thiêng liêng, nhiệm mầu siêu việt, nhưng ch́a khóa
mở, Đức Chí Tôn đă
đặt trong chỗ cao nhất của mọi người,
hăy t́m lấy và mở lấy hỡi chư Hiền.” Như
vậy, chỗ cao nhất trong con người là nơi
đâu? Thưa là
Nê Hoàn Cung, là Năo thất 3, ờ tâm điểm đầu
năo con người. Cửa Trời ở đấy, Thiên
Nhăn ở đấy, Thiên Thai ở đấy. Đại
Thừa Chân Giáo nơi trang 62 viết: “Huyền
Quan nhất Khiếu là chi? Là Thiên Nhăn Vậy. Nó ở
ngay Nê Hoàn Cung gồm trọn chân dương chánh Đạo...” Nơi tr.
56 lại viết: Chữ
Cao Đài là ǵ? Là Côn Lôn đỉnh hay Nê hoàn thuộc
vể Thượng Giới... Thiên môn là cái ǵ? Là Cái
Khiếu Nê Hoàn Cung đó. Chừng
nào linh hồn phá Thiên Môn đặng là nhập vào Thượng
Thanh Cung.” Theo Cao
Đài , tu hành có mục đích thành Tiên, thành Phật,
thành Trời: “Tu Hành
là học làm Trời, Phải
đâu kiếp kiếp làm người thế gian”
(TGST 70- 71, TR. 134) Cho nên
Đắc Đạo là: Trở về được
với Điểm Đạo trong con người. “Khi nh́n
qua tất cả vạn vật, h́nh thức vẫn khác
nhau, danh tánh khác nhau, nhưng tựu trung vẫn có 1 Điểm
Đạo.Đó là Thượng đế chí tôn, đó
là Nhân Bản, đó là Thánh, Hiền, Tiên Phật” (TGST
90, TR. 95) Thế là
Đắc Nhất, thế là hợp nhất với Thượng
Đế... Rồi từ cái được nhiều như
vậy, các con nếu biết phương pháp để
đạt tới sự Đắc Nhất, là ch́a khóa
mở cửa Đạo, hiệp với Thầy vậy. Một là
Bản Thể của Vũ trụ, Một là căn do
mọi biến hóa trong vũ trụ, và lúc chung cuộc,
con người lại trở về Một, vạn hữu
lại trở về một. Thuyết Thiên Địa
Vạn Vật Đồng Nhất Thể hay ở chỗ
đó mà đẹp cũng ở chỗ đó (TGST, 70- 71,
TR. 210) Tóm
lại Thiên Nhăn là Một, là căn bản là gốc gác
con người, là lương
Tâm. là Bản Thể là Nhân Bản con người, nên
đức Thượng Đế kêu gọi chúng ta: “Đi
về đâu Việt Nam ơi, Về nơi
Nhân Bản của Trời trước kia” (TGST, 70- 71 tr.
213) Vũ
trụ quan Cao Đài. Vũ trụ quan Cao Đài là thuyết Thiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất Thể: Nhất thể tán vạn thù, Vạn thù qui nhất thể. Bà La Môn,
Phật giáo, Lăo giáo, Khổng giáo, Cao Đài đều
theo học thuyết này. Học thuyết này là Chân Đạo
nội tâm hay con đường hiền thánh muôn thủa
muôn phương. Các Thánh
triết này từ xa xưa đă lan tràn khắp thiên
hạ. Các thánh triết này sau trước đều
chủ trương con người có Bản thể
Trời và có thể trở về sống kết hợp
nhất như với Trời (Union mystique avec Dieu; Mystical
union with God; hay Atonement = At one ment) (Đắc Nhứt) Họ
chủ trương vũ trụ này đă từ một
Đại thể phóng phát, tán phân ra mà thành, (emanation
theory), sẽ biến hóa đa đoan, nhưng lúc chung
cuộc muôn loài lại trở về với Đại
thể trên (Final Apocastatasis). Học
Thuyết này, Âu Châu gọi là the Emanation theory. Á châu
gọi là The Monistic theory, tức là thuyết Nhất
thể tán vạn thù, Vạn thù qui nhất thể. Kinh
Dịch cũng chủ trương như vậy. V́ một
kiếp người không sao đủ để trở
về với Trời, nên các triết gia theo chiều hướng
trên, đều chủ trương con người sẽ tái
sinh. Có điều chắc chắn là các triết gia có chủ trương trên, bất kỳ thuộc đạo giáo nào, đều là những bậc thánh hiền đạo cao, đức cả. Lời họ giảng đều giống nhau. Mạnh tử viết: Tiên thánh, hậu thánh, kỳ quĩ nhất dă. (Mạnh tử, Ly Lâu chương cú hạ, 1) Ramakrishna
viết: Thánh hiền sau trước đều có
những lời giảng dạy như nhau. (Tous
les sages ont un enseignement unique. L'enseignement de Ramakrishna, p. 256) Thuyết này
xưa nay ở âu Châu rất ít người bàn căi
tới và thường coi đó là tà đạo. Các Đạo
giáo công truyền ở Âu Châu theo thuyết Sáng Tạo (Do
Thái Giáo, Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo). Trái lại, các đạo
giáo lớn Á Châu như Bà La Môn, Phật, Lăo, Khổng,
Cao Đài đều theo thuyết Thiên địa
vạn vật đồng nhất thể. Sau đây
là bản tóm lược 2 thuyết trên: A.
Thuyết Thiên địa Vạn vật nhất thể (The
monistic theory). 1/ Vũ
trụ hữu h́nh này là những phân thể của
một Toàn Thể, đă được phóng phát, tán phân
ra, những Tiểu Linh Quang phát ra từ một Đại
Linh Quang. 2/ Như
vậy, vạn hữu đồng căn, dị dạng,
nhất thể vạn thù. 3/ Thượng
Đế tiềm ẩn trong ḷng quần sinh, vũ
trụ. 4/ Giác
ngộ là biết rằng ḿnh có bản thể Thượng
Đế, có tính Trời. 5/ T́m
Trời, t́m Đạo phải t́m trong ḷng, phải đi
vào nội tâm. 6/ Lúc chung
cuộc vạn vật sẽ siêu thăng, trở về
với Thượng Đế. Như vậy, chung cuộc
là ḥa hợp. 7/ Vũ
trụ, lịch sử chuyển hóa 2 chiều, văng lai,
thuận nghịch, thành một chu kỳ. (Cyclical Conception of
History) B.
Thuyết Sáng Tạo (Creationism) 1/ Vũ
Trụ hữu h́nh này là do quyền năng của Thượng
đế sáng tạo ra từ Không. 2/ Vạn
hữu dị thể, dị dạng, và hoàn toàn khác nhau
từ căn cốt. 3/ Thượng
Đế siêu việt và tách ra khỏi vạn hữu. 4/ Mặc
khải là tin theo giáo hội rằng Thượng đế
là đầu và cùng sau hết mọi sự. 5/ T́m
Trời, t́m Đạo phải t́m trong nhà thờ, nhà thánh
và qua các phép Bí Tích. 6/ Chung
cuộc là phán xét, và tan vỡ kinh hoàng (Tận thế). 7/ Lịch
sử, vũ trụ và con người biến hóa một
chiều theo đường thẳng (Linear Conception of
History). Sánh 2
triết thuyết trên, tôi thấy thuyết Thiên Địa
Vạn Vật đồng nhất thể mới đích
thực là thứ Triết học bất biến vĩnh
cửu của nhân quần (Philosophia perennis: Perennial
Philosophy). Và tôi không sao chấp nhận được
thuyết Sáng Tạo, v́ thấy nó chẳng ra đầu
ra đuôi ǵ. Như vậy sao gọi là Triết Học
được? (Xem Nguyễn Văn Thọ, Thiên Địa
vạn vật nhất thể, tr. 63- 87) Vương
Dương Minh (1472- 1528) Vương
dương Minh (1472-1528) là một vị thánh nhân của
Đạo Nho, ông sống vào thời nhà Minh, đời
vua Vơ Tông, đỗ tiến sĩ năm 28 tuổi. Từ bé
ông đă muốn trở thành thánh hiền. ông văn vơ
toàn tài. Văn th́ làm đến Tổng Đốc Lưỡng
Quảng. Vơ th́ bất kỳ cuộc phản loạn nào,
hay giặc giă nào thời bấy giờ là do một tay ông
b́nh định. Ông tài giỏi như thế, nhưng không
gặp được minh quân lại c̣n bị nhiều người
ghen tài, xui vua hại ông. Chính v́ vậy mà năm ông 35
tuổi đă bị đày đi Long Trường mấy
năm trời. Nhân khi
ở Long Trường, ông mới được giác
ngộ, và t́m ra con đường nên thánh hiền là
phải đi vào tâm mà t́m đạo, t́m Trời, và
phải lấy Lương Tâm làm ngọn đuốc soi
đường. Ông cho
rằng cái đạo thánh nhân đă đủ cả
trong Tính con người. Ông đi t́m cái Nhất, cái
Tinh trong tâm hồn. Nhất
là cội gốc con người. Tinh là đạt đích
con người. OÂng
nói: Tâm tức là Đạo, Đạo tức là
Trời, biết Tâm th́ biết Đạo, biết
Trời. Vậy nên, cái công
phu sự học, cốt là làm sáng cái tâm. Có người
hỏi Vương Dương Minh : đạo Nho với
đạo Phật khác nhau thế nào? Ông đáp: không nên
t́m cái đồng, cái dị của đạo Nho, đạo,
Phật, t́m cái Phải mà học là được
vậy. Vương
dương Minh gọi Thiên Lư là Lương Tri, và dạy
người khử nhân dục, tồn thiên lư. Lương
Tri th́ kẻ hiền, người ngu ai cũng có như
nhau, chỉ khác là người hiền th́ lương tri sáng
suốt, mà kẻ ngu th́ để nó mờ tối đi mà
thôi. Vương
dương Minh thủy chung theo cái thuyết “Thiên địa
vạn vật nhất thể”, và lấy cái nghĩa
“Nhất dĩ quán chi” của Khổng tử làm căn
bản cho sự học của ḿnh. Như vậy, ông cũng
như Lục Tượng Sơn chủ ở cái lư
nhất quán trong tâm. Cái lư nhất quán đó là Thái
cực, là Bản Thể con người, là Chánh Pháp Nhăn
Tàng của Phật. Nhất dĩ quán chi là lấy cái
Một mà suốt hết cả, đó chính là Trí Lương
Tri của Vương Dương Minh. Vương
Dương Minh có làm một số bài thơ về Lương
Tâm như sau:
1-. Lương tri tức
thị độc tri th́,
Thử chi chi ngoại, cánh vô tri.
Thùy nhân bất hữu Lương Tri tại.
Tri đắc Lương Tri khước thị thùy.
Lương tri thấy được, lúc độc
tri,
Ngoài biết ấy ra, há biết ǵ.
Ai ai cũng có Lương Tri sẵn, Hồ dễ mấy ai biết Lương Tri.
2-. Cá cá nhân tâm hữu
Trọng Ni,
Tự tương văn kiến khổ già mê.
Nhi kim chỉ dữ chân đầu diện,
Chỉ thị Lương Tri, cánh mạc nghi.
Trong tâm ai cũng có Trọng Ni,
Kiến văn trùm lấp, mới u mê.
Nay ta đem chỉ chân đầu diện, Chính thực Lương Tri chớ khá nghi.
3-. Vấn quân hà sự
nhật đồng đồng,
Phiền năo trường trung thố dụng công.
Mạc đạo thánh nhân vô khẩu quyết,
Lương tri lưỡng tự, thị Tham Đồng.
Sao anh suốt buổi chạy Tây Đông?
Trong ṿng phiền năo, uổng dụng công.
Đừng nói Thánh Môn không khẩu quyết,
Lương tri hai chữ, ấy Tham Đồng. (Hai chữ Lương Tri có giá trị như bộ sách Tham Đồng Khế của Đạo Lăo).
4-. Nhân nhân tự
hữu định bàn châm,
Vạn hóa căn nguyên bản tại tâm.
Khước tiếu ṭng tiền điên đảo
kiến,
Chi chi, diệp diệp, ngoại đầu tầm.
Trong ta ai cũng sẵn nam châm,
Căn nguyên vạn hóa sẵn tại tâm.
Nực cười ta trước nh́n lộn ngược, Ngoại cảnh chi li, vất vả tầm.
5-. Vô thanh vô xứ độc
tri th́,
Thử thị Kiền Khôn, vạn hóa ki,
Phao khứớc tự gia vô tận tạng,
Diên môn tŕ bát, hiệu bần nhi.
Vô thanh vô xú lúc độc tri,
Ấy thực Kiền Khôn, vạn hóa ki.
Vứt bỏ của nhà kho vô tận,
Từng cửa ăn xin, thực thảm thê.24 Như
vậy, Lương Tri là Phật tánh, là Chân Tâm. Nhân
dục là Vọng tâm. Ta nói trong ta có Phật Tính, mà không
biết làm cách nào để nh́n thấy Phật tính.
Vậy nếu Lương tâm ta là Phật tính, mà ta
lại thấy được Phật tính, tức là
Kiến Tính thành Phật. Đó cũng là cách giúp ta
Kiến tính thành Phật. Lương tri cũng chính là cái
gốc của vạn vật, và là Thiên Lư. Tôi từ
nhiều năm nay vẫn chủ trương Lương
tri là Thái Cực, Lương tri là Phật tính, là Chân Tâm,
và là quyển Thánh Kinh mà Trời đă cất giấu
trong ḷng con người từ muôn thủa. Cho nên nếu
ta sống theo Lương Tâm, tức là sống theo
Phật, theo Khổng, theo Lăo, theo Bà La Môn, theo vạn giáo.
Chắc chắn là như vậy. Theo tôi, Lương
tâm là Tâm Lành, th́ không thể sai. Lương Tâm là Thiên
Tâm, do Trời sinh, không phải là nhân tạo. Khảo
từ ngữ các nước, ta thấy nước nào cũng
phân biệt Nhân Tâm với Lương tâm. Ta có
thể viết: Thần
= Lương tâm. Hồn
= Nhân tâm. Như
vậy, Thần Thiên, phần Thần nơi chúng ta là Lương
tâm phổ quát, vĩnh cửu. C̣n phần Nhân nơi ta là
Nhân Tâm, biến thiên, hữu hạn. Lương
tâm thời phi nhân, phi ngă. Nhân tâm thời mang sắc thái
riêng tư của mỗi người. Nó là những
bộ mặt hóa trang mà mỗi người chúng ta đeo
lên trên Lương Tâm - trên Bản Lai diện mục -
của chúng ta. Khi ta làm ǵ
xấu, th́ Lương tâm ta oán trách ta. C̣n tâm
hồn ta th́ xấu hổ, phàn nàn, hối hận. Chứng
tỏ, Lương tâm ta cao hơn ta. Lương
tâm hay Chân Ngă hay Thượng đế nội tại, và
Phàm tâm là tâm hồn con người, liên lạc với
nhau hết sức là gắn bó, đến nỗi không
thể nào gỡ ra được, rứt ra được. Ngày nay,
nhiều môn phái Tin Lành như Transcendentalists, Anabaptists,
Quakers và Liberal Theology đều đồng thanh chủ trương
Thượng đế ngự trong ḷng chúng sinh và muôn
vật. Emerson cho rằng : Mặc khải cao siêu nhất
cho thấy rằng Thượng đế đă ngự
sẵn trong ḷng mọi người. (Emerson thought that the
highest revelation was that God was in every person...) Nếu Lương
Tâm là Bất Biến nơi con người, th́ Lương
tâm chính là Thượng đế nơi con người, là
Phật tính nơi con người. Cho nên, trên
đây tôi đă viết nghe thấy được
Tiếng Lương Tâm là Thấy được Thượng
Đế trong ḿnh, thấy được Phật tính
trong ḿnh. Trên đây,
tôi đề cập đến một số cao nhân, danh sĩ
trong nhiều đạo giáo khác nhau như Pythagoras, Plato,
Plotin, Plotinus, môn phái Neo-Platonism, Eckhart, Ruysbroeck, Bruno, Sankara,
Vivekananda, Đạo Sinh, Vương Dướng Ming v.v...
mục đích là cho thấy Chân đạo không phải
ở đầu thời gian, ở cuối thời gian,
ở giữa thời gian. Chân đạo không ở trong sách
vở. Chân đạo không ở bên Đông, cũng không
ở bên Tây, chân đạo không có quốc gia, cũng như
không có giang sơn bờ cơi. Chân đạo không có ở
trong các đoàn thể, các tổ chức xă hội. Chân
đạo không ở trong đền đài, miếu
mạo, hay ở trong tay những kẻ uy quyền, mà Chân
đạo đă ở ngay trong tâm thần mỗi một
người. Thượng
đế v́ vô biên vô tận, nên chẳng những ở
trên trời, mà c̣n ở khắp nơi trong vũ trụ
bao la này, cũng như đồng thời là Bản Ngă
ẩn sâu sẵn trong ḷng con người. Như
vậy con đường dẫn tới Thượng
đế gần nhất là con đường nội tâm.
Những tâm hồn tinh khiết, thanh cao, những khối
óc thông minh, sáng láng, chẳng chóng, th́ chày sẽ nhận
ra được chân lư tối sơ ấy. Ram Linsson
viết: “Giây liên lạc nối kết ta với Đại
Thể thực đă ở ngay trong tầng sâu các cơ
cấu tâm t́nh ta, ở bên dưới các lớp lang ư
thức sâu xa và thầm kín nhất.” Cho nên các
đạo giáo xưa nay đă bày biện ra muôn vàn h́nh
thức bên ngoài, các thánh thư từ trước tới
nay đă dùng mọi phương cách, đă dài gịng
dạy dỗ con người. Tất cả những cái
đó cũng không ngoài mục đích giúp con người
gạn đục, khơi trong tâm hồn, để có
thể cảm thông với Thượng đế bằng
tâm thần ḿnh, và cuối cùng là thể nhập vào Ngài. Chân lư, Chân
đạo bao giờ cũng giản dị, cũng trong sáng,
cũng vĩnh cửu và phổ quát. Chân lư, Chân đạo
bao giờ cũng đem lại cho con người tự do,
hạnh phúc, y thức như cơm áo bao giờ cũng
đem lại no ấm cho con người. Cho
nên, tất cả những ǵ rắc rối, tần
phiền, tất cả những ǵ thằng thúc, trói
buộc, đè nén con người, tất cả những ǵ
làm con người trở nên ngu si, đần độn,
khổ sở, khốn nạn về tinh thần cũng như
về vật chất, tất cả những ǵ làm tiêu ma
nghị lực con người, làm suy giảm nhân cách con
người, tất cả những cái đó đều không
phải là chân lư, chân đạo. Trên phương
diện thực hành, thái độ chân chính nhất
của một người đạo hạnh chân thực
là không mất th́ giờ chê đạo này, đạo
nọ, mà phải luôn cố gắng tiến bước trên
đường nhân, nẻo đức, tiến tới hoàn
thiện, tinh hoa; luôn cố gắng cho ḷng ḿnh rộng
mở để bao dung, thông cảm với người;
cho ḷng ḿnh rung cảm trước những nỗi đau
thương của đồng loại và ra tay tế độ. Bất
kỳ là chúng ta theo đạo nào, và cho dù đạo
ấy cao siêu mấy đi nữa, nếu mà ḷng chúng ta
vẫn c̣n thô lỗ, c̣n đầy oán hờn, c̣n đầy
ghen ghét, c̣n đầy mưu gian, chước độc,
mà tâm trí chúng ta c̣n hẹp ḥi, c̣n tối tăm, rối
rít, c̣n khổ sở, c̣n đớn hèn; c̣n bị lo âu, c̣n
bị dày ṿ, c̣n trống rỗng và vô vị, th́ thực
thà mà nói, chúng ta vẫn là những con người vô
đạo, hay ít là những ảnh hưởng tốt
đẹp của các đạo giáo chưa có chút tác
động nào trên tâm thần chúng ta. Đạo giáo
mới chỉ là những thời trang phủ trên người
chúng ta những lớp xa hoa, phù phiếm mà thôi. Chúng ta hăy
tỏ ra khoan dung độ lượng, thông cảm
lẫn nhau và đừng để cho màu sắc tôn giáo làm
phai nhạt t́nh huynh đệ, t́nh đồng bào, đồng
chủng. Cái quan
hệ của chúng ta không phải là theo đạo này,
đạo nọ, mà cái quan hệ chính là ở nỗ
lực t́m cầu chân lư, nỗ lực sống theo lư tưởng
ḿnh tin theo. Ramakrishna
viết: “Bất kỳ bạn theo đường nào,
điều quan hệ là phải thành khẩn khao khát chân
lư. Thượng đế
biết rơ những bí ẩn của ḷng bạn, và dẫu
bạn có đi lầm đường cũng không sao,
miễn là bạn thành khẩn, Thượng đế
sẽ đưa bạn về đường ngay, nẻo
chính... Mà có con đường nào thoát lầm lạc
đâu? Ai cũng nghĩ rằng đồng hồ ḿnh
đúng, nhưng kỳ thực chẳng ai có giờ đúng.
Cái đó cũng chẳng ngăn trở công việc.” Vậy chúng
ta hăy nên chịu khó cố gắng t́m hiểu lẫn nhau,
học lấy cái hay của nhau, tránh cái dở cho nhau,
bắt tay nhau cùng xây dựng tương lai, cho trần hoàn
chóng trở thành nơi lạc cảnh. Trên đây
tôi đă đề cập đến nhiều nhân vật
không có liên quan ǵ với nhau, nhưng họ đều là
những người đạo cao đức cả, và
đă từng được thiên hạ tôn sùng. Cái đạo
mà họ theo chính là cái đạo
nội tâm. Họ đều đi vào nội tâm mà
t́m đạo, t́m trời. Họ đều t́m ra
được cái Thái Cực, cái Một tiềm ẩn
trong ḷng con người. Lương Tâm, Lương Tri
họ đều tung tỏa hào quang. Thiên lư, Chân tâm
họ đều hiển lộ ra bên ngoài. Họ là
những người đă đắc Đạo, chứ
không phải là những con người c̣n trên đường
cầu đạo. Đạo mà họ theo chính là Đại
Ngă trong con người họ. Những ǵ thuộc con người
phiến diện nơi họ, những ǵ phù du hư
ảo nơi họ đă tan biến đi, và Chân Lư vĩnh
cửu như vừng dương chiếu soi trong người
họ. Họ đă thực hiện được Chân Ngă,
hay Đại Ngă. Đó chính là cái Chân Lư rốt ráo mà tôi
muốn đem truyền đạt cho mọi người.
Tôi nhớ tới câu trong Kinh Thư :
Nhân tâm duy nguy,
Đạo tâm duy vi,
Duy tinh duy Nhất,
Doăn chấp quyết Trung. Dịch:
Ḷng của Trời siêu vi huyền ảo,
Ḷng con người điên đảo, ngả nghiêng.
Tinh ṛng, chuyên nhất ngày đêm,
Ra công, ra sức giữ nguyên ḷng trời Ḷng
Trời đây, chính là Thiên Mệnh, Thiên Tính, Chánh Pháp
Nhăn tàng hay Bản Lai diện Mục nơi con người.
Ḷng Trời tức là Chân Như Phật Tánh, hay Chân Tâm. Ḷng
con người tức là Vọng Tâm, Vọng Niệm, tư
tâm, tà tâm. Chúng ta chuyển từ Đạo này sang
Đạo nọ, bằng cách hoán chuyển danh từ. Mong
quí vị lănh hội được điều vi diệu
đó. (Nguyễn
Văn Thọ, Vạn Vật đồng Nhất Thể,
tr. 80- 83) |
Thiên-Lư Bửu-Ṭa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674 Website: www.thienlybuutoa.org Email Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT
|