MẤY
BIỆN PHÁP TU TỪ TRONG THÁNH GIÁO CAO ĐÀI
LÊ ANH DŨNG
SUMMARY:
SOME
RHETORICAL DEVICES OF CAODAI TEACHINGS
Indigenous
to Vietnam, Caodai makes the best use of Vietnamese in its spiritual
messages. In prose or in verse, Caodai teachings always reveal the
beauty of the Vietnamese people’s language. This fact, therefore,
proves the national character of Caodai. As a preliminary survey of
Caodai’s strong point in the mastery use of its language, this essay
discusses some rhetorical devices picked out from various publications
of Caodai spiritual messages.
SOMMAIRE:
LA
RHÉTORIQUE DANS L’ENSEIGNEMENT DE LA RELIGION
D’origine
autochtone, le Caodai s’est toujours servi de la langue nationale dans
son enseignement religieux avec des figures de rhétorique
essentiellement viêtnamiennes. Cela montre aussi le caractère national
du Caodai.
* * *
Kinh
điển các tôn giáo truyền từ nước
ngoài vào Việt Nam thường phải qua một
hoặc vài lần phiên dịch, thí dụ, dịch
từ tiếng Ấn Độ (Sanskrit hay Pali) sang
tiếng Hán, rồi từ Hán dịch sang Việt;
dịch từ tiếng Hebrew sang La tinh, rồi từ La tinh dịch sang
tiếng Việt... Là tôn giáo bản địa, ra
đời ở Việt Nam từ những năm 20
thế kỷ 20, đạo Cao đài qua phương
tiện cơ bút, đă trực tiếp dùng
tiếng Việt dạy đạo cho người
Việt. Đó là một trong nhiều yếu tố
cho thấy tính dân tộc của đạo Cao đài.
Nhà ngôn ngữ học có thể khảo sát ḍng
tiếng Việt này và phát hiện ít nhiều đặc
trưng độc đáo, chẳng hạn như một
số biện pháp tu từ.
1.
Biện pháp nhấn mạnh bằng một mạo
từ
Chỉ
sự vật cụ thể và một số động
vật, người Việt dùng mạo từ cái, thí dụ:
-
cái
nhà, cái ghế (tĩnh
vật);
-
cái
c̣, cái vạc, cái
kiến (động vật, côn trùng)...
Với
danh từ trừu tượng, không dùng mạo
từ cái, thí dụ: sự học, việc
học, chuyện công danh,
sự công danh, sự
nợ nần, việc nợ nần...
·
Cái đứng trước
danh từ trừu tượng để nhấn
mạnh, thí dụ:
-
Cái
học ngày nay đă hỏng rồi... (Tú Xương)
-
Cái
công danh là cái nợ nần.
(Nguyễn Công Trứ)
-
Người ta hơn
tớ cái phong
lưu... (Tản Đà)
·
Trong thánh giáo Cao đài, thí dụ:
-
Thương thân phải
kíp tu tŕ,
Để
đem
cái Đạo bù ch́ nước
non. [TGST 1972-73: 42]
-
Ta mến ta thương
mới chỉ truyền,
Giáo
tông tạm gác
cái
uy quyền;
Chỉ
c̣n sư đệ t́nh hơn thiệt,
2.
Biện pháp nhấn mạnh bằng hai mạo từ
·
Tiếng Việt chấp nhận dùng cùng lúc hai
mạo từ để tăng thêm ư nhấn
mạnh, thí dụ:
-
Cái điều bạc
mệnh có chừa ai đâu? (Nguyễn Du)
-
Tớ cũng hơn ai
cái sự nghèo.
(Tản Đà)
-
Cái thứ mưa
dầm ở Huế... (Nguyễn Tuân)
·
Trong thánh giáo Cao đài, thí dụ:
-
Trước tiên ḿnh
phải hiểu ḿnh,
Sinh
trong cái cơi
nhân sinh làm ǵ?
[TGST 1972-73: 69]
-
Xuống lên trong cái cơi đời,
Dễ
chi gặp đặng một thời xá ân. [TGST
1972-73: 70]
3.
Biện pháp nhấn mạnh bằng một mạo
từ kèm với một từ chỉ lượng (lượng
từ)
Chỉ
lượng xác định, người Việt nói một,
hai, ba..., thí dụ: một
người, một
nhà, hai ngày, ba năm...;
chỉ lượng bất định, người
Việt nói những,
thí dụ: những người, những
nhà, những ngày, những năm...
·
Một và những c̣n dùng để nhấn mạnh, thí
dụ:
-
Cả một
đời Mạnh tử khổ công làm việc nghĩa.
-
Họ đi vắng, không
c̣n một ai
cả.
-
Bé thế mà ăn
được những
năm sáu chén cơm à!
-
Đêm ngày ḷng những
giận ḷng...
(Nguyễn Du)
-
Khi mơ những
tiếc khi tàn... (Đoàn Thị Điểm)
·
Trong thánh giáo Cao đài, cái
và một, những
được kết hợp để “gấp
đôi” ư nhấn mạnh, thí dụ:
-
Chỉ một
cái tâm, tâm vũ trụ,
Thoát
ly vạn tướng phục nguơn thần.
[TGST 1972-73: 78]
-
Rằng ta là một
cái ta chung,
Lớn
rộng bao la ở khắp cùng... [TGST
1972-73: 78]
-
Những cái tầm thường là những tầm thường
chung của mọi người; Những
cái phi thường cũng vẫn là phi thường
chung của tất cả, chớ không dành riêng cho
nữ hoặc nam. [TGST 1972-73: 103]
4.
Biện pháp tách từ
Tiếng
Việt có rất nhiều từ
kép (thí dụ: ân oán,
hạnh phúc) và từ
láy (thí dụ: vui vẻ, buồn bă) để lời nói
được êm tai, làm cho tiếng Việt rất
giàu nhạc điệu. Chẳng hạn, nói “nắng
mai ấm” cũng đủ nghĩa, nhưng nói
“nắng mai ấm áp”
th́ nghe cân đối, nhịp nhàng và nhiều
ấn tượng hơn. Ngoài tính cân đối này,
người Việt c̣n tách từ để thể
hiện tính đối xứng, tạo sự hài ḥa
về ngữ âm, có được tiết điệu
và tăng thêm sức nhấn mạnh, thí dụ:
4.1.
Một từ xen giữa từ kép hay từ láy, thí
dụ:
-
Thấy nó học
với hành mà chán!
[với + từ kép học
hành]
-
C̣n đắn
với đo làm ǵ nữa! [với
+ từ láy đắn
đo]
·
Trong thánh giáo Cao đài, thí dụ:
-
Lẩn quẩn, loanh quanh,
lên lại xuống,
Trong
ṿng luân chuyển khổ cho thân.
[TGST
1972-73: 30] [lại +
từ kép lên xuống]
-
Chỉ có trường
đời tranh
với cạnh,
[với + từ kép cạnh
tranh]
4.2.
Một từ “cài răng lược” với
từ kép hay từ láy, thí dụ:
-
sống khổ sống
sở [sống/sống
+ từ kép khổ
sở]
-
ăn vội ăn vàng
[ăn/ăn + từ láy vội
vàng]
-
Làm người phải
đắn phải đo,
Phải
cân nặng nhẹ, phải ḍ nông sâu.
(Ca dao)
[phải/phải + từ láy đắn
đo]
·
Trong thánh giáo Cao đài, thí dụ:
-
Mặt nhựt hồi mô
thấy xẻ hai,
Có
thương mới biết đấng Cao đài;
Cũng
con cũng cái
đồng môn đệ,
Bụng
muốn phân chia hỏi bởi ai? [TNHT
1973]
[cũng/cũng
+ từ kép con cái]
4.3.
Hai từ có quan hệ đối ứng “cài răng
lược” với từ kép hay từ láy, thí
dụ:
-
nay thương mai
nhớ
[từ đối
ứng nay/mai + từ kép
thương nhớ]
-
hồn xiêu phách lạc;
xiêu hồn lạc phách
[từ đối
ứng xiêu/lạc +
từ kép hồn phách]
-
Nhớ ai ra
ngẩn vào ngơ,
Nhớ
ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai?
(Ca dao)
[từ đối
ứng ra/vào + từ láy
ngẩn ngơ]
-
đi lẻ về loi
[từ đối ứng đi/về
+ từ láy lẻ loi]
·
Trong thánh giáo Cao đài, thí dụ:
-
Hỡi các con ơi rán chí
bền,
Trước
d́u sau dắt
rán cho nên.
[TGST 1972-73: 26]
[từ
đối ứng trước/sau
+ từ kép d́u dắt]
-
Cơi vô thường
kẻ đến trước người đến
sau, kiếp nhơn sanh nay
về mai ở. [TGST 1970-71: 184]
[từ
đối ứng về/ở
+ từ kép nay mai]
Nhận
xét:
Lẽ thường phải nói nay ở [sống] mai
về [chết], mượn ư câu sinh
kư tử quy (sống gửi thác về). Tuy nhiên,
cách nói nay về mai
ở hoàn toàn phù hợp với kiểu nói
“trớ trêu” của người Việt, như: con
ông cháu cha, cao chạy xa bay...
Lưu
ư: Trong thánh giáo Cao đài, có một
dạng khác hơn các biện pháp tu từ “cài răng
lược” nói trên, đó là:
(a)
xen kẽ một từ kép với từ láy;
(b) xen kẽ
một từ kép với từ đối ứng, hay
là
(c) xen kẽ
một từ kép với một từ kép khác.
Thí
dụ:
-
Mẹ vẫn biết các
con đứa nào cũng đă lỡ mang duyên
trần nghiệp tục, sớm liệu chiều lo.
[TGST 1970-71: 4]
[từ kép duyên nghiệp + từ kép trần
tục;
từ đối
ứng sớm chiều
+ từ kép lo liệu]
-
V́ sao xẻ
mún chia manh,
Đă
chia th́ khó, khó đành mượn vay.
[TGST 1970-71: 59]
[từ kép xẻ chia + từ láy manh
mún]
-
Đó là nguyên nhân
nảy sinh ra nhiều h́nh thức hành đạo mà
ngày nay các em hằng nói là chia chi rẽ phái.
[TGST 1970-71: 142] [từ kép chia
rẽ + từ kép chi
phái]
5.
Đảo trật tự từ kép hay từ láy
·
Một số từ kép hay từ láy không thể
đảo ngược trật tự thành phần
của nó, thí dụ: bâng
khuâng, giang san, bàng hoàng không thể đảo ngược
thành khuâng bâng, san giang,
hoàng bàng.
Nhưng
nhiều từ có thể đảo ngược, thí
dụ: xuyến xao/xao
xuyến, suy nghĩ/nghĩ suy, soi sáng/sáng soi, giữ
ǵn/ǵn giữ, non nước/nước non... Biện
pháp đảo ngược này làm câu văn nhịp
nhàng, hài ḥa vần điệu, có giá trị
nghệ thuật, thí dụ:
-
Ai ơi trẻ măi ru mà,
Càng
đo đắn
lắm càng già mất duyên.
(Ca dao)
[Không thể nói
“đắn đo” v́
câu thơ bị lỗi vận.]
-
Nhưng trong khoảnh
khắc ơ
thờ ấy,
Thấy
cả muôn đời hận biệt ly.
(Thế Lữ)
[Nói thờ ơ th́ câu thơ nghe kém ngay, điều
này có lẽ phải được “thẩm âm”
bằng... lỗ tai thơ.]
·
Trong thánh giáo Cao đài, thí dụ:
-
Chơn lư là ǵ? Một câu
hỏi vỏn vẹn chừng ấy mà hàm súc
tất cả quan niệm về lư đạo triết
minh.
[TGST 1970-71: 175]
[Nói minh triết, khi đọc tiếng trắc (triết)
ở cuối câu văn dài, nghe như bị
“nghẽn” lại, câu văn như “đoản
hậu”.]
·
Một biện pháp tu từ khác trong thánh giáo Cao
đài là kết hợp một từ đảo ngược
(thí dụ: điên đảo)
cùng với nguyên thể (đảo
điên) của từ đó. Thí dụ:
-
Tử sanh, sanh tử đâu
là,
Nặng
lo thể xác, khó qua luân hồi. [TGST
1972-73: 41]
-
Nh́n qua một lượt
đời người và muôn loại chẳng đặng
an b́nh, măi xâu xé xé xâu, măi
trắng đen đen
trắng... [TGST 1970-71: 52]
-
Thế sự ngày nay không
là ngày xưa, cuộc diện đă đổi
thay lại càng thêm thay
đổi. [TGST 1970-71: 53]
-
Đối cảnh sinh t́nh,
t́nh sinh phiền năo, phiền năo sinh oan nghiệt, oan
nghiệt buộc trói con người vào ṿng vay
trả trả vay. [TGST 1970-71: 107]
-
Nh́n xem thế sự, trước
mắt bao nhiêu việc đổi thay thay đổi,
luật tuần hoàn luân
chuyển chuyển luân...
[TGST 1970-71: 184]
-
Ḍng đời cám dỗ
rủ ren em,
Sanh
tử tử sanh,
ấy cũ mèm;
Lên
xuống, xuống lên, lên xuống
măi,
Luân
hồi chuyển kiếp khổ thân em. [TGST
1970-71: 117]
Biện
pháp tu từ này có công dụng: nhấn mạnh
về lời và ư mà không phải điệp
ngữ; tạo âm điệu cân xứng, làm cho câu
văn lời thơ thêm giàu nhạc điệu;
diễn tả sự dai dẳng liên miên của
một t́nh thế; hoặc cho thấy một sự
việc măi lập đi lập lại, hoặc trong
ṿng lẩn quẩn, hoặc mang tính ráo riết, ngày
một gay go hơn.
6.
Tạo h́nh trong thánh giáo Cao đài
Qua
nghệ thuật tạo h́nh (tượng h́nh) thánh
giáo Cao đài, đạo lư trừu tượng
được thể hiện bằng những h́nh
ảnh cụ thể, tinh xác. Thí dụ:
-
Đừng bao giờ con
nhọc tâm suy nghĩ đường này cao, nẻo
kia thấp. Sự
thấp cao chỉ ở trong ḷng con cũng như
biển sâu non cao ở trong vũ trụ. [TGST
1972-73: 27]
-
Hỡi các con, rừng có cây cao cây thấp, con có đứa dở
đứa hay... [TGST 1972-73: 185]
-
Nhơn sanh là con
thuyền, thế đời
là biển động.
[TGST 1970-71: 53]
·
Chân lư tuyệt đối chỉ có một, là Đạo.
Tất cả các tôn giáo dù khác nhau ở h́nh tướng
nhưng đều có công dụng là phương
tiện để đưa con người tới
cứu cánh là Đạo. Diễn tả tương
quan tôn giáo và Đạo, thánh giáo Cao đài có câu:
-
Tôn giáo là con thuyền đưa
khách mà Đạo là bến
đỗ. Các con
thuyền cuối cùng cũng xuôi về bến
đỗ.
[TGST 1970-71: 167]
Lưu
ư: Tiếng Việt mượn cách
diễn tả thời gian của ngôn ngữ Trung Hoa,
và đă có cách ví: bóng
câu cửa sổ, mượn từ chữ Hán bạch
câu quá khích, gọi tắt là câu
ảnh, khích câu. Thí dụ:
-
Tàn ác thời gian
giục vó câu. (Đinh
Hùng)
Leo
Tolstoy nh́n thời gian chuyển động theo con
mắt cơ giới, nên viết:
-
Thời gian là sự chuyển động khôn
cùng chẳng một phút giây ngưng nghỉ.
(Chiến tranh và ḥa b́nh)
Ralph
Hodson có lẽ nặng t́nh du mục nên diễn
tả thời gian bằng h́nh ảnh như sau:
-
Thời gian, ơi lăo
già tinh quái,
Có
bao giờ ngươi dừng lại,
Có
bao giờ ngươi thử nán cuộc lữ dài,
Dù
chỉ một ngày?
·
Góp phần giàu đẹp cho tiếng Việt là cách
thánh giáo Cao đài tả thời gian, bằng h́nh
ảnh rất sáng tạo, thí dụ:
-
Những hạt chuỗi thời gian trôi
qua theo ngón tay Tạo
hóa. [TGST 1970-71: 9]
Tạo
hóa đang lần tràng hạt thời gian, đều
đặn. Một hạt chuỗi lăn qua ngón tay
Tạo hóa, một đơn vị thời gian trôi
qua, không theo đường thẳng mà theo chuyển
động ṿng tṛn, giáp hết một ṿng sẽ
trở lại chỗ ban đầu (chu nhi phục
thủy). H́nh tượng độc đáo này c̣n
được vận dụng linh hoạt như sau:
-
Nếu con măi lo âu
thế sự,
Mang
nghiệp trần lành dữ đeo đai;
Xuân
sang xuân vẫn c̣n hoài,
Chuỗi
đời đếm hạt
không tài vượt qua. [TGST
1970-71: 3]
-
Đông sắp măn th́ xuân
lại đến,
Hạt
chuỗi đời
định mệnh lần qua;
Trăm
năm gẫm có bao là,
Hỡi
con sứ mạng Kỳ Ba thế nào?
[TGST 1972-73: 186]
Nghiên
cứu các biện pháp tu từ trong thánh giáo Cao
đài, ngoài những điểm tiêu biểu nêu trên
c̣n có thể thấy thêm nhiều dạng khác,
chẳng hạn:
7.
Chuyển từ loại
Thí
dụ, danh từ [dt]
chuyển thành tính từ
[tt]:
-
Xuân đến lồng
trong khắp mọi người,
Sang
hèn thanh trược cũng vui chơi;
Lẽ
đâu
xuân [dt] chỉ xuân
[tt] chừng ấy,
Mà
nợ tang bồng quên đấy thôi. [TGST
1970-71: 18]
-
Thượng đế Chí
tôn đă mở con đường cho nhân loại
trở về với Thượng đế: con
người [dt] cho
thiệt con người [tt]. [TGST 1972-73: 38]
8.
Cách điệp ngữ nhấn mạnh
8.1.
Kiểu liên châu, thí dụ:
-
Ôi thiên
cơ, thiên cơ là
huyền diệu... (Cao đài Tiên ông)
-
... th́ các
con, các con phải
hiểu thông lẽ Đạo ấy...
(Vô cực
Từ tôn)
-
Nó là một lẽ, một lẽ cố
định từ vô thủy đến vô chung...
(Quan âm Bồ tát)
-
Nhắp chén trà sen vị
ngọt ngào,
Hương
xuân nồng ấm thú tiêu dao;
Ḱa
hoa, hoa
nở v́ ai đó,
Theo
luật sinh tồn đấng Tối cao. [TGST
1972-73: 18]
-
Rằng ta là một cái
ta chung,
Lớn
rộng bao la ở khắp cùng;
Ta
chẳng có ta mà vẫn có,
Có
ta, ta
cũng chỉ tâm trung. [TGST
1972-73: 78]
-
Ḱa xem,
xem lại cơi trần,
Triền
miên giấc mộng phù vân chập chùng.
[TGST
1972-73: 41]
8.2.
Kiểu gián cách bằng một từ nối, thí
dụ:
-
Đời sống con người
là một phức tạp rộng lớn, xă hội và xă hội
quay quần xoay động... (Lê Văn Duyệt
Đại tiên)
-
Sự liên giao càng ngày càng
sâu rộng, tôn giáo và tôn giáo
càng gần gũi lại với nhau... [TGST 1968-69:
128]
·
Noah
Webster (1758-1843), nhà soạn từ điển người
Mỹ, nói: “Ngôn ngữ, cũng như khả năng đàm
thuyết, là tặng vật gần gũi của Thượng
đế.”
Như thế, thánh giáo Cao đài đem lại cho người
Việt một tặng vật ngôn ngữ với
nhiều đặc trưng và không ít sáng tạo
độc đáo mà qua lịch sử non tám thập
niên của nền Đạo, chưa có điều
kiện được lưu ư để nghiên
cứu, xiển minh trọn vẹn trên phương
diện ngôn ngữ.
Albert
Dauzat, nhà ngôn ngữ học người Pháp,
viết: “Ngôn ngữ là
vật di sản truyền từ đời nọ qua
đời kia. Mỗi thế hệ phải chịu
trách nhiệm về di sản ấy đối
với thế hệ sau.”
Hiểu theo tinh thần đó, trong bối cảnh riêng
của cộng đồng Cao đài, nghiên cứu thánh
giáo Cao đài về phương diện ngôn ngữ
-
mà bài này chỉ mới tạm thời phác thảo
rất sơ lược một vài cạnh khía tiêu
biểu - phải chăng cũng là một
việc không nhỏ?
LÊ
ANH DŨNG
(Viết
lại, 11.7.1996)
SÁCH
BÁO THAM KHẢO CHỌN LỌC
[Bát
tiên 1950] Khuyết danh, Đông
du Bát tiên. Tô Chẩn dịch. Sài G̣n: Nxb. Tín
đức Thư xă.
[B́nh
minh 1970] Kinh B́nh minh đệ
nhị. Sài G̣n: Giáo hội Cao đài Thống
nhứt xb.
[BTG
1993] BTG (Pḥng Thông tin Tư liệu), Một
số tôn giáo ở Việt Nam, “Đạo Cao đài”,
Hà Nội, tr. 174-198.
[Couvreur
1890] F. S. Couvreur, s.j., Dictionnaire
classique de la langue Chinoise. Edition originale. (Peiping:
Editions Henri Vetch, réimpression autorisée par la mission de
Sienhsien.)
[Đại
bát niết bàn 1996] Kinh
Đại bát niết bàn, tập 1, Thích Trí
Tịnh dịch. Tp.HCM: Thành hội Phật giáo Tp.HCM
xb.
[Đại
thừa chơn giáo 1950] Đại
thừa chơn giáo. Sài G̣n: Chiếu minh đàn
xb.
[Đào
Duy Anh 1957]. Hán-Việt
tự điển. Sài G̣n: Nxb Trường thi.
[Đào
Duy Anh 1989]. Nhớ nghĩ
chiều hôm. Tp.HCM: Nxb Trẻ.
[Đặng
Nghiêm Vạn 1995] (chủ biên), và Nguyễn Duy Hinh,
Đặng Thế Đại, Nguyễn Quốc
Tuấn, Lê Trung Vũ (Viện Nghiên cứu Tôn giáo
thuộc Trung tâm Khoa học Xă hội và Nhân văn
Quốc gia). Bước
đầu t́m hiểu đạo Cao đài. Hà
Nội: Nxb Khoa học Xă hội, tr. 5-276.
[Đoàn
Trung C̣n 1963]. Phật
học từ điển, ba quyển. Sài G̣n:
Phật học Ṭng thơ xb.
[Đỗ
Đ́nh Tuân 1992]. Dịch
học nhập môn. Long An: Nxb Long An.
[Đông
Hồ 1932]. “Chuyện
cầu tiên ở Phương Thành”, Nam phong tạp
chí, số 171. Hà Nội: Avril.
[Hành
Sơn 1975]. “Gương
hướng đạo chơn tu của Đức
Trần Đạo Quang”, Cao
đài giáo lư số 94. Sài G̣n: Cơ quan Phổ
thông Giáo lư Cao đài giáo Việt Nam.
[Hầu
Hàn Giang 1994] và Mạch Vĩ Lương (chủ biên).
Từ điển Hán-Việt. Bắc Kinh: Thương
vụ ấn thư quán.
[Hoàng
Vũ 1973-74]. “Vào Đạo
học triết học với Nhân Tử Nguyễn Văn
Thọ”, nguyệt san Minh
đức. Sài G̣n: tháng 12.1973-01.1974, tr.63-102.
[Hornby
1995] A. S. Hornby. Oxford
advanced learner’s dictionary. Oxford University Press.
[Hue
1937] Gustave Hue. Dictionnaire
Annamite - Chinoise -
Française, Imprimerie
Trung ḥa.
[Huệ
Chương 1953]. Đại
đạo truy nguyên & Phu thê yếu luận. Quyển
thứ nhứt. Sài G̣n: nhà in Vơ Văn Vân, 201-211
Kitchener, 1953.
[Huệ
Lương 1972] Huệ Lương, “Cơ
bút trong Đại đạo Tam kỳ Phổ độ”,
Cao đài giáo lư, số 76-77-78. Sài G̣n: tháng 5-6-7&8.
[Huệ
Nhẫn 1997a]. Nguồn
gốc và ư nghĩa bài kinh Ngọc Hoàng bửu cáo. Tp.
HCM. Bản thảo, 60 tr. + Phần bổ sung, 8 tr.
[Lai
1972] T. C. Lai, The Eight
Immortals. Hong Kong: Swindon Book Co.
[Lê
Anh Dũng 1994]. Con
đường Tam giáo Việt Nam. Tp.HCM: Nxb Tp.HCM.
[Lê
Anh Dũng 1995a]. T́m
hiểu Kinh cúng tứ thời. Huế: Nxb
Thuận hóa.
[Lê
Anh Dũng 1995b]. Giải mă
truyện Tây du tân biên. Hà Nội: Nxb Văn hóa-Thông
tin.
[Lê
Anh Dũng 1996]. Lịch
sử đạo Cao đài thời kỳ tiềm
ẩn 1920-1926. Huế: Nxb Thuận hóa.
[Lê
Phương Chi a]. “Tâm
sự Giáo sư Tiến sĩ
Trần Văn Khê”, bản thảo.
[Lê
Phương Chi b]. “Tâm
sự Nhạc sĩ Lê Thương”, bản
thảo.
[Lỗ
Tấn 1996]. Sơ lược
lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc, Lương
Duy Tâm dịch. Hà Nội: Nxb Văn hóa-Thông tin.
[Lư
Thúc Hoàn 1971]. Đạo
giáo yếu nghĩa vấn đáp tập thành.
Đài Loan: Cát liên ấn loát xưởng, tr. 31.
[Mayers
1971] William Frederick Mayers. The
Chinese reader’s manual. Taipei: Ch’eng Wen Publishing Co.
[Ngô
Phong 1994] (chủ biên). Trung
Hoa Đạo học thông điển. Nam hải
xuất bản công ty, tr. 1062.
[Ngô
Tất Tố 1995]. Lều
chơng. Hà Nội, Nxb Văn học.
[Nguyễn
Đ́nh Đầu 1998]. “Giáo
dục dưới triều Nguyễn và dưới
thời Pháp (1698-1955)”, trong Địa
chí văn hóa tp HCM, Trần Văn Giàu và Trần
Bạch Đằng chủ biên, tập II: Văn
học-Báo chí-Giáo dục. Nxb Tp HCM.
[Nguyễn
Q. Thắng 1994]. Khoa
cử và giáo dục Việt Nam. Hà Nội: Nxb Văn
hóa-Thông tin.
[Nguyễn
Văn Ngợi 1991] Nhiều người viết. Tập
kỷ yếu tấm gương phụng Đạo
yêu nước của Ngọc đầu sư
Nguyễn Văn Ngợi. Tp HCM, 20 tr.
[Nguyễn
Văn Thọ, cảm nghĩ].
“Ít nhiều cảm nghĩ về văn hóa dân
tộc”, bản thảo, 19 tr. đánh máy.
[Nguyễn
Văn Thọ 1987]. “Nhận
định về Đại đạo”, tạp
san Trung ḥa, số 6, xuân
Đinh măo, tr. 13-22.
[Nguyễn
Văn Thọ 1988]. “Thuyết
Thiên địa vạn vật nhất thể với
cơ bút Cao Đài”, tạp san Trung
ḥa, xuân Mậu th́n, tr. 32-41.
[Pháp
chánh truyền 1966]. Pháp
chánh truyền. Ṭa thánh Tây ninh tái bản.
[P.
Kư 1937] J. B. P. Trương Vĩnh Kư. Petit
dictionnaire Français-Annamite à l’usage des écoles et
des bureaux, réédité
par J. Nguyễn Hữu Nhiên, ancien professeur des collèges
d’Adran, Chasseloup-Laubat et de l’institution Taberd. Sài G̣n:
imprimerie C. Ardin.
[Soothill
1962] William Edward Soothill và Lewis Hodous cùng các người
khác, Trung-Anh Phật
học từ điển. Dictionary of Chinese Buddhist terms.
Đài Bắc: Phật giáo Văn hóa Phục vụ
xứ xb.
[TGST
1966-67] Thánh giáo sưu
tập năm Bính ngọ và Đinh mùi (1966-1967). Sài
G̣n: Cơ quan Phổ thông Giáo lư Cao đài giáo
Việt Nam xb.
[TGST
1970-71] Thánh giáo sưu
tập năm Canh tuất và Tân hợi (1970-1971). Sài
G̣n: Cơ quan Phổ thông Giáo lư Cao đài giáo
Việt Nam xb.
[TGST
1972-73] Thánh giáo sưu
tập năm Nhâm tư và Quư sửu (1972-1973). Sài G̣n:
Cơ quan Phổ thông Giáo lư Cao đài giáo Việt
Nam.
[Thiều
Chửu 1942]. Hán-Việt
tự điển, Hà Nội: nhà in Đuốc
tuệ.
[TNHT
1973] Thánh ngôn hiệp
tuyển, quyển thứ Nhứt.
Ṭa thánh Tây Ninh tái bản.
[Topley
1963] Marjorie Topley, “The
Great Way of Former Heaven: a group of Chinese secret religious
sects,” BSOAS: Bulletin of the School of Oriental and African Studies.
University of London, Vol. XXVI, Part 2, pp. 362-392.
[Tu
Wei-ming 1983]. Confucian ethics
today: the Singapore challenge, Curriculum Development Institute
Singapore & Federal Publications.
[Từ
hải 1948]. Từ
hải, Trung Hoa thư cục xb.
[Vogel
1994] Erza F. Vogel. The four
little dragons: the spread of industrialization in East Asia. Harvard
University.
[Vương
Hồng Sển 1993] Vương Hồng Sển, Thú
xem truyện Tàu, “Con ngựa già của Thầy
Đưng Tam Tạng”; và “Lược khảo về Tây du kư và Đại
Đường Tây vực kư”. Tp.HCM: Nxb Tp.HCM.
[Werner
1969] E. T. C. Werner. A
dictionary of Chinese mythology. New York: The Julian Press, Inc.,
Publishers.
[Werner
1981] Jayne Susan Werner, Peasant
politics and religious sectarianism: peasant and priest in the Cao dai
in Viet Nam. Connecticut:
Monograph Series No. 23, Yale University Southeast Asia Studies.
·
|