Trở lại trang chánh của Website Thiên Lư Bửu Ṭa

 

(If you cannot view or print Unicode, click here for VNI version)

 

TẬN TH HAY CHUYN TH ?

**********

Thời đại Bảo B́nh (The Aquarian Age).

2044? - 4204?

***

Nhân tử, Nguyễn Văn Thọ      

       Vấn đề nêu trên thực ra là một vấn đề hết sức phức tạp. Tôi lần lượt bàn về các tiết mục sau đây:

       1.- Cái nh́n của Thánh kinh và Thiên Chúa giáo.

       2.- Cái nh́n của các nhà tiên tri.

       3.- Cái nh́n của khoa học.

       4.- Cái nh́n của các triết gia Đông & Tây.

       5.- Cái nh́n của tác giả: Cuộc Chuyển Thế sang Kỷ Nguyên bảo b́nh.

       1.- Cái nh́n của Thánh kinh và Thiên Chúa giáo.

       Nếu chúng ta thành khẩn, th́ thấy đối với Thiên Chúa giáo, Trời đất, con người và vạn hữu mới có khoảng 7000 năm nay và từ khi có Thiên Chúa giáo cho đến nay, không thế kỷ nào mà nhân loại không lo, không sống trong sự hồi hộp mong chờ ngày tận thế.

       Đại khái Thiên Chúa giáo -Công giáo cũng như Tin Lành- tin rằng thế giới này đă được tạo dựng nên khoảng năm 4004 trước kỷ nguyên.

       James Ussher (hay Usher) (1581-1656), Tổng Giám Mục giáo phận Armagh (Ái Nhĩ Lan), dựa vào Sáng Thế kư, cũng như dựa vào bản gia phả Chúa Jesus ghi trong Luke (3:23-38) đă toán ra rằng trời đất đă được tạo dựng nên năm 4004, ngày 23 tháng 10, 9 giờ sáng.

       Bác sĩ Lightfoot ở Cambridge, sống đồng thời với Ussher cũng tính ra rằng Trời đất đă được tạo dựng nên ngày 23 tháng 10, năm 4004, lúc 9 giờ sáng.(1)

       Và từ 1701 về sau, Thánh kinh King James (King James Bible), đă có những thời kỳ hiên ngang in nơi giữa trang đầu sách Sáng Thế kư niên kỷ sau : B.C.4004 (2)

       Về phía Công giáo, quyển Martyrologe Romain, xuất bản theo sắc lệnh Giáo Hoàng Gregory XIII (1572-85), duyệt xét bởi các Giáo Hoàng Urban VIII (1623-1644),và Clement X (1670-1676) và tăng bổ bởi Giáo Hoàng Benedictus XIV (1740-58) vào năm 1749; dịch ra Pháp văn do Dom Albert M Schmitt, tái bản năm 1959,nơi trang 469, nhân dịp lễ Giáng Sinh đă trịnh trọng ghi rằng:

       Chúa Jesus sinh ra đời:

       - 5199 năm sau ngày tạo Thiên lập địa.

       - 2957 sau Hồng Thủy,

       - 2015 sau khi Abraham sinh ra

       - 1510 sau khi Moses đưa dân Do Thái ra khỏi Ai Cập.

       - 1032 sau khi vua David thụ phong

       - 752 sau khi xây thành La Mă,v,v...

        Ở Âu Châu, cách đây vài thế kỷ, bất kỳ một học giả nào muốn bảo toàn danh dự, hoặc muốn có chút tiếng tăm, thời phải lo sao những điều ḿnh quan sát khảo nghiệm phù hợp với Thánh kinh, hoặc với quan niệm truyền thống của giáo quyền, nếu không sẽ bị tai họa.

       Năm 1744, trong quyển lịch sử vạn vật (Histoire Universelle) Buffon chủ trương trái đất đă có khoảng 70,000 năm, thế mà đă bị coi là xúc phạm lớn lao và tác phẩm đă bị giáo quyền cấm lưu hành.

       Khi Darwin chết (1809-1882), người ta vẫn c̣n dạy rằng vũ trụ được tạo dựng 4963 năm trước kỷ nguyên và cuốn Từ điển Larousse xuất bản năm 1882 ghi rằng “đó là niên kỷ duy nhứt được chấp nhận trong các trường”.

       C̣n ngày tận thế th́ ngay Chúa Jesus cũng đă phán quyết rằng sau khi Ngài tử nạn, không bao lâu, Ngài sẽ xuống lại để phán xét thiên hạ và sẽ tận thế.

       Matthiew chép: "V́ chưng con người sẽ đến trong vinh quang của Cha Ngài, với các Thiên Thần của Ngài và bấy giờ Ngài sẽ trả cho mỗi người tùy theo hành vi của họ. Quả thật, Ta bảo các người: trong những kẻ có mặt đây, có người sẽ không nếm biết cái chết trước khi thấy. Con người đến trong Nước của Ngài (Mat.16:27-28)

       Phúc Âm Marc c̣n chép long trọng gấp bội: "Nhưng trong những ngày ấy, sau cơn khốn quẩn ấy, mặt trời sẽ tối sầm, mặt trăng sẽ mất sáng, tinh tú từ Trời sa xuống và các quyền năng trên các tầng Trời bị lay chuyển. Và bấy giờ, người ta sẽ thấy con người đến trong mây với quyền năng cao cả và vinh quang. Và bấy giờ,Ngài sẽ sai các Thiên Thần thâu họp những kẻ được chọn của Ngài từ bốn phương, từ mút cùng mặt đất, đến mút cùng chân Trời...Quả thật Ta bảo các ngươi: thế hệ nầy sẽ không qua, cho đến khi mọi điều ấy xảy đến. Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Ta nói không bao giờ qua đi (Marc 13:24-32).

       Các đại Tông đồ Chúa như Peter,Paul,John đều tin rằng: Tận Thế đến nơi. Thánh thư Peter I,4:7 viết: "Thời cùng tận đă gần rồi cho mọi sự”.

       Thessalonians I cũng cho rằng khi Chúa xuống phán xét, th́ những giáo hữu c̣n sống sót khi ấy, sẽ được đưa lên mây để họp cùng các vị Thánh đă sống lại, để đón mừng Chúa quang lâm (I Thess. 4:13-18) và xin giáo dân giữ Thần, hồn, xác cho vẹn toàn, chờ ngày Chúa tới (I Thess. 5:23).

       Sách Khải Huyền của Thánh John mô tả tận thế như là sự rung chuyển, sự phá tán, sự tan nát của vũ trụ bằng những lời lẽ hết sức văn vẻ:

       ”Khi Ngài mở ấn thứ sáu, th́ xảy có động đất lớn; và mặt Trời hóa đen sẫm như vải dệt bằng tóc huyền và mặt Trăng hoàn toàn ra như máu. Tinh tú trên trời sa xuống như cây vả trút hết quả non, khi bị cuồng phong quây cho lăn lóc. Và trời biến mất đi như quyển sách bị cuộn lại,và núi non cùng hải đảo hết thảy đều bị đánh bật khỏi chỗ, và vua chúa trên đất cùng vương hầu và khanh tướng giàu sang hay quyền thế và nô lệ hay tự do hết thảy đều chui rúc ẩn ḿnh nơi hang hốc và ghềnh đá núi non và họ nói với núi non đá tảng: Hăy sập đè trên chúng tôi và che khuất chúng tôi cho khỏi nhan Đấng ngự trên ngai, cho khỏi thịnh nộ của Chiên Con”.

       Tôi chuyển dịch thành thơ như sau:

                            Mặt trời đen vải tóc huyền,

              Trăng màu ửng máu từ viền vào trong.

                            Sao trời rơi rụng lung tung,

              Như sung,như vả,giữa chừng phong ba.

                            Sơn nham,hải đảo gần xa,

              Xê đi,dịch lại la đà chông chênh.

                            Ṿm trời như giấy như tranh,

              Cuốn đi mất hút,lung linh,bẽ bàng.

                            Công hầu khanh tướng trần gian,

              Sang hèn,t́m hốc,t́m hang rúc càn...

                            Âm thầm van vái núi non,

              Sập đi cho khỏi thấy nhan thánh Ngài...(3)

       Cuốn sách Khải Huyền (22:12) có ghi lời Chúa phán: “Này sự tái lâm của Ta đă sắp tới nơi”.

       Thánh John cũng kết thúc sách Khải Huyền bằng mấy lời sau: "Phải kíp đây, ta sẽ đến!” Amen! Xin hăy đến! Lạy Chúa Jesus!

       Nhưng khổ nỗi mặc cho những lời tiên tri trang trọng, mặc cho sự nóng ḷng trông chờ, thời gian cứ lng lẽ trôi qua và tận thế vẫn chẳng chịu đến.

       Giáo dân đâm ra bất b́nh. Các tông đồ, các người bảo vệ giáo lư đổi giọng.

       Thánh thư Peter II cho rằng: Ai cho rằng tận thế đến nơi là ngu muội, v́ một ngh́n năm trước mắt Thiên Chúa chẳng qua là một ngày (II,Peter,3:8). Thánh thư II Thessalonians đưa ra thêm điều kiện: Quỉ vương phải ra đời trước rồi mới tận thế. (II Thess.) Phúc Âm Matthiew đưa thêm điều kiện: Tin lành phải được giảng rao khắp thiên hạ rồi mới tận thế. (Mat. 24:14) Mà chữ “thiên hạ” cũng rất là mơ hồ. Thời ấy, th́ vùng quanh Địa Trung Hải là Thiên hạ.

       Sau dần dần mới biết có Châu Á, Châu Úc, Châu Mỹ. Thành thử “thời gian” trở nên co giăn, "thiên hạ" trở nên co giăn và một phương tŕnh về thời gian đă được t́m ta:

              gần tới = c̣n lâu.

       Nên nói là “Tận Thế” ngay th́ có thể là “ngay” thật, hay là c̣n lâu, c̣n rất lâu mới xảy ra hay sẽ ứng nghiệm vào trong những năm 2000 sắp tới. Cái ǵ cũng đúng hết...

       Ngày nay, các vị mục sư diễn giảng trên TIVI luôn tấm tắc khen rằng những lời tiên tri xa xưa, nói cho những người thế kỷ I, áp dụng vào bấy giờ lại thấy quá sức là đúng...

       Tận thế sẽ xảy ra trong kinh hoàng: "Các từng trời xèo xèo biến sạch, ngũ hành bốc cháy tiêu tan, đất và các công tŕnh trên đó cũng sẽ tan biến.” (II Peter,3:9-12). Như vậy là hoàn cầu sẽ bị thiêu rụi bằng lửa.

       Phong trào tin “tận thế đến nơi” đă kinh qua nhiều thế kỷ cho măi đến ngày nay:

       -Thời đại các Tông đồ, giáo dân đă chờ tận thế, đến nỗi nhiều người không c̣n chịu làm ăn (Xem II Thessalonians, và Vergilius, An Encyclopedia of Religion, Philosophical Library,1945, nơi chữ Thessalonians,First and Second Letters)

       - Thế kỷ I, có phong trào Montanus. Mọi người thường lên những đồi xứ Phrygia để đợi Chúa đến.

       - Thế kỷ 3, có phong trào Novatian.

       - Thế kỷ 4, có Donatus.

       - Năm 1000, mọi người thật sự tưởng tận thế đến nơi, nên đă ngừng làm ăn hoạt động. Sử gia gọi thời kỳ ấy là “Kinh Hoàng năm 1000”:

       Người ta tưởng sẽ tận thế năm 992 hoặc 995. Thủa ấy có nhựt thực; có một mùa Đông lạnh quá mức, có dịch tể, núi Vesusius phun lửa, các dân Magyar, Norman, aracen đi xâm chiếm, chinh phục khắp nơi, thành thử ai cũng tưởng là sắp thế mạt. Nhiều thành phố dân chúng ra ngoài trời, dựng Thánh giá lên, rồi qú quanh đợi Chúa tới. Nhưng may mà vẫn chưa tận thế (4).

       Sau này c̣n có những nhóm như là: Waldensians (1170), Albigenses (thế kỷ 11-13), Moravian Brethen (1457-), Anabaptists (1521-), Swiss Brethen,v,v...đều tin sắp tận thế.

       Trong những thế kỷ gần đây, người ta quay ra tin chuyển thế, thay v́ tận thế. Chúa sẽ phục lâm để đánh nhau với Satan. Khi Chúa đến sẽ có 144,000 người được chọn lên mây sống cùng Chúa. Sau trận chiến gọi là Armageddon giữa Chúa và Satan, sẽ có 1000 năm an lạc ḥa b́nh dưới quyền cai trị của Chúa Jesus (Revelation 19:11-21.- 20: 1-6). Những người tin chuyển thế và tin rằng Chúa sẽ cai trị ngh́n năm được gọi là Apocalypticists, Millenarianists, hay Chiliasts. Và có lẽ để chuẩn bị tư tưởng, bản kinh Thánh New English Bible, xuất bản năm 1881, đă thêm vào sau câu Mat. 24:8 một đoạn như sau:

       Bản cũ: And these are the beginning of sorrows.

       Bản dịch năm 1881:

       With all these things The Birth Pangs of The New Age Begin. (5)

       Dịch:

       Với tất cả những sự đó, Một thời đại mới chuyển dạ thai sinh.

       Và những người theo chủ trương mới này dựa vào mấy câu sách Khải Huyền sau: Khải Huyền 19:11-21.- 20: 1- 6.

       - Giáo Chủ Cơ Đốc Phục Lâm, William Miller (February 15,1782-1849) tin rằng Chúa tái lâm ngày 21 tháng ba năm 1884. Sau đó lại sửa là ngày 22 tháng 10, 1844. Tuy là đă đoán sai nhiều lần, nhưng giáo phái Cơ Đốc Phục Lâm ngày nay, vẫn tin rằng: Sẽ tận thế không biết lúc nào, v́ thế phải sống cho hẳn hoi...

       Giáo chủ phái Jehovah's Charles Taze Russel (1852-1916) cũng tin rằng Chúa phục lâm năm 1914. Ông tạ thế ngày 31 tháng 10, 1916 mà vẫn chưa thấy Chúa đến... Người lănh đạo giáo phái Chứng Nhân đấng Jehovah kế tiếp là J.F. Rutherford, một cựu thẩm phán thuộc tiểu bang Missouri. Dưới quyền lănh đạo của Rutherford (1869-1942), gia1o phái Chứng Nhân Jehovah càng tin chúa sắp phục lâm, đến nỗi họ đă tạo một căn nhà ở San Diego, gọi là Beth-Sarim,(nhà các Hoàng tử) để đón các vị Tiên Thánh như Abel, Noah, Abraham, Samuel, David, Daniel tái lâm, nhưng sau măi không thấy đại chiến Armaggedon xảy tới, nên họ đă bán căn nhà đó....

       Họ cũng đă soạn sẵn và hát những bài quân hành như sau:

       Up, every soldier on Christ's side enlisted, Aye, gird for the fight!

       Mount Salem's ramparts,fight,shoulder to shoulder,

       With all who lift up the standard of light!

       See,all the nations in tumult assambling,

       Against God's Annointed their rulers are set; Satan,their prince,gives defy to Jehovah,

       Short is his time ere he suffers defeat. (6)

       Dịch:

       Đứng lên chiến sĩ hào hùng,

       Luôn trong tư thế xung phong mới là,

       Salem chiến lũy có ta,

       Kề vai đồng đạo,xông pha chiến trường.

       Ḱa xem bao kẻ bất lương,

       Tính bài chống Chúa, nhiễu nhương bao nài,

       Satan ḱnh chống Chúa Trời!

       Chống Trời,mấy nả mấy hồi sẽ thua!

     2.- Cái nh́n của các Tiên tri.

       Người Âu Mỹ phần đông tin là tận thế sẽ lảng vảng đâu đây vào khoảng những năm 2000 sắp tới. Nhưng khảo kỹ các lời tiên tri, ta chỉ thấy có mấy loại dữ kiện sau:

       1.-Thiên tai như động đất, như giông tố, như núi lửa phun.

       2.-Chiến tranh nhưng không lâu.

       3.-Trái đất chuyển trục.

       4.-Sự suy sụp của các Đạo giáo Công Truyền.

       5.-Chuyển thế thành một thế giới đẹp đẽ hơn.

       Ta sẽ duyệt lại ít nhiều lời tiên tri.

       A.- Trước hết là các lời tiên tri của Giám mục Malachi O'Mogan (1094-1148) (sau này đă được phong thánh) về các Đức Giáo Hoàng từ 1143 cho đến khoảng 2013.

       Mỗi Giáo Hoàng được mô tả bằng vài ba chữ.

       Ví dụ: - De Ruro Albo: Adrian IV (1153-1159) là một người Anh sinh tại St. Albans.

       - Signum Ostiense: Alexander IV (1254-1261): Hồng y tại Ostia.

       - Aquila rapax : Plus VII (1800-1823) bị Napoleo bắt. (Napoleo có thể được coi là con phượng tham mồi).

       - De Balneis Etruria: Gregory XVI (1831-1846), trước khi lên ngôi đă phục vụ ở Balnean, xứ Rtruria.

       - Religio depopulata : Benedict XV (1914-1922). Lúc ấy là thế chiến I, nên “Đạo giáo bị hoang tàn”, v́ rất nhiều giáo dân Âu Châu đă bị giết.

       - Pastor Angelicus : Plus XII (1939-1958), một Giáo Hoàng muốn noi gương Thánh Thomas Aquinas, một vị tiến sĩ Thiên thần (angelcius doctor).

       - Pastor et Nauta: John XXIII (1958-63) người đă chỉ huy và lèo lái Công Đồng Vatican II.

       - Flos florum: Paul VI (1963-78) v́ trên phù hiệu của Ngài có vẽ hoa.

       De Medietate Lunae: Bán Nguyệt: John Paul I. Ngài sống có 34 ngày,sau khi thụ phong (August 26-78- September 28,78).

       De Labore Solis: John II (1978-).

       Sau đó có hai vị Giáo Hoàng nữa: với khẩu hiệu Gloria olivae và Petrus Romanus... Nếu mỗi Giáo Hoàng trị v́ trung b́nh là 10 năm, th́ đến khoảng năm 2015 sẽ không c̣n Giáo Hoàng nào nữa. Nhiều người đoán là lúc ấy Giáo Hội Công Giáo Công Truyền sẽ sụp đổ... Tôi không nghĩ rằng Giáo Hội có thể sụp đổ, nhưng sẽ có những chuyển hướng, chuyển biến, gạn đục khơi trong hết sức quan trọng.

       B.- Ursula Sonthiel (1488-1561), nữ tiên tri người Anh, đă nói tiên tri về các phát minh như tầu ngầm, xe lửa, điện thoại, điện tín, nhưng đă nói rằng tận thế vào năm 1881. Như vậy là sai.

       C.- Nostradamus (1503-1566)- Theo John Hogue, tác giả quyển Nostradamus and The Millennium (A Dolphin Book, Doubleday & Company, Inc, Garden City, New York, 1987), th́ Nostradamus đă có tiên tri rằng khoảng cuối thế kỷ 20 sẽ có những lụt lớn ở Anh, những động đất lớn, dịch tể (AIDS), chiến tranh, Phật Di Lặc giáng trần để cải thiện các Đạo giáo. Từ 2026 đến 3000 sẽ là thời kỳ b́nh yên.

       Đối với Nostradamus, nhân loại c̣n sống qua các thời đại Bảo B́nh (2000-4000), Ma Yết (4000-6000), Nhân Mă (6000-8000).

       Theo các tác giả bộ The People's Almanach, th́ Notradamus đă tiên tri rằng vào khoảng những năm cuối thế kỷ 20, sẽ có trận đại chiến giữa Arập-Trung Hoa một bên và Âu Mỹ một bên. Sẽ có những trận chiến tranh lớn vào năm 1999. Sau đó Âu Mỹ sẽ thắng và từ đó sẽ ḥa b́nh...

       D.-Edgar Cayce (1877-1945) cũng tiên tri rằng vào khoảng cuối thế kỷ 20, Nữu Ước, Âu Châu sẽ ch́m xuống đáy biển; ông sẽ tái sinh năm 1998 để cứu nhân loại,và ḥa b́nh sẽ đến vào khoảng năm 1998.

       Tôi không tŕnh bày thêm các lời tiên tri về những năm 2000. Quí vị nào muốn thu thập tất cả các lời tiên tri lớn nhỏ, xin t́m đọc cuốn The People's Almanach của David Wallechinsky và Irving Wallace, Doubleday Garden City, NEW York, xuất bản năm 1975.

       Thực ra nếu ta khảo tất cả các lời tiên tri từ 1500 đến nay xem có ai dám đoan quyết sẽ tận thế vào khoảng những năm 2000 hay không, th́ thấy một là không ai dám tiên tri rằng có, hai là nếu ai dám tiên tri rằng sẽ tận thế th́ đă hoàn toàn đă bị thực tế cho thấy là đă sai như trường hợp giáo chủ các giáo phái Cơ Đốc Phục Lâm, hay Chứng Nhân Đấng Jehovah (7)

       3.- Cái nh́n của khoa học.

       - Buffon (1707-1788) và Darwin (1809-1882) là những chiến sĩ tiên phong phất ngọn cờ khoa học xô lùi thời gian càng ngày càng về một quá văng xa xôi. Sau này các khoa học gia cho rằng con người đă có từ lâu trước năm 4004 - năm chúa dựng nên con người toán theo Thánh kinh - nên họ đă tạo ra chữ Tiền sử “Prehistory” để chỉ thời gian “tiền khai thiên” ấy. Buffon mới đầu cho rằng trái đất này đă có khoảng 74,832 năm. Sau này càng ngày khoa học càng bỏ xa Thánh kinh.

       Ngày nay các nhà Bác học lại muốn đi t́m tiên tổ Adam và nơi thực sự đă phát tích khởi nguyên ra loài người.

       Nhờ có những tư tưởng và giả thuyết táo bạo như thế, nên con người đă làm phục sinh được cả một dĩ văng tiền sử như:

       - Nam Hầu (Australopithecus) các đây chừng 700,000 đến 500,000.

       - Hầu nhân (Pithecanthropus) cách đây chừng từ 500,000 đến 150,000 năm.

       - Người Neanderthal cách đây chừng 100,000 năm.

       - Người Cro-Magnon (Linh Nhân) cách đây chừng 300,000 năm.

       Về phương diện nghệ thuật, người ta đă t́m thấy một con ngựa khắc bằng ngà khổng tượng (mammoth) cổ chừng 32,000 năm, các bích họa trong các hang động như động Pech-Merle (Lot-Pháp), động Altamira (Tây Ban Nha), động Eysies (gần Perigneux,Pháp), động Lascaux (Pháp) tất cả đều cũng đă có khoảng hai chục ngàn năm tuổi tác...

       Rồi người ta lại thấy tuổi vũ trụ và mặt trời tối thiểu là 10 tỷ năm; tuổi trái đất tối thiểu là 2 tỷ năm.

       Và một khi vũ trụ này đă dạn dày với phong sương tuế nguyệt hằng tỷ tỷ năm, nay nếu muốn cho nó cáo chung âu cũng phải dự trù thêm ít tỷ năm nữa

       Chúng ta cũng đừng nên buồn v́ tấn kịch vũ trụ và nhân sinh lại tŕnh diễn quá lâu lai như vậy.

  4.- Cái nh́n của các triết gia.

       -Ấn Độ:

       Ấn Độ cho chúng ta những quan niệm về thời gian thực cũng rất là lâu dài.

       Ta có:

       - năm người (human year) gồm 360 ngày.

       - năm trời (divine year) =360 Năm Người.

       - ngày brahma (Brahma day)=12,000,000 Năm Trời = 4,320,000,000 Năm Người.

       - đêm brahma (Brahma nigtht)= 12,000,000 năm Trời = 4,200,000,000 năm người

       - năm brahma: 360 ngày và đêm Brahma =

8,640,000,000 năm Trời hay 3,110,400,000,000 năm người.

       - kiếp brahma: Brahma sống 100 năm Brahma.

       - Trong một ngày Brahma, Brahma chớp mắt 1000 lần: Mở mắt ra th́ vũ trụ hiện ra, nhắm mắt lại th́ vũ trụ biến đi.

       Như vậy, mỗi chớp mắt Brahama lâu bằng 12,000 năm trời và bằng 4,320,000 năm người.

       Mỗi cái chớp mắt đó lại chia ra thành 4 thời kỳ (yuga) vắn vần theo xỉ số 4,3,2,1.

       - Krita yuga (Kim đại) 4=4800 x 360=1,728,000 năm người.

       - Treta yuga (Ngân đại) 3=3600 x 360 =1,296,000 năm người.

       - Dvapara 2 (đồng đại) 2 = 2,400 x 360 = 864,000 năm người.

       - Kali yuga (Thiết đại) 1 = 1200 x 360 = 420,000 năm người.

       (Xem Joseph Campbell, The Mythic Image tr.142-143)

       Joseph Campbell, trong quyển The Mythic Image của ông, (Bollingen Series C.- Princeton University,1974, nơi tr. 142) đă cho rằng Thời Thiết đại Kali Yuga bắt đầu ngày 17 February 3202 trước kỷ nguyên. Nếu vậy th́ chúng ta c̣n có vô số th́ giờ mà kéo lê cuộc sống...

       Rene Guenon, một nhà huyền học Pháp, sau khi so sánh các chu kỳ niên đại Ấn và Babylon (Chaldean) đă cho rằng một Nguyên (Manvantara) lâu bằng 64,800 năm. Và như vậy Krita Yuga sẽ là 25,900 năm; Treta yuga là 19,440 năm; Dwapara Yuga là 12,960 năm và Kali Yuga là 6,480 năm. Theo Guenon, Kali Yuga bắt đầu vào năm 4,481 năm trước Kỷ Nguyên và sẽ tận cùng vào năm 1999. (Xem Michel de Socoa,Les Grandes Conjonctions, Paris Chacornac Frères,11 Quai St-Michel, 1051,p.7).

  - Trung-hoa.

       Về phía Trung hoa Thiệu Khang Tiết lấy 129,600 năm (4320 x 30) làm một Nguyên. Một Nguyên có 12 Hội. Mỗi Hội có 10,800 năm.

       Mỗi Hội có 30 Vận. Mỗi Vận có 360 năm.

       Mỗi Vận có 12 Thế. Mỗi Thế là 30 năm.

       Ta viết lại:

       -Nguyên = 129,600 năm

       -Hội = 10,800 năm.

       -Vận = 360 năm.

       -Thế = 30 năm.

       Mỗi Hội lấy tên là Tí, Sửu, Dần, Măo,v,v...

       Ông cho rằng Thiên khai ư Tí, Địa tịch ư Sửu, Nhân sanh ư Dần. Tận thế sẽ vào Hội Tuất.

       Vua Nghiêu (2357- 2256) sẽ ở vào Hội Ngọ,Vận thứ 30, Thế thứ 9. Như vậy ta có:

       Trời mở vào Hội Tí (1-10,800). Đất sinh vào Hội Sửu (10800-20160). Người sinh vào Hội Dần (20,160-32,400.).

       Hội Măo sẽ là 32,400-43,200.

       Hội Tị sẽ là 54,000-64,800.

       Hội Ngọ sẽ là 64,800-75,600.

       Nếu vua Nghiêu trị v́ vào Hội Ngọ,Vận thứ 30, Thế thứ 9 th́ ta sẽ toán ra là vào năm 75,510. Và lịch sử từ Nghiêu đến ngày nay (khoảng 4000 năm, đang diễn ra trong Hội Mùi (75,600-86,400). Nếu tận thế vào Hội Tuất (10,800-11,880), th́ ngày đó c̣n xa vời lắm đối với chúng ta.

       Thiệu Khang Tiết đă viết sở học nói trên của ông trong quyển Hoàng Cực Kinh Thế. Tôi từ khi sánh các con số thời gian của ông với khoa học hiện đại, thấy sự khác biệt quá chừng là lớn, nên tôi không đi sâu vào học thuyết của ông nữa.

       -Ba Tư & Hi Lạp.

       -Ba Tư và Hi Lạp cho rằng năm Vũ Trụ là 12,960 năm, tức là nhỏ hơn năm Vũ Trụ của Thiệu tử 10 lần.

       -Plato cho rằng Năm Vũ Trụ là 25,920.

       Mặt trời phải mất 25,000 năm mới mọc đúng chỗ cũ gọi là điểm Gamma trên (giao điểm giữa Hoàng Đạo và Xích Đạo ở cung Aries (Bạch Dương) vào ngày Xuân Phân (21 tháng ba Dương lịch). Nói vậy có nghĩa là không ngày Xuân Phân nào mà mặt trời mọc lại đúng như vị trí cũ. Mỗi năm cứ đến ngày Xuân Phân, lại mọc cách vị trí cũ là 0,70 độ. 72 năm sẽ mọc cách vị trí nguyên thỉ 1 độ và sau 25,000 mới lại trùng phùng một lần với vị trí nguyên thỉ vào ngày Xuân Phân.

       V́ sự chuyển dịch không ngừng trên ṿng Hoàng đạo như vậy, mà có sự thay đổi trong lịch sử gian trần này.

       Người Âu Châu chia ṿng Hoàng đạo ra làm 12 cung, gọi là Aries (Bạch Dương); Taurus (Kim Ngưu); Gemini (Song Tử); Cancer (Cự Giải); Leo (Sư Tử); Virgo (Xử Nữ); Libra (Thiên Xứng); Scorpio (Thiên Yết); Sagittarius (Nhân Mă); Capricorn (Ma Yết); Aquarius (Bảo B́nh); Pisces (Song Ngư).

       12 cung Hoàng Đạo tương ứng với Nhị Thập Bát Tú đại khái như sau:

       Aries : Lâu, Vị

       Taurus : Măo, Tất.

       Gemni : Chủy, Sâm, Tỉnh.

       Cancer : Quỉ, Liễu, Tinh.

       Leo : Chương, Dực, Chẩn.

       Virgo : Giác, Cang.

       Libra : Đê, Pḥng, Tâm.

       Scorpio : Vĩ, Cơ.

       Sagittarius : Đẩu Ngưu.

       Capricorn : Nữ, Hư.

       Aquarius : Nguy, Thất.

       Pisces : Bích, Khuê.

       Tŕnh bày ṿng tṛn, ta có đồ bản sau: 

       Cứ 2160 năm mặt trời lại đi vào một cung mới. Thời từ Chúa Jesus ra đời cho đến nay mặt trời ở cung Song Ngư.

       Ngày nay mật trời sắp đi vào cung Bảo B́nh. V́ vậy nhân loại đang trông chờ một Cuộc Chuyển Thế. Chúng ta sắp sửa bước sang một kỷ nguyên mới gọi là Tháng Vũ Trụ Bảo B́nh, hay Kỷ Nguyên Bảo B́nh (Aquarian age).

       Có những bạn đến tôi chơi, thấy đầu đề của bài này, hỏi tôi, thời đại Bảo B́nh là ǵ? Tôi hiểu ngay là nhiều độc giả cũng ở trong t́nh trạng đó.

       Nên tôi muốn dùng sự vận chuyển của mặt trời trên các Cung Trời mà bàn qua về lịch sử nhân quần từ trước sắp tới Cung Bảo B́nh.

       - 10,000-8,000 trước Kỷ Nguyên: Mặt trời ở Cung Sư Tử (Leo). Sư Tử tượng trưng cho sự sáng tạo. Nên thời ấy người tiền sử bắt đầu khắc, vẽ. Những bích họa trong các hang động ở Pháp, ở Tây Ban Nha là những chứng cứ hiển nhiên.

       - 8,000-6000 trước Kỷ Nguyên: Mặt Trời đi vào cung Cự Giải (Cancer). Cự Giải làm liên tưởng đến mẫu hệ, đến mái ấm gia đ́nh. Nên thời ấy, nhân loại bắt đầu ra khỏi hang hốc làm nhà cửa, bắt đầu canh tác.

       -6,000-4,000 trước Kỷ Nguyên: Mặt trời đi vào Cung Song Tử (Gemini). Song tử đánh dấu thời kỳ lư trí phát triển. Con người bắt đầu giao thiệp, chuyển di. Thời này bắt đầu phát minh ra chữ viết. Nhân loại bắt đầu biết sử dụng bánh xe.

       - 4000-2000 trước Kỷ Nguyên: Mặt Trời đi vào Cung Kim Ngưu (Taurus). Kim Ngưu tượng trưng cho sự vững chăi, đẹp đẽ. Nhân loại bắt đầu biết kiến trúc. Trong thời gian này, các Kim Tự Tháp được xây cất.

       - 2000-1 trước Kỷ Nguyên: Mặt trời đi vào cung Bạch Dương: Bạch Dương tượng trưng cho sự hăng hái, sống động. Dân Do Thái xuất hiện trong thời kỳ này.       

        - 1-2000 sau Kỷ Nguyên: Mặt trời đi vào Cung Song Ngư (Pisces). Đạo Công Giáo xuất sinh và phát triển trong thời kỳ này.

        - 2000-4000 sau Kỷ Nguyên: Mặt trời đi vào Cung Bảo B́nh. Bảo B́nh ngày nay được gắn liền với “nhân bản” (humanity), với khoa học, kỹ thuật, với điện từ, với đại đồng. Trong thời đại này nhân loại sẽ văn minh hơn thanh lịch hơn, sẽ bớt phàm tục, sẽ thần tiên hơn, và thế giới sẽ trở thành một Liên Hiệp Quốc thực sự.

 (Xem Zale H. Bechor, Prophecy Yesterday, Today and Tomorrow,Astro Press, 1980, tr.143-145).

 

    (Coi tiếp phần 2)

 

Thiên-Lư Bửu-Ṭa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674

Website: www.thienlybuutoa.org     Email    Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT

Thông bạch in Kinh