Gandhi và Tư Tưởng Bất
Bạo Động
(Trích từ Triết
Lư Quốc Trị Đông Phương của Dương Thành Lợi xuất bản vào năm 1996. Phần
đăng tải không bao gồm các tài liệu dẫn chứng.)
Nhà
cách mạng Ấn Độ Gandhi (1869-1948) là con người bằng xương bằng thịt có
thật, nhưng cuộc đời của ông là chuỗi dài hy sinh của một siêu vĩ nhân.
Khoa Học Gia Albert Einstein đă chia buồn sau khi Gandhi qua đời: Nhiều
thế hệ tới khó có thể tin là có một nhân vật bằng máu thịt như vậy từng
đi lại trên quả địa cầu này? Dân tộc Ấn Độ tôn Gandhi thành vị
‘Thánh’ (Mahatma) cứu tinh của họ; trong khi đó, nhiều văn hào
và sử gia như Romain Rolland, Wille Durant so sánh tư cách cao thượng,
giản dị, đức hy sinh, ḷng dĩ đức báo oán của ông như Jêsus - người khai
sinh ra Thiên Chúa giáo Tây phương.
Các lời ca tụng trên không phải là vô căn cứ nếu chúng ta
biết rơ về cuộc đời của Gandhi - nhà ái quốc chấp nhận từ bỏ hết tiền
tài, danh vọng và chỉ mang trên ḿnh mảnh vải thô che thân theo kiểu
người ‘hạ nhân’ Ấn (the untouchables) nằm tuyệt thực một cách bất bạo
động mà có thể làm tiêu tan hệ thống cai trị của đế quốc Anh tại Ấn Độ.
Nhà cách mạng nhỏ người ấy với cặp mắt tinh anh không nắm bất cứ chức vụ
nào trong chính quyền độc lập Ấn, không điều khiển quân đội, không lănh
đạo đảng phái, nhưng chỉ với t́nh thương dân tộc bao la bát ngát mà có
thể nắm lấy lương tâm của cả quốc gia Ấn hàng trăm triệu người, có thể
kêu gọi các đạo quân giết người buôn vũ khí để bắt tay nhau như anh em,
thuyết phục nhà thờ từng xua đuổi ‘hạ nhân’ hàng ngh́n năm phải mở cửa
đón nhận họ vào làm lễ, khiến các lănh tụ quốc gia phải gạt bỏ qua những
khác biệt để cùng quản trị quốc sự tốt đẹp cho dân tộc. Sách lược duy
nhất của Gandhi là tư tưởng bất bạo động Ahimsa. Trước khi phân tích tư
tưởng Ahimsa, phần kế tiếp sẽ t́m hiểu về cuộc đời của Gandhi - người
thực hành sách lược Ahimsa đến giây phút cuối của cuộc đời.
Cuộc Đời Cách Mạng của Gandhi
Mohandas Karamchand Gandhi sinh ngày 2-10-1869 tại tiểu bang Porbandar,
Ấn Độ. Cha của ông giữ chức dewan (thủ tướng) trong chính quyền tiểu
bang nhưng gia đ́nh của ông vẫn không khá giả lắm; và có lẽ nhờ vậy cho
nên khi c̣n bé, ông có cơ hội vui đùa với bạn bè cùng tuổi thuộc nhiều
thành phần tôn giáo khác nhau. Năm lên sáu tuổi, ông cắp sách đến trường
và dần dần tỏ ra là một học sinh xuất sắc. Năm 12 tuổi, ông phải lấy vợ
theo sự sắp xếp của cha mẹ. Vợ của Gandhi, Kasturbhai Makanji, là một
người đàn bà kiên nhẫn, độ lượng và tận tụy kề vai sát cánh hy sinh với
chồng suốt cuộc đời cách mạng của ông.
Vào
năm 1888, theo lời khuyên của nhà tôn giáo Mavji Dave và với sự trợ giúp
của gia đ́nh, Gandhi xuất cảnh qua Luân Đôn, Anh quốc, để học luật. Ba
năm sau, ông thi đậu bằng hành nghề luật sư và trở về Ấn Độ mở văn pḥng
tư vấn. Nhân việc anh của ông, Laxmidas, bị đại diện Anh Charles
Ollivant sa thải một cách thiếu công bằng (v́ sự ém nhẹm tài chánh của
Hoàng gia Bhavsingh), Gandhi đến văn pḥng chính quyền can thiệp cho
Laxmidas nhưng bị Ollivant sai người tống cổ ra cửa. Ông đem việc này
nói với Đại Luật Sư Sir Pherozeshah Mehta và được khuyên là nên im hơi
lặng tiếng (‘pocket the insult’) bởi v́ người Anh đô hộ Ấn Độ cho nên họ
muốn ǵ th́ được nấy.
Sự
kiện vị luật sư trẻ người Ấn dám đụng đến đại diện Anh quốc làm động
ḷng một thương gia đồng hương tên Abdul Karim - chủ nhân của công ty
Dala Adbulla & Co. Karim đề nghị với Laxmidas là nên cho Gandhi qua Nam
Phi giúp đỡ cho công ty Dala Adbulla & Co. trong một vụ tranh kiện lớn.
Karim đài thọ hoàn toàn chuyến đi Nam Phi và trả lương hậu cho Gandhi.
Chuyến đi Nam Phi đánh dấu bước ngoặc mới trong cuộc đời của ông.
Vào
tháng tư năm 1893, Gandhi để lại vợ con ở Ấn Độ để lên đường đi Nam Phi.
Trong khi đáp xe lửa đến Pretoria để nhận nhiệm vụ vào tháng sáu năm đó,
Gandhi đang ngồi trong toa hạng nhất th́ bị đuổi ra. Khi khẳng khái từ
chối rời chỗ ngồi bởi v́ ông đă mua vé hạng nhất th́ Gandhi bị nhân viên
tàu hỏa đẩy ra khỏi toa xe lửa; hành lư của ông bị quăng xuống đất. Đêm
hôm đó ông nghỉ trong pḥng đợi của nhà ga Pietermaritzburg và đi đến
quyết định là ông không thể tiếp tục chấp nhận bị kỳ thị và sẽ sử dụng
phương pháp riêng của ông để chấm dứt tệ nạn kỳ thị chủng tộc - phản
kháng tích cực nhưng bất bạo động.
Vào
tháng 5-1894, Gandhi tổ chức Nghị Viện Ấn Độ Natal (Natal Indian
Congress) để chống lại dự luật tước đoạt quyền bầu cử, tức là ảnh hưởng
chính trị, của dân Ấn Độ tại Nam Phi. Do nỗ lực phản kháng này mà ông bị
một số người Âu Châu đánh gần bất tỉnh vào ngày 13-1-1897, nhưng ông
không truy tố phạm nhân; theo ông, kẻ có tội là chính quyền Natal vốn có
chánh sách khuyến khích người Âu kỳ thị người Ấn, và đây là một vấn đề
chính trị phải được ông giải quyết trên chính trường với lănh tụ chính
quyền.
Để
tạo sự thông cảm với giới lao động nghèo gốc Ấn, Gandhi mở một nhà y tế
nhỏ nhằm giúp đỡ họ miễn phí. Song song, ông cho ra tờ báo Indian
Opinion để tŕnh bày ư kiến của cộng đồng Ấn đối với các vấn đề quan
trọng. Ông cũng bắt đầu chủ trương đơn giản hóa đời sống cá nhân tới mức
tối thiểu.
Vào
năm 1906, chính quyền Natal ra dự luật bắt buộc tất cả thường dân gốc A¨
Châu phải đăng kư, mang thẻ kiểm tra, và nếu trên 8 tuổi th́ bị lấy dấu
tay (như phạm nhân). Gandhi và đa số dân Ấn ở Nam Phi tuyên thệ thà chết
chứ không chịu đi ghi danh. Vào tháng 10 năm đó, ông dẫn một phái đoàn
qua Luân Đôn để cầu viện với Quốc Hội Anh về dự luật kỳ thị của chính
quyền Natal; với sự vận động của phái đoàn Gandhi, dự luật này không
được Quốc Hội Anh chấp thuận cho nên không được Anh Hoàng phê chuẩn. Tuy
vậy, tin vui này không kéo dài bởi v́ khi chính quyền Nam Phi ở
Transvaal trở thành nhà nước tự trị (self-government) vào năm 1907 th́
ảnh hưởng của Quốc Hội Anh trở nên vô hiệu.
Tướng Smuts của Transvaal quyết định là tất cả thường dân Ấn phải đăng
kư và bị lấy dấu tay trước ngày 1-7-1907. Nhiều người Ấn chống đối lại
quyết định này và đă bị bắt giam, trong đó có Gandhi. Khi thấy dân Ấn
quá cứng đầu thà đi tù c̣n hơn bị nhục, Smuts liên lạc và thương lượng
với Gandhi. Cuối cùng hai bên đồng ư là thường dân Ấn phải đăng kư một
cách tự nguyện, nhưng thành phần trí thức Ấn không bị lấy dấu tay mà chỉ
cần kư tên. Sau khi hai bên thỏa thuận xong các điều kiện giải ḥa,
Gandhi được phóng thích và bắt đầu lên tiếng kêu gọi dân Ấn tự nguyện đi
đăng kư. Một thanh niên Ấn, Mir Alam, và bốn người khác chống lại sự
kiện chuyển hướng đăng kư tự nguyện cho nên đă đánh Gandhi trọng thương
khi ông đi đăng kư vào tháng 2-1908. Sau khi b́nh phục, ông không truy
tố họ về tội trạng này.
Vào
tháng 10 năm đó, Gandhi lại khuyến khích dân Ấn đốt các thẻ kiểm tra để
chống lại một số dự luật kỳ thị khác (thuế thân, v.v.). Chiến thuật của
ông là bắt buộc chính phủ phải tốn tiền để nuôi người Ấn cho đến khi
ngân sách nhà nước bị kiệt quệ. Các thành viên Satyagraha, trong đó có
Gandhi và con trai ông, hy sinh phạm luật ‘phá rối trật tự’ để được vào
tù; luật sư biện hộ cho họ có nhiệm vụ xin cho họ bị án càng nặng càng
tốt. Từ năm 1908 đến 1914, Gandhi dẫn đầu nhiều cuộc đ́nh công, biểu
t́nh chống đối chính quyền và phải ra vào tù nhiều lần. Vào tháng
1-1914, Tướng Smuts phải thương lượng với Gandhi và từ từ băi bỏ hết các
bộ luật kỳ thị người Ấn như luật thuế thân.
Người tù Gandhi đă thành công - mặc dầu chỉ tương đối - trong việc bảo
vệ nhân phẩm của dân Ấn tại Nam Phi. Giữa tháng 7-1914, ông từ giă Nam
Phi đi thăm Anh quốc rồi hồi hương về Ấn Độ. Tưởng cũng cần kể lại một
câu chuyện đă xảy ra trong gia đ́nh Gandhi vào tháng 10-1901 ở Nam Phi.
Tại Natal, bà Kasturbhai muốn giữ lại số vàng ngọc mà thương gia Ấn tặng
ông bà để ghi ơn, nhưng Gandhi cực lực phản đối. Ông ra lệnh là phải trả
lại tất cả các tặng phẩm cho người Ấn ở địa phương để tổ chức Nghị Viện
Ấn Độ Natal của họ có quỹ hầu tiến hành những công tác chống lại các dự
luật bất công của chính quyền.
Trở
về Ấn Độ ngày 9-1-1915, Gandhi cảm thấy xa lạ với đất mẹ của ḿnh. Ấn Độ
nằm dưới ách thống trị của Anh quốc là một đất nước hấp dẫn đối với ông
từ xa, nhưng khi đặt chân lên Ấn Độ th́ ông chưa biết ḿnh phải làm ǵ.
Người dân Ấn đón chào ông một cách hoan hỉ nhưng họ không biết ông có
thể giúp đỡ được ǵ cho họ; một số trí thức và giới vương giả Ấn lại tỏ
vẻ dè dặt đối với nhân vật nổi loạn Gandhi. Theo lời đề nghị của Gokhale
- một người bạn cũng được xem là vị cố vấn chính trị - Gandhi bỏ nhiều
thời giờ đi khắp Ấn Độ để t́m hiểu dân t́nh; ông biết là chỉ khi nào ông
thấu hiểu được thực trạng của nhân dân th́ ông mới biết là ḿnh có thể
giúp được ǵ cho họ.
Vào
tháng 6-1916, Gandhi được mời nói chuyện tại lễ khai trương Đại Học Ấn
Giáo Benares (Benares Hindu University). Trước mặt đại diện chính quyền
đế quốc và các nhân vật vương giả Ấn đầy quyền hành, Gandhi khuyên sinh
viên nên học hỏi tiếng Ấn thay v́ Anh văn: ‘Ngôn ngữ của chúng ta phản
ảnh bản thân chúng ta, và nếu các bạn bảo tôi là ngôn ngữ của chúng ta
quá nghèo nàn không thể tŕnh bày những tư tưởng cao cả nhất, th́ tôi
nói là chúng ta nên tự diệt càng nhanh chừng nào càng tốt chừng đó!’
(Our language is the reflection of ourselves, and if you tell me our
languages are too poor to express the best thoughts, then I say that the
sooner we are wiped out of existence the better of us!). Sau đó ông tấn
công thành phần vương giả giàu có và kết án là ngọc ngà châu báu của họ
đến từ hành động cướp của dân nghèo; ông kêu gọi họ nên mở kho ra để
phân phát cho bần dân.
Đại
diện chính quyền đế quốc và quan khách vương giả bỏ ra về trước khi
Gandhi kết thúc bài nói chuyện của ông. Sau bài diễn văn đó, chính quyền
đô hộ và thành phần vương giả Ấn khinh bỉ Gandhi, nhưng nhiều tổ chức và
đại học lại muốn ông đến chia xẻ quan điểm của ông với họ; giấy mời từ
khắp nơi gởi đến ông tới tấp. Gandhi bắt đầu mang trên vai nhiệm vụ đánh
thức dân tộc Ấn để họ nhận thức được là họ phải thay đổi từ cách sống
đến tinh thần hầu có thể nắm lấy quyền lực chính trị trong tay, nếu
không th́ họ luôn luôn là những nạn nhân tự nguyện của sự đàn áp
(willing victims of oppression).
Vào
tháng 12 năm đó, Gandhi dự hội nghị của Nghị Viện Quốc Gia Ấn (Indian
National Congress). Vai tṛ của ông đối với tổ chức Nghị Viện trong giai
đoạn này không có ǵ đáng kể, nếu không nói là những nhân vật có ảnh
hưởng trong tổ chức như Tilak, Jinnah, và Besant (một phụ nữ cách mạng
gốc Anh) lúc đó xem thường ông. Tại hội nghị này, Gandhi gặp Rajkumar
Shukla, một đại diện của nông dân Champaran. Shukla tham dự hội nghị với
trọng trách tŕnh bày thực trạng bất công ở Champaran và yêu cầu tổ chức
Congress giúp đỡ. Rất tiếc là Shukla không có ảnh hưởng chính trị cho
nên không ai thực sự chịu lắng nghe kiến nghị của ông - ngoại trừ Gandhi
vốn không có việc ǵ để làm lúc đó.
Tại
vùng Champaran, giới địa chủ Anh với sự giúp đỡ của chính quyền đô hộ
cướp đoạt ruộng đất và bắt dân địa phương trồng tỉa cho họ với đồng
lương chết đói. Song song, dân địa phương c̣n phải đóng cho bọn địa chủ
một loại thuế lạ đời gọi là abwabs mỗi lần có giỗ chạp, cưới gả, hay tậu
ghe, ngựa, v.v. Nông dân Champaran sống rất cực khổ và thỉnh thoảng họ
biểu t́nh đ̣i cải cách nhưng không thành công. Vào tháng 12-1916, nông
dân vô danh Rajkumar Shukla lặn lội đi xin tổ chức Nghị Viện giúp đỡ;
nhưng không ai chịu lắng tai nghe lời kể lể của ông. Gandhi ban đầu cũng
không tin Shukla và chỉ hứa suông là ông sẽ giúp sau khi được nh́n thấy
tận mắt sự bất công - sự trợ giúp này có thể sẽ không bao giờ xảy ra bởi
v́ Gandhi chưa từng nghe đến địa danh Champaran và ông cũng c̣n nhiều
việc quan trọng hơn để làm. Nhưng sự van nài kiên nhẫn của Shukla khiến
Gandhi không thể từ chối.
Ngày 10-4-1917, Gandhi đi thẳng đến Muzaffarpur - nơi nông dân đang nổi
loạn chống lại bọn địa chủ. Sau khi trực diện với thực trạng cực khổ của
giới bần nông, Gandhi họp tất cả luật sư và thành phần trí thức địa
phương lại để giúp ông trong việc thâu thập các bằng chứng hầu kiến nghị
(petition) lên chính quyền. Có người phàn nàn là chiến lược của Gandhi
khó thực hiện được bởi v́ các luật sư giàu có không thể kiên nhẫn vào tù
phỏng vấn nông dân đang bị bắt một cách miễn phí, một số người khác lại
thấy là công việc này kéo dài quá lâu mà lại không có hiệu quả ngay lập
tức. Gandhi cứ tiếp tục công việc đă được vạch ra; theo ông, nếu cần
cũng có thể tốn hai năm trời để thâu thập bằng chứng.
Gandhi biết là việc ông làm sẽ khiến bọn địa chủ tức tối và họ sẽ t́m
mọi cách để bắt ông hoặc tống xuất ông ra khỏi Muzaffarpur cho nên ông
đă chuẩn bị trước cho nguy cơ bị câu lưu. Ông sắp xếp người thay thế để
tiếp tục thâu nhận và cất giấu chứng cớ sau khi ông bị bắt. Ông cũng gởi
thư kêu gọi sự giúp đỡ của những người có thế lực cũng như chính quyền
đô hộ trung ương. Ông thẳng thắn trao trả lại huy chương vàng Kaisar I
Hin về công tác nhân đạo của ông bởi v́ thấy là ông đang làm việc nhân
đạo cho nông dân Muzaffarpur mà bị cấm đoán.
Cuối cùng th́ Gandhi bị bắt nhưng được cho tại ngoại hầu tra với điều
kiện là phải đóng 100 rupees để thế chân. Ông than là không có tiền th́
lại được Chánh A¨n đổi ư cho kư tên thay tiền, nhưng ông cũng không chịu
kư. Rốt cuộc ông cũng được thả ra chờ ngày hầu ṭa mà không phải kư tên
hay đóng tiền thế chân. Khi được thả ra, ông vẫn tiếp tục làm việc như
cũ mà không tỏ vẻ sợ hăi.
Có
một người Anh tên Charlie Andrews đến giúp đỡ nhóm của ông và ai cũng
muốn Andrews ở lại lâu với họ để làm một tấm chắn hộ mạng cho họ chống
lại chính quyền địa phương. Gandhi bảo Andrews phải lập tức rời khỏi
Muzaffarpur bởi v́ sự hiện diện của Andrews có hại cho tinh thần của
nhóm; họ phải tự rèn luyện ḷng can đảm để có thể làm việc một ḿnh mà
không sợ hăi bạo lực đàn áp của chính quyền địa phương.
Sau
một thời gian làm việc tận tụy, các luật sư dưới sự điều động của Gandhi
thâu thập được khoảng 25000 hồ sơ và tường tŕnh lên chính quyền đô hộ
để đ̣i hỏi họ giải quyết. Đại diện chính quyền, thành phần địa chủ, và
Gandhi sau nhiều ngày thảo luận đă đi đến quyết định là giới địa chủ
phải trả lại cho nông dân 25% số tiền thuế mà họ đă lạm thâu. Chiến
thắng này của Gandhi - được chính thức hóa vào ngày 3-10-1917 - sau sáu
tháng làm việc ngày đêm đưa ông vào vị trí lănh đạo nông dân chống lại
sự đàn áp của giới địa chủ. Một nhân viên thuộc địa Anh tên W.A. Lewis
đă viết về tư cách của ‘vị Thánh’ sau cuộc gặp gỡ Gandhi vào ngày 29-4
để bàn về t́nh trạng của nông dân Muzaffarpur như sau:
‘Chúng ta có thể xem Gandhi như một nhân vật quá lư tưởng, cực đoan, hay
một nhà cách mạng theo ư kiến riêng của chúng ta. Nhưng đối với dân
raiyats ông là người giải phóng họ, và họ xem ông như người có nhiều
quyền phép ngoại hạn. Ông đi qua lại các làng để kêu gọi họ ta thán cho
ông nghe, và ông chuyển hóa óc tưởng tượng của đại đa số ngu dân với
viễn ảnh của ngh́n năm về trước.’
Cuối năm 1917, Gandhi được bà Gangabehn Majmundar tặng một
khung dệt cũ kỹ. Ông bắt đầu tự dệt lấy vải để may áo quần cá nhân, và
phong trào khadi (dệt tại gia) bùng nổ. Các vụ tự nguyện đốt vải vóc
ngoại quốc đă xảy ra ở nhiều nơi để tô điểm thêm cho tinh thần kiên
quyết chống lại chế độ cai trị của thực dân Anh tại Ấn.
Vào tháng 2-1918, Gandhi hướng dẫn cuộc đ́nh công của giới
thợ thuyền tại Ahmedabad. Sau một thời gian không có kết quả, nhiều công
nhân bắt đầu có ư muốn trở lại làm việc. Họ không c̣n tiếp tục tin tưởng
vào Gandhi vốn không có ǵ để mất mà họ th́ có thể bị chết đói. Biết
được ư nghĩ này, Gandhi đă lấy mạng sống của ḿnh ra để bảo vệ sự đoàn
kết của công nhân; ông bắt đầu tuyệt thực cho đến chết, nếu cần thiết,
để chứng minh cho giới công nhân thấy sự hy sinh tuyệt đối của ông cũng
như chứng tỏ với thành phần chủ nhân tinh thần kiên quyết đ́nh công của
giới thợ thuyền. Sau hai ngày tuyệt thực của Gandhi, giới chủ nhân đồng
ư tăng lương 35% cho công nhân; và con người ốm o gầy ṃn Gandhi lại
chiến thắng thêm một lần nữa cho giai cấp bần cùng trong xă hội Ấn.
Vào tháng 3-1919, dự luật ngăn cấm các hành động chống đối
chính quyền thuộc địa được thông qua. Sau khi nghiên cứu hậu quả tác hại
của bộ luật mới, Gandhi - lúc này đă ở trong vị thế lănh đạo nhân dân -
đi đến quyết định phải chống lại ảnh hưởng bất lợi của bộ luật mới. Ông
kêu gọi tổng đ́nh công cả nước (hartal) trong ṿng 48 tiếng đồng hồ bắt
đầu từ ngày 6-4. Cuộc đ́nh công bất bạo động đem đến nhiều cảnh đổ máu
giữa thường dân và lực lượng an ninh thuộc địa. Ở Amritsar, vào ngày
13-4, sĩ quan Anh tên Reginald Dyer ra lệnh cho lính bắn vào đám đông
đang tham dự một buổi lễ của đạo Sikh. Vốn không hiểu được giáo lệ Sikh
quy định là nam giới phải mang dao trong người, Dyer thấy dân mang dao
lại tưởng tượng là họ đang biểu t́nh cho nên ra tay đàn áp; sự tưởng
tượng ngu dốt của Dyer đă làm thiệt mạng 379 nam nữ và trẻ em vô tội
cũng như khiến trên một ngàn người bị trọng thương. Vụ thảm sát Amritsar
đánh dấu sự rạn nứt đầu tiên trong guồng máy thuộc địa Anh tại Ấn Độ.
Lúc đầu khi nghe tin về vụ bắn giết thường dân vô tội ở
Amritsar, Gandhi nghĩ là giới bần dân có lẽ phải bạo động để cho Dyer hạ
lệnh nổ súng. Nhưng khi ông biết rơ vụ thảm sát là kết quả đến từ đầu óc
ngông cuồng của tên sĩ quan thuộc địa, Gandhi kiên quyết phải đấu tranh
trực diện với chính quyền thuộc địa cho sự tự do của dân tộc Ấn. Ông
hoạch định chương tŕnh hành động gồm 4 bước: (1) người Ấn trả lại tất
cả những huy chương, chức tước do chính quyền thuộc địa ban cho; (2) tất
cả luật sư đóng cửa văn pḥng, nhân viên chính quyền từ chức, và cha mẹ
không cho con tiếp tục theo học những trường có sự tài trợ của chính
quyền thuộc địa; (3) tất cả binh lính Ấn trong quân đội thuộc địa giă từ
vũ khí; và (4) toàn thể nhân dân từ chối không đóng thuế cho chính quyền
thuộc địa.
Gandhi bắt đầu được dân Ấn gọi là Thánh. Ông đi đâu cũng
được họ tung hô ‘Vạn tuế Thánh Gandhi’ (Mahatma Gandhi ki jai); nhưng
ông lại muốn họ tung hô ‘Vạn tuế Ấn giáo-Hồi giáo’ (Hindu-Mussulman ki
jai) nhằm tu bổ thêm cho t́nh đoàn kết giữa người Ấn theo Ấn giáo và
người Ấn theo đạo Hồi. [Sự chia rẽ giữa hai nhóm Ấn và Hồi đă đưa đến
cảnh chia ba quốc gia Ấn Độ sau này thành Pakistan, Bangladesh và Ấn
Độ].
Đối diện với phong trào cách
mạng bất bạo động bùng nổ ở nhiều nơi (có chỗ thành viên phong trào
bất-bạo-động đă có nhiều hành động bạo động sát nhân như ở làng Chahuri
Chaura), chính quyền thuộc địa quyết định bắt giữ Gandhi vào ngày
10-3-1922. Ông bị đưa ra xét xử và bị kết án 6 năm tù. Ngày 4-2-1924,
ông được thả ra v́ t́nh trạng sức khỏe yếu kém (ông bị bệnh phải mổ
trước đó một tháng cho nên thành phần lănh đạo chính quyền thuộc địa
không muốn ông chết trong lao tù của họ).
Ngày 26-1-1930, Gandhi kêu gọi dân Ấn treo lá cờ độc lập do
Nghị Viện Quốc Gia Ấn thông qua. Ngày 12-3-1930, Gandhi bắt đầu cuộc
hành tŕnh lấy muối biển để chống lại chính sách độc quyền kiểm soát sự
sản xuất muối của chính quyền thuộc địa. Khởi hành từ Sabarmati, Gandhi
lúc đó đă 61 tuổi mang trên ḿnh mảnh vải che thân theo kiểu người ‘hạ
nhân’ Ấn và cầm khúc gậy đi bộ 380 cây số đến bờ biển Dandi để lấy muối.
Ông xuất hành với dự tính chỉ đi một ḿnh, nhưng dọc đường hàng ngàn
người đă đi theo tạo thành một cuộc trường chinh lấy muối (the Salt
March). Trên đường đi, Gandhi ghé qua các làng xă để nói chuyện với dân
chúng. Ở Bhatgam, ông phát biểu: ‘Chúng tôi tiến bước trong danh nghĩa
Thượng Đế. Chúng tôi hành động thay cho người đói khổ, không manh áo và
không việc làm.’ (We are marching in the name of God. We profess to act
on behalf of the hungry, the naked and the unemployment.’)
Sau khi Gandhi lọc được nắm muối đầu tiên tại bờ biển Dandi,
cả nước Ấn rơi vào cơn sốt lấy muối; đâu đâu cũng thấy người dân thi
nhau lọc lấy muối biển để dùng thay muối của nhà nước thuộc địa. Chính
quyền thuộc địa chưa biết phải phản ứng như thế nào đối với hành động
phản kháng mới này th́ hai sự kiện xảy ra: (i) một số thành viên của tổ
chức cách mạng bạo động Hội Cộng Ḥa Ấn giáo (Hindustan Republican
Association) cướp kho vũ khí ở Chittagong và trốn vào rừng sau khi giết
6 người; và (ii) đội quân thuộc địa gốc Ấn giáo đă từ chối không bắn vào
đoàn người Ấn gốc Hồi giáo biểu t́nh chống chính quyền ở Peshawar. Những
biến chuyển mới này bắt buộc guồng máy thuộc địa phải phản ứng mạnh bắt
đầu với lệnh ngăn cấm báo chí Ấn không được tường thuật về phong trào
chống đối chính quyền thuộc địa.
Gandhi bị bắt vào ngày 4-5-1930. Hai tuần sau, 2500 thành
viên tổ chức Nghị Viện quyết định chiếm lấy cơ sở sản xuất muối
Dharasana một cách bất bạo động. Trong tay không vũ khí, họ sắp hàng đi
bộ vào sở muối và chỉ giơ tay đỡ bá súng của lính. Hai người chết và
khoảng 320 bị lính thuộc địa đánh trọng thương phải đưa vào trạm y tế dă
chiến, nhưng họ vẫn tiếp tục nối bước một cách bất bạo động với mục đích
chiếm lấy sở muối. Cuối cùng v́ không thể tiếp tục đánh đập măi người
tay không, lính thuộc địa xông vào bắt hai người đang chỉ đạo nỗ lực
chiếm sở muối bất bạo động, Sarojini Naidu và Manilal Gandhi (con của
Gandhi). Ấn Độ bùng nổ với nhiều cuộc biểu t́nh ở khắp nơi. Chính quyền
thuộc địa thẳng tay đàn áp và bắt giam khoảng 100000 người.
Ngày 26-1-1931, Gandhi và những lănh tụ của tổ chức Nghị
Viện được phóng thích vô điều kiện. Vào tháng 9 năm ấy, ông đi Luân Đôn
để tham dự Hội Nghị Bàn Tṛn về vấn đề độc lập của Ấn Độ. Mặc dầu hội
nghị không giải quyết được việc ǵ quan trọng, sự hiện diện của Gandhi
là một hiện tượng vĩ đại ở Âu Châu. Dân chúng tuôn ra đường chào đón
ông, và ngay cả những công nhân thất nghiệp cũng ủng hộ ông mặc dầu
chính Gandhi kêu gọi tẩy chay hàng hóa Tây phương; họ nói ‘nếu tôi ở
trong hoàn cảnh của Gandhi tôi cũng kêu gọi như vậy’. Ông viếng thăm
Vatican và bị một cây thánh giá cao hút hồn v́ ông ‘thấy h́nh ảnh của
Jêsus’ (I saw a figure of Chirst there); rất tiếc là Giáo Hoàng Gia Tô
lúc đó từ chối tiếp kiến ông.
Ngày 28-12-1931, Gandhi trở về Ấn và bị bắt một tuần sau đó
ở Bombay. Ông tiếp tục chủ trương chống đối chính quyền một cách bất bạo
động. Theo ông, ‘sự bất tuân luật pháp không những là quyền tự nhiên của
một dân tộc, đặc biệt là khi họ không có tiếng nói hiệu lực trong chính
quyền của họ, mà c̣n thay thế cho bạo lực hay phản kháng vũ trang.’ (I
believe that civil disobedience is not only the natural right of a
people, especially when they have no effective voice in their own
Government, but that it is also a substitute for violence or armed
rebellion).
Ngày 17-8-1932, Thủ Tướng Anh Ramsay MacDonald quyết định
công nhận thành phần ‘hạ nhân’ Ấn như một cộng đồng riêng biệt có quyền
bầu cử và ứng cử riêng rẽ nhằm đào sâu hố ngăn cách xă hội trong âm mưu
‘chia để trị.’ Tại Ấn Độ, truyền thống Ấn giáo lâu đời chia nhân loại ra
làm 4 thành phần: giáo sĩ (Brahman), vua chúa quư tộc (Ksatriya), điền
chủ thương gia (Vaisya), và nô lệ (Sudra); những người không nằm trong
thành phần này là loại ‘hạ nhân’ (Paria) không ai muốn giao thiệp hay
đụng đến (the untouchables). Trong quan niệm cách mạng của Gandhi, ba kẻ
thù chánh là sự nghèo khổ của đại đa số dân Ấn, tệ nạn khinh khi thành
phần ‘hạ nhân’, và guồng máy đô hộ thực dân. Theo ông, ‘sự thống khổ
tinh thần chỉ chấm dứt khi mọi dấu vết của t́nh trạng hạ nhân biến mất’
và ‘.. thà Ấn giáo chết c̣n hơn là t́nh trạng hạ nhân tồn tại.’ (‘The
agony of soul is not going to end until every trace of untouchability is
gone.’ ‘I would far rather that Hinduism died than that untouchability
lived.’) V́ vậy cho nên ông cực lực đả kích quyết định ‘chia để trị’ của
MacDonald và bắt đầu cuộc tuyệt thực mới để phản đối.
Chính sự tuyệt thực của ông đă đánh thức dân Ấn theo Ấn
giáo. Các nhà thờ mở rộng cửa đón nhận thành phần hạ nhân vào làm lễ mà
không đặt bất cứ điều kiện nào. Chính quyền thuộc địa bắt đầu tham khảo
ư kiến của đại diện giới hạ nhân để sửa đổi quyết định của MacDonald.
Sau khi họ đi đến thỏa thuận cải cách quyết định chia để trị th́ sức
khỏe của Gandhi rất yếu; họ vội vă đưa bản thảo đến cho ông xem. Gandhi
phủi tay bảo là họ phải đem đến cho Ambedkar - đại diện giới hạ nhân -
cho vị này tham khảo và chấp thuận trước.
Ngày 8-5-1933, Gandhi được thả ra và rồi bị bắt lại ba tháng
sau đó. Ông bắt đầu tuyệt thực bởi v́ cai tù theo lệnh chính quyền cấm
không cho ông tiếp tục làm việc trong tù cho thành phần hạ nhân. Sức
khỏe của ông quá kém cho nên ông được đưa vào bệnh viện cứu dưỡng; sau
đó chính quyền phải phóng thích ông bởi v́ nếu ông bị chết trong tù th́
họ sợ bị cả thế giới lên án.
Ngày 8-8-1942, tổ chức Nghị Viện với ư kiến ‘cố vấn’ của
Gandhi thông qua nghị định ‘Quit India’ [Rời Ấn Độ] nhằm kêu gọi chính
quyền Anh rút lui. Gandhi ở tuổi 73 lănh đạo cuộc tổng phản kháng bất
bạo động toàn quốc với khẩu hiệu ‘Do or Die’ [Hành Động hay Hy Sinh] (We
shall either free India or die in the attempt). Chính quyền thuộc địa
vội vă bắt giữ Gandhi để khống chế phong trào chống đối; nhưng lần này
ông được đối xử rất tử tế hơn những lần đi tù trước. Vợ của ông qua đời
vào ngày 22-2-1944, và ông được thả ra vào tháng 5 cùng năm.
Là người muốn thấy một quốc gia Ấn Độ độc lập không chia rẽ
cho nên Gandhi phản đối tất cả những ai chủ trương chia hai Ấn Độ. Rất
tiếc cho ông là đại diện Hồi giáo Ấn Ali Jinnah chỉ muốn làm lănh tụ của
một quốc gia riêng biệt cho nên không có ư định thương lượng để bảo tồn
biên thùy Ấn Độ. Gandhi - một người theo Ấn giáo - rất rộng lượng cho
nên đề nghị là Ấn Độ có thể được lănh đạo bởi một chính quyền Hồi giáo
hầu Ấn Độ không bị chia đôi; nhưng ư kiến của ông bị thành viên tổ chức
Nghị Viện theo Ấn giáo phủ quyết.
Tổ chức Nghị Viện đồng ư với kế hoạch của Luân Đôn phân chia
Ấn Độ ra thành ba quốc gia: Ấn Độ, Tây Pakistan, Đông Pakistan (đă đổi
tên thành Bangladesh từ năm 1971). Khi Nghị Viện đồng ư chia ba Ấn Độ,
Gandhi rất đau ḷng nhưng vẫn kêu gọi dân Ấn phải ủng hộ quyết định của
Nghị Viện. [Gandhi ước mơ sau này ông sẽ có dịp tiến hành một cuộc
trường chinh khác vào hai vùng Pakistan để kêu gọi dân ở đây trở lại với
Ấn Độ, nhưng rất tiếc là ông bị ám sát trước khi có thể hoàn thành
nguyện vọng này.]
Vào tháng 8-1946, Nehru - một thành viên tổ chức Nghị Viện
rất tận tụy với Gandhi - được Thống Đốc Anh mời đứng ra thành lập chính
quyền lâm thời để Anh quốc có thể sắp xếp việc rút lui. Ước mơ một Ấn Độ
độc lập của Gandhi được thành tựu, nhưng ông lại phải đối đầu với các
vấn đề khó khăn khác. Lúc này hai vùng Pakistan chưa được công nhận cho
nên lănh tụ Hồi giáo Ấn Ali Jinnah đưa ra chương tŕnh ‘Direct Action’
[Hành Động Trực Tiếp] để khoanh vùng tự trị bằng cách giết hại các gia
đ́nh theo Ấn giáo ở Pakistan. Cuộc tàn sát tập thể bắt đầu, và dân Ấn
giáo lẫn dân Hồi giáo vô tội bị giết hại mà không ai có khả năng chấm
dứt cuộc săn người rùng rợn (riêng chỉ ở thành phố Calcutta đă có 5000
người chết trong ṿng 4 ngày). Quân đội trở nên bất lực trước sự khát
máu của con người bị điên loạn trong danh nghĩa tôn giáo. Cả Ấn Độ chỉ
có một người nắm giữ lương tâm của cả dân tộc và có thể chấm dứt cuộc
tàn sát tập thể này. Người đó là Gandhi và vũ khí của ông là t́nh thương
yêu tất cả mọi người bất kể tôn giáo hay đẳng cấp xă hội.
Ngày 1-9-1947, Gandhi bắt đầu tuyệt thực ở Calcutta để tái
lập ḥa b́nh. Tin tức về Gandhi đang tuyệt thực để chịu chết cho sự điên
loạn của dân Ấn khiến họ bắt đầu suy nghĩ về các hành động dă man của
họ. Người theo đạo Hồi bắt đầu tự hỏi là nếu Gandhi qua đời th́ không
c̣n ai thực sự bảo vệ họ, và chắc chắn là họ sẽ bị đại đa số dân theo Ấn
giáo nghiền nát. Người theo Ấn giáo lại sợ phải chịu trách nhiệm về cái
chết của Gandhi - người đă tận tụy hy sinh cả cuộc đời để giành lại độc
lập cho quốc gia. Cuối cùng hai bên Ấn Hồi quyết định từ bỏ vũ khí và
chấm giứt giết hại lẫn nhau.
Mặc dầu t́nh trạng tàn sát tập thể không c̣n xảy ra nhưng
bầu không khí thù nghịch giữa dân Hồi giáo và Ấn giáo vẫn c̣n tồn tại.
Gandhi quyết định tuyệt thực ở Delhi vào ngày 13-1-1948 cho đến chết để
yêu cầu dân Ấn bất kể tôn giáo phải bắt tay đoàn kết. Sức khỏe của ông
rất yếu kém vào lúc này; ông đă bắt đầu nói sảng trong giấc ngủ. Thành
viên của tất cả các tổ chức tôn giáo ở Delhi đă v́ mạng sống của Gandhi
mà gạt bỏ qua mọi sự khác biệt và cùng kư vào tuyên cáo là họ sẽ chung
sống trong ḥa b́nh cũng như hứa bảo vệ thiểu số dân theo Hồi giáo.
Tuyên cáo này ra đúng lúc mà t́nh trạng sức khỏe của Gandhi đă đi tới
mức nguy hiểm (năm ngày sau khi ông bắt đầu tuyệt thực); may mắn là ông
đă hồi phục tương đối không khó khăn lắm.
Ngày 20-1-1948, một quả bom ám sát Gandhi nổ tung gần ṭa
nhà ông ở nhưng ông vẫn b́nh tĩnh không tỏ vẻ lo ngại. Ngày 30-1-1948
trong khi Gandhi đang đi đến nơi cầu nguyện th́ bị Nathuram Godse bắn
chết. Godse là người theo Ấn giáo cực đoan và quyết định ám sát Gandhi
v́ nghĩ là ông thương dân Hồi giáo quá mức. Khi Gandhi qua đời, gia tài
vật chất của ông không có ǵ; nhưng h́nh ảnh cụ già ở chung với giới
nghèo khổ, che mảnh vải thô kiểu ‘hạ nhân’, cầm cây gậy đuổi thực dân
Anh luôn luôn in rơ trong óc người dân Ấn, và gia tài tinh thần của ông
với tư tưởng bất bạo động Ahimsa trở thành một tư tưởng quư báu trong
kho tàng văn hóa của nhân loại.
Vài trang giấy trên không đủ để diễn tả hết được tất cả
những khía cạnh vĩ đại của cuộc đời Gandhi. Từ một luật sư thành công
giàu có ở Nam Phi, ông đă chấp nhận hy sinh cho dân tộc. Ông vui vẻ sống
chung với thành phần ‘hạ nhân’ để xóa tan chế độ giai cấp trong xă hội
Ấn, đi xe lửa th́ luôn luôn lấy vé hạng bét để được tâm t́nh với người
nghèo, từ chối quà cáp và khuyên người tặng nên đem cho dân nghèo, che
mảnh vải thô của người ‘hạ nhân’ để đánh thức lương tâm dân tộc Ấn,
chống gậy đi bộ hàng trăm cây số để đuổi thực dân Anh, tuyệt thực đến
chết để đoàn kết dân tộc, v.v. Tất cả các hành động của Gandhi đều phản
ảnh sự tin tưởng của ông là chỉ có t́nh thương, chứ không phải sức mạnh
bạo lực, có thể giải phóng con người mà không làm tiêu tan tiềm lực quốc
gia vốn cần thiết để giúp xây dựng đất nước sau khi giành lại được độc
lập. Sách lược duy nhất của Gandhi là tư tưởng bất bạo động Ahimsa. Phần
kế tiếp sẽ phân tích tư tưởng Ahimsa.
Ahimsa hay Tư Tưởng Bất Bạo Động
Triết
thuyết Ahimsa của Gandhi là triết thuyết bất bạo động, và ông chủ trương
áp dụng bất bạo động trong mọi lănh vực quốc gia. Việc diễn tả triết
thuyết này một cách toàn vẹn không đơn giản bởi v́ chính Gandhi cũng
từng thú nhận: ‘Không ai có thể diễn tả Thượng Đế một cách đầy đủ. Việc
diễn tả bất bạo động cũng như vậy.’ Tuy vậy, Ahimsa có thể được định
nghĩa tạm như là tư tưởng bất bạo động hướng dẫn con người hành xử theo
t́nh thương người với sự can đảm cá nhân vượt bực. T́nh thương người và
ḷng can đảm cá nhân chính là hai bửu bối quan trọng của người thi hành
bất bạo động. ‘Lưỡi kiếm của bất bạo động là t́nh thương và sự quả quyết
không thể lay chuyển.’
Sách lược bất bạo động khác với chủ trương phản kháng tiêu
cực (passive resistance). Phản kháng tiêu cực là vũ khí của thành phần
yếu không có khả năng tài trợ bạo lực nhưng không từ chối việc sử dụng
bạo lực khi điều kiện cho phép. Trong khi đó, sách lược Ahimsa là vũ khí
của thành phần mạnh nhất, có ư chí cao nhất và hoàn toàn không chấp nhận
việc dùng bạo lực trong mọi hoàn cảnh. Bất bạo động lúc nào cũng hơn
phản kháng vũ lực và có thể giải quyết tất cả các khó khăn; tuy vậy, bất
bạo động không thể được sử dụng để bảo vệ các chủ trương sai lầm.
Gandhi tin tưởng tuyệt đối vào sự thành công của đường lối
bất bạo động. Theo ông, không có vấn đề thua thiệt trong bất bạo động.
Bất bạo động sẽ không bị thất bại nếu là bất bạo động thật sự; và chỉ có
những kẻ giả mạo bất bạo động mới gặp thất bại. Gandhi cho biết là suốt
nửa thế kỷ của cuộc đời, ông chưa bao giờ trải qua một hoàn cảnh nào mà
ông không thể giải quyết bằng phương pháp bất bạo động. Ï Đối với ông,
Ahimsa là một tín điều cho nên ông luôn luôn áp dụng bất bạo động khi
làm việc một ḿnh hay với bạn đồng hành. Đối với Gandhi, nhiệm vụ tuyên
truyền cho Ahimsa là mục đích của cuộc đời cho nên ông chủ trương phải
sử dụng bất bạo động trong mọi hoàn cảnh. Ông tin rằng khi việc thực
hiện bất bạo động trở thành phổ cập khắp vũ trụ th́ Thượng Đế sẽ cai trị
ở mặt đất như trên thiên đàng.
Trong biên thùy của thế giới bất bạo động, mọi suy tư đều có
giá trị và mọi tiếng nói thật sự đều có giá trị. Gandhi quan niệm rằng
chúng ta có thể sẽ không bao giờ đủ mạnh để hoàn toàn trở thành bất bạo
động trong ư nghĩ, lời nói và hành động; nhưng chúng ta phải giữ bất bạo
động như mục đích của cuộc đời và tiến hóa dần dần về hướng bất bạo
động. Sự vinh đạt tự do - của con người, quốc gia hay thế giới - phải
tương xứng với khả năng hành xử bất bạo động của mỗi cá nhân.
Satyagraha
Khi áp dụng triết thuyết Ahimsa vào thực tế th́ sức mạnh
ṇng cốt của Ahimsa là Satyagraha. ‘Satyagraha là nắm lấy sự thật hay
chân lư cho nên có nghĩa là Sức Mạnh Chân Lư (truth-force). Chân Lư là
linh hồn hay tinh thần. V́ vậy cho nên (Satyagraha) cũng được biết dưới
danh nghĩa Sức Mạnh Linh Hồn (soul-force). (Satyagraha) không chấp nhận
việc sử dụng bạo lực bởi v́ con người không có khả năng biết được chân
lư tuyệt đối cho nên không đủ tư cách để xử phạt (người khác).’
Sức Mạnh Chân Lư cung cấp cho nhân dân tinh thần can đảm
chấp nhận hy sinh để phản đối những chính sách bất công của chính quyền,
và chấp nhận hy sinh để bất hợp tác với chính quyền trên tất cả mọi
phương diện cho đến khi Chân Lư chiến thắng, tức là chính quyền phải
thay đổi chính sách bất công. Satyagraha tiến hóa từ từ, và người chấp
nhận theo sách lược bất bạo động phải biết kiên tâm và có ḷng trắc ẩn
để tránh lỗi lầm. Sự kiên tâm đ̣i hỏi ư chí sẵn sáng hy sinh, và ḷng
trắc ẩn thương người sẽ dẫn đến chiến thắng của Chân Lư bằng sự thiệt
hại cá nhân chứ không phải bằng sự thiệt hại của địch nhân.
Bạo lực đàn áp của đối thủ càng dữ dội th́ sự kiên tâm hy
sinh càng cao độ. Con người càng hy sinh một cách tự nguyện ở mức độ cao
th́ chắc chắn họ có thể đạt được thành công. Theo Gandhi, ‘.. according
to the science of Satyagraha, the greater the repression and lawlessness
on the part of the ruling authority, the greater should be the suffering
courted by the victims. Success is the certain result of suffering of
the extremest character, voluntarily undergone.’
Bạo Lực và Bất Bạo Động
Bất bạo động không đồng nghĩa với sự hèn nhát; song song, có
những hành vi dùng vũ lực được xem như là hành vi bất bạo động. Nếu chỉ
phải chọn lựa giữa tư thế hèn nhát để từ chối cứu người hoạn nạn và hành
động bạo lực để cứu người th́ Gandhi sẵn sàng dùng bạo lực để cứu người.
Bất bạo động không bao giờ được dùng như một b́nh phong để che đậy sự
hèn nhát. Ông thà thấy ‘Ấn Độ dùng vũ khí để bảo vệ danh dự quốc gia hơn
là hèn nhát’ để mất danh dự (‘I would rather have India resort to arms
in order to defend her honour than that she should in a cowardly manner
become or remain a helpless witness to her own dishonour.’)
Hành vi bất bạo động cũng có mức độ bởi v́ đôi khi hành động
tự vệ bằng vũ khí cũng có thể được xem là bất bạo động. Theo Gandhi, nếu
một người cầm kiếm đánh một ḿnh với một đám giặc cướp vơ trang đến tận
răng th́ tôi nên nói ông ta đánh một cách bất bạo lực (non-violently).
Chẳng lẽ tôi chưa từng nói với giới phụ nữ của chúng ta là, nếu phải bảo
vệ danh dự của họ th́ họ dùng móng tay và răng và cả dao găm, tôi xem
hành động của họ là bất bạo lực? Cô gái chưa biết sự khác biệt giữa
himsa (bạo động) và ahimsa (bất bạo động). Cô gái phản ứng tự nhiên. Thí
dụ một con chuột dùng mơm bén để chống lại một con mèo, anh có thể nói
con chuột là dữ tợn (violent) hay không? Tương tự như vậy, người Ba-Lan
can đảm chống đối những đoàn quân Đức với lực lượng đông hơn nhiều, vũ
khí và sức mạnh quân sự (hơn họ nhiều), (hành động của người Ba-Lan) gần
như [almost] vô bạo lực...’ Như vậy th́ một hành động tùy trường hợp có
thể được xem là hành vi bất bạo động hay là hành vi bạo động.
Rèn Luyện Nhân Tố
Sự thành công của tất cả các sách lược quốc trị đều nằm ở
yếu tố con người. Con người là tụ điểm ṇng cốt của mọi đường lối b́nh
định quốc gia. Gandhi không quên nhấn mạnh việc xây dựng nhân tố bất bạo
động bởi v́ Ahimsa không thể được rao giảng mà phải được thực hành.
Theo ông, bất bạo động không thể tồn tại nếu không có sự tu thân
(self-purification).
Nhân tố bất bạo động chân chính là kẻ yêu thương đồng loại
cho nên sẽ dệt vải cho dân thiếu áo cũng như trồng tỉa để gia tăng sản
lượng thực phẩm nhằm đối đầu với sự đe dọa của cái đói.Ạ Muốn thi hành
bất bạo động th́ nhân loại phải biết thay đổi để yêu thương mọi người kể
cả đối phương bởi v́ trong quyển tự điển bất bạo động không có danh từ
kẻ thù.Ạ Chúng ta không thể theo bất bạo động nếu giữ thế im lặng hay
trở thành khán giả tiêu cực trong khi kẻ đối nghịch đang bị người khác
đánh chết; chúng ta phải bảo vệ hắn bằng mọi giá kể cả phải hy sinh mạng
sống của ḿnh.
T́nh thương yêu nhân loại của người theo bất bạo động là
t́nh thương bao la vô tận; nếu c̣n ḷng kiêu căng và vị kỷ th́ không bao
giờ có bất bạo động. Gandhi khuyên mọi người hăy can đảm và thương yêu
đồng hương cũng như đối thủ theo gương Phật Thích Ca và Chúa Jêsus:
Bất bạo động không phải là tấm b́nh phong để treo lên hay hạ
xuống tùy ư. Theo Gandhi, chỗ ngồi của Ahimsa ở trong tim và phải là một
phần không thể tách rời khỏi sự hiện hữu của chúng ta. Ahimsa vốn là
một phẩm chất của con tim cho nên không thể đến từ sự khêu gợi bộ óc, và
nếu bất bạo động không hấp dẫn trái tim của chúng ta th́ chúng ta đừng
nên theo.
Nếu con tim c̣n bạo tính th́ tốt nhất là nên hành sử bạo
động hơn là giả vờ theo bất bạo động để che giấu tinh thần yếu kém hay
vô nghị lực. Bạo lực luôn luôn hơn sự vô nghị lực. Người bạo động có thể
theo bất bạo động, nhưng kẻ vô nghị lực th́ hết hy vọng.Ạ Gandhi suy
luận rằng không có ǵ tệ hại bằng b́nh phong bất bạo động giả tạo của kẻ
yếu hèn và thiếu nghị lực.
Trong bất bạo động, con người hành xử theo sức mạnh của
Thượng Đế chứ không phải sức mạnh cá nhân. V́ vậy, cội rễ của bất bạo
động nằm ở sự cầu nguyện. Người thi hành bất bạo động cầu nguyện Thượng
Đế giúp đỡ chống lại sự độc ác của bạo lực đối lậpẠ cho nên họ phải tin
tưởng tuyệt đối vào Thượng Đế; người vô thần khó thi hành bất bạo động.
Thượng Đế có thể được gọi bằng bất cứ tên nào (Thiên Chúa, Trời, Rama,
v.v.) nếu phản ảnh xác thực Luật của Sự Sống.
Mười lăm (15) điều tâm niệm
của một người hành động theo tinh thần bất bạo động bao gồm:
1. Không bao giờ
tức giận.
2. Chấp chận chịu
đựng đau khổ đến từ sự tức giận của địch thủ.
3. Chấp nhận sự
đánh đập của đối thủ mà không đánh trả, nhưng sẽ không đầu hàng bởi v́
bị đối thủ trừng phạt.
4. Chấp nhận bị
bắt giữ và không chống đối khi tài sản bị chính quyền tước đoạt.
5. Khi phải giữ
tài sản cho người khác th́ không thể để bị cướp đi và phải tận lực bảo
vệ tài sản đó cho đến chết, nhưng không bao giờ đánh trả lại.
6. Chủ trương
không đánh trả, không trả thù bao gồm thái độ không chửi bới nguyền rủa.
7. Không chửi rủa
đối thủ.
8. Không chào cờ
đế quốc Anh nhưng cũng không chửi rủa nhân viên chính quyền dù họ là
người Ấn hay dân Anh.
9. Phải sẵn sàng
hy sinh bảo vệ nhân viên chính phủ khi họ bị chửi bới hay đánh đập.
10. Khi ở tù th́
tôn trọng cai tù và chấp hành các luật lệ đúng với lương tâm, nhưng
không thể chấp nhận những việc có thể hạ thấp nhân phẩm.
11. Ở trong tù th́
xử sự như mọi tù nhân khác mà không tự xem ḿnh quan trọng hơn. Có quyền
đ̣i hỏi cai tù ban phát thêm phương tiện cho đời sống tinh thần và sức
khỏe cá nhân.
12. Ở trong tù,
không nên tuyệt thực để đ̣i hỏi thêm phương tiện không cần thiết cho
nhân phẩm.
13. Khi hành động
th́ vui vẻ tuân theo hiệu lệnh của trưởng nhóm ngay cả khi không đồng ư
với hiệu lệnh.
14. Lập tức thi
hành hiệu lệnh mặc dầu không đồng ư, rồi sau này mới kháng nghị lên cấp
trên. Khi không đồng ư với đường lối của tổ chức th́ có thể rút lui;
nhưng khi c̣n ở trong tổ chức th́ không được làm trái điều lệ của tổ
chức.
15. Không đ̣i hỏi
cho gia đ́nh của ḿnh được chăm sóc mà chỉ tin tưởng vào sự trợ giúp của
Thượng Đế.
Kẻ chờ thời hay đón gió để hành động không phải là người
thực sự thi hành đúng đường lối bất bạo động. Người theo bất bạo động
không thể chỉ chờ đợi cho đến khi các điều kiện trở nên hoàn hảo mới
hành động, mà ngược lại phải hành động với bất cứ vật nào trong tay.
Song song, bất bạo động không phải là cái vỏ che chở kẻ nhát gan mà là
phẩm chất cao quư nhất của người can đảm. Ḷng nhát gan hoàn toàn trái
ngược với bất bạo độngẠ và không bao giờ song hành với bất bạo động như
nước khắc lửa.
Người thi hành bất bạo động là người sẵn sàng hy sinh cả
mạng sống của ḿnh để bảo vệ sự thật. ‘Sự hy sinh mạng sống cho sự thật
chính là chánh điểm của bất bạo động.’ Người thi hành bất bạo động không
bao giờ chạy trốn sự hiểm nghèo khi hành động một ḿnh hay chung với
người khác và nhất quyết hoàn thành trách nhiệm ngay cả khi phải hy sinh
mạng sống cá nhân. Người thi hành bất bạo động phải sẵn sàng hy sinh
với nụ cười trên môi mà không có ư trả thù hay ư oán thù trong tim. Một
vài người nghĩ sai là sách lược bất bạo động chỉ có nghĩa là đi tù, hay
là bị đánh đập nhưng không c̣n ǵ hơn nữa; theo Gandhi, phương pháp bất
bạo động loại này không đem lại độc lập cho quốc gia. Muốn giành được
độc lập quốc gia th́ người thi hành bất bạo động phải học hỏi cách dấn
thân hy sinh mạng sống cá nhân mà không sát hại đối phương.
Gandhi quan niệm là chừng nào chúng ta c̣n giữ gươm giáo hay
vũ khí th́ chúng ta c̣n sợ hăi. Sự sợ hăi ngoại nhân hay đối phương là
cội rễ của ḷng căm thù. Khi không c̣n sợ hăi th́ không c̣n căm thù. V́
vậy chúng ta phải thay đổi nếu muốn thay đổi ngoại nhân hay đối phương;
nếu chúng ta không c̣n yếu hèn th́ ngoại nhân hay đối phương không thể
hơn chúng ta. Vũ khí của ngoại nhân hay đối phương không thể làm cho
chúng ta sợ hăi; do đó chúng ta không có nhu cầu cần đến gươm giáo hay
vũ khí (để chống lại ngoại nhân hay đối phương bởi v́ chúng ta không c̣n
sợ sự đàn áp của họ).
Nhân Dân và Sách Lược Bất Bạo Động
Lư tưởng bất bạo động không phải chỉ giành cho một thiểu số
- thánh nhân và tiên tri - mà là cho tất cả mọi người. Với bất bạo động,
đại đa số nhân dân có một vũ khí hữu hiệu có thể giúp trẻ con, đàn bà,
ông già ốm yếu chống đối lại một chính quyền vô nhân mạnh bạo nhất; nếu
tinh thần của người dân mạnh th́ cái yếu về thể lực không c̣n là một bất
lợi.
Gandhi quan niệm rằng nhân phẩm được bảo vệ tốt nhất bằng
cách phát triển khả năng không trả thù thay v́ khả năng phá hoại. Theo
ông, nếu có thể dạy triệu người về hắc thuật bạo động vốn là luật của
loài dă thú, th́ cũng có thể dạy triệu người về nghệ thuật bất bạo động
vốn là luật của người tái sinh. Ông tin tưởng rằng bất bạo động có thể
được mọi người thực hiện nếu họ được huấn luyện và hướng dẫn chính xác.
Là con người thực tế, Gandhi biết là một đạo quân của những
người hoàn toàn bất bạo động sẽ không bao giờ tồn tại, nhưng có thể được
tổ chức với những người thành thật cố gắng tôn trọng bất bạo động. Nhân
dân phải được hướng dẫn để từ bỏ bạo lực bằng phương pháp bất bạo động.
Sự căm thù có thể được chinh phục bằng t́nh thương. Sự ‘căm thù ngược
lại’ (counter-hatred) chỉ gia tăng mặt nổi và độ sâu của sự căm thù.
Bản chất thú vật của nhân loại là bạo động, nhưng tinh thần
của nhân loại th́ bất bạo động. Vào giây phút mà nhân loại thức tỉnh để
hành xử theo tinh thần bất bạo động nội tâm th́ họ không thể tiếp tục
bạo động nữa. Gandhi suy luận rằng bất cứ giây phút nào chúng ta quyết
định không tiếp tục làm nô lệ th́ gông cùm sẽ tan ră bởi v́ tự do và nô
lệ là trạng thái tinh thần. V́ vậy cho nên việc đầu tiên chúng ta phải
làm là tự bảo bản thân: ‘Tôi sẽ không tiếp tục làm nô lệ. Tôi sẽ không
chấp nhận mệnh lệnh theo kiểu nô lệ và sẽ chống lại những mệnh lệnh trái
với lương tâm cá nhân.’ Kẻ tự cho ḿnh là chủ nhân ông có thể đánh đập
và bắt buộc chúng ta phục vụ. Chúng ta sẽ từ chối: ‘Không, tôi sẽ không
hầu hạ ông v́ tiền hay v́ bị đe dọa.’ Việc này có thể đem đến sự đau khổ
bản thân nhưng ḷng kiên tâm chấp nhận đau khổ của chúng ta sẽ đốt lên
đuốc lửa tự do khó có thể bị dập tắt.
Khi được hướng dẫn đúng đắn để sử dụng t́nh thương một cách
can đảm nhằm chinh phục ḷng căm thù th́ mọi người đều có thể thi hành
bất bạo động. Bất bạo động chính là vũ khí hữu hiệu nhất của những người
khốn khổ yếu ớt dùng để cải cách các chính sách hà khắc của một chính
quyền bất nhân. Nếu nhân dân được tổ chức và hướng dẫn hành xử bất bạo
động một cách hiệu quả th́ họ sẽ trở thành sức mạnh vô biên có thể cải
cách vạn sự mà không phá hủy cơ sở quốc gia vốn rất cần thiết cho nỗ lực
canh tân đất nước sau này.
Cách Mạng Bất Bạo Động
Trong lănh vực quốc trị, khi luật pháp của chính quyền thiếu
công bằng, người dân có nhiệm vụ vạch ra các lỗi lầm để chính quyền sửa
đổi. Tuy nhiên, khi chính quyền không chịu sửa đổi lỗi lầm th́ sách lược
bất bạo động đ̣i hỏi người dân phải chấp nhận hy sinh để chống lại những
bộ luật sai trái bằng hành động vi phạm luật pháp một cách bất bạo động
và yêu cầu được xử phạt nặng nhất. Người đứng bên ngoài có thể xem việc
cố ư vi phạm những luật lệ bất công là trọng tội, nhưng đây là phương
pháp sử dụng t́nh thương để thay đổi các chính sách bất công. Kẻ nắm độc
quyền sinh sát trong quốc gia có thể đưa ra pháp luật và không tuân theo
tinh thần luật pháp cũng như trốn tránh h́nh phạt khi phạm luật, nhưng
chiến lược bất bạo động bắt buộc người theo nó phải chấp nhận - chứ
không chạy trốn - các h́nh phạt thảm khốc đến từ hành động vi phạm luật
pháp bất công.
Tương tự như Triết gia Socrates ở Hy Lạp, Gandhi chủ trương
là con người phải tôn trọng luật pháp. Nhưng khi đối đầu với luật lệ bất
công, sai trái với lương tâm, con người chấp nhận hy sinh để không thi
hành luật lệ đó; và nếu sự bất tuân đó sẽ dẫn đến h́nh phạt th́ con
người phải chấp nhận h́nh phạt một cách tự nguyện để chứng tỏ với chính
quyền sự phản kháng kịch liệt của ḿnh đối với luật lệ sai trái.
Để đạt đến mục đích khai phóng dân tộc, nhà ái quốc phải nêu
kiến nghị đ̣i hỏi chính quyền thay đổi theo quyền lợi dân tộc. Có hai
sức mạnh có thể ủng hộ kiến nghị và bắt buộc chính quyền phải tuân hành.
Sức mạnh thứ nhất là bạo lực vốn có thể đe dọa là sẽ nghiền nát chính
quyền nếu chính quyền không chịu thay đổi; và kết quả là chiến tranh sẽ
xảy ra để đem đến sự đau khổ cho nhân dân. Sức mạnh thứ hai là sức mạnh
t́nh thương hay Sức Mạnh Chân Lư yêu cầu chính quyền phải thay đổi để
khai phóng dân tộc; nếu không th́ chính quyền sẽ mất tư thế lănh đạo bởi
v́ nhân dân sẽ bất hợp tác để không chấp nhận sự lănh đạo của chính
quyền. Chính quyền chỉ có thể lănh đạo quốc gia khi nhân dân chấp nhận
sự lănh đạo của chính quyền. Vai tṛ của nhân dân - chứ không phải vai
tṛ của chính quyền - trở thành tối cao trong quốc gia. ‘Sự bất tuân
luật pháp không những là quyền tự nhiên của một dân tộc, đặc biệt là khi
họ không có tiếng nói hiệu lực trong chính quyền của họ, mà c̣n thay thế
cho bạo lực hay phản kháng vũ trang.’ (I believe that civil disobedience
is not only the natural right of a people, especially when they have no
effective voice in their own Government, but that it is also a
substitute for violence or armed rebellion).
Phương tiện cải cách cũng quan trọng không kém ǵ cứu cách.
‘Trong bất bạo động, cứu cánh và phương tiện đều phải rơ ràng và công
bằng’. Theo Gandhi, con người không thể vinh danh Thượng Đế bằng những
hành động của quỷ Satan. Hai người có cùng một mục đích như nếu có hai
phương tiện thi hành khác nhau th́ kết quả đạt được cũng khác nhau.
Trong sách Indian Home Rule, Gandhi có bàn về trường hợp tống xuất một
tên trộm. Câu hỏi được đặt ra là ‘Có phải dùng bạo lực để tống xuất tên
trộm đi hay không?’ Ông đưa ra hai phương pháp giải quyết. Cách thứ nhất
là dùng vũ khí để chống đối lại với tên trộm; phương pháp này sẽ khiến
tên trộm trang bị vũ khí cho lần cướp sau và như thế sẽ có đổ máu. Cách
thứ hai là đối thoại với tên trộm, t́m hiểu tại sao hắn lại làm như vậy,
t́m việc làm cho hắn để hắn không phải đi ăn cắp nữa; phương pháp này sẽ
giáo hóa tên trộm và giúp cho xă hội có thêm được một thành viên tốt.
Hai phương pháp để giải quyết một vấn đề có thể đem đến hai kết quả khác
nhau;Ạ do đó Gandhi chủ trương là con người phải cẩn thận khi chọn lựa
phương tiện để đạt đến mục đích hầu không trở thành nô lệ của quỷ Satan.
Cách mạng bất bạo động không phải là một sách lược cướp đoạt
chính quyền mà là một sách lược chuyển hóa các tương quan trong xă hội
và kết thúc bằng cuộc thuyên chuyển quyền chính trị một cách ḥa b́nh.Ạ
Gandhi biết là tiến tŕnh bất bạo động có vẻ chậm chạp vô cùng, nhưng
ông quả quyết rằng ‘kinh nghiệm dạy cho tôi biết rằng đó là phương pháp
chắc chắn nhất để đạt đến mục đích chung.’
Gandhi quan niệm là nỗ lực chính trị (cách mạng) phải được
đánh giá dựa trên sự ích lợi của nó và không thể bị lẫn lộn với hay dính
dáng đến nỗ lực cải tạo kinh tế. ‘Nỗ lực nâng cao đời sống kinh tế không
thể chứa đựng mục tiêu chính trị như là một động cơ kín đáo.’ Khi người
ta lẫn lộn vấn đề chính trị và vấn đề kinh tế th́ khó mà có thể giải
quyết các trở ngại quốc gia tận gốc rễ. Đường lối cải cách thiên kinh tế
không thể giải quyết được các vấn đề chính trị; và ngược lại, th́ phương
pháp chính trị không nhất thiết có thể giải quyết được các khó khăn kinh
tế.
Nhân loại chỉ có thể đạt được tự do công bằng với sức mạnh
nội tâm, bằng cách xóa bỏ đẳng cấp trong xă hội, và đoàn kết tất cả các
thành phần trong xă hội. Sự chia rẽ đẳng cấp sẽ phân tán lực lượng quốc
dân mà không đem lại lợi lộc nào cho nỗ lực cải cách các chánh sách hà
khắc của chính quyền. Bất bạo động đ̣i hỏi cán bộ ṇng cốt phải tận tụy
và can đảm hy sinh để đoàn kết quốc dân bằng t́nh thương yêu nhân loại.
Những điều kiện cần thiết cho sự thành công của sách lược
bất bạo động là:
1. Người
thi hành bất bạo động không có ḷng căm thù kẻ đối lập của ḿnh.
2. Vấn
đề cần giải quyết phải thật sự minh chánh và quan trọng.
3. Người
thi hành bất bạo động phải sẵn sàng hy sinh cho đến khi thành công.
Khi c̣n ḷng căm thù th́ con người khó đoàn kết với nhau
cũng như không thể thi hành bất bạo động đúng đắn, và nếu thiếu ḷng can
đảm hy sinh th́ không bao giờ đạt được mục tiêu cải cách. Song song, nếu
vấn đề cần được cải cách là việc không có tầm quan trọng cần thiết th́
nỗ lực cách mạng của con người sẽ bị hoang phí vô ích.
Nguyên lư tiên quyết của tiến tŕnh bất bạo động là sự từ
chối cộng tác với tất cả các động lực lăng nhục (con người) bởi v́ ‘bất
hợp tác với kẻ ác độc là trách nhiệm cao cả.’ Người thi hành bất bạo
động cũng có thể dùng đến phương pháp tuyệt thực trong nỗ lực cách mạng
nhưng chỉ sử dụng phương pháp này như là vũ khí cuối cùng khi tất cả các
phương pháp giải quyết khác đă thất bại. Khi tuyệt thực th́ phải chấp
nhận hy sinh mạng sống mà không ước mơ là sự tuyệt thực của ḿnh có thể
đem đến những kết quả đ̣i hỏi; ‘người nào tuyệt thực với ước vọng thành
công th́ sẽ bị thất bại. Và ngay cả khi không thất bại, hắn cũng đánh
mất hạnh phúc nội tâm của cuộc tuyệt thực chân thành.’
Khi bàn về tổ chức cách mạng, Gandhi phản đối đường lối
thành lập các hội kín để tiến hành bất bạo động. Theo ông, không tổ chức
bí mật, dẫu lớn cỡ nào, làm được việc ǵ hữu dụng. Sự bí mật chỉ có chủ
đích xây cất bức tường bảo vệ cá nhân. Bất bạo động khinh thường sự bảo
vệ này và hành xử trong thanh thiên bạch nhật bất kể các khó khăn cùng
cực. V́ vậy cho nên Gandhi khuyên chúng ta khi tổ chức một dân tộc đang
bị thống trị bạo tàn (nhằm đem lại sự tự do hạnh phúc cho mọi người) th́
nên theo đường lối tổ chức minh bạch dựa hoàn toàn trên sự thật. Ông
nói: ‘Tôi không thích các hành động kín đáo. Triệu triệu người dân không
thể nằm vùng (hành động kín đáo) và không cần làm như vậy.’
Dân Quyền và Cơ Chế Quốc Gia Lư Tưởng
Trong
quốc gia dân chủ, theo Gandhi, con người trước khi nghĩ đến ‘quyền’ th́
phải nghĩ đến ‘nhiệm vụ’. ‘Quyền thật sự đến từ kết quả thi hành nhiệm
vụ’ (‘Real rights are a result of performance of duty’). Con người luôn
luôn đ̣i hỏi quyền lợi cá nhân nhưng hiếm ai chịu suy nghĩ đến việc thi
hành nhiệm vụ công dân của họ, tức là lo cho quyền lợi tập thể. Nếu ai
cũng nghĩ đến quyền lợi cá nhân th́ người nào sẽ cung cấp những quyền
lợi đó cho họ? Tài sản quốc gia chỉ có giới hạn mà ḷng tham của nhân
loại th́ vô đáy. Do đó nếu muốn đạt được quyền lợi thực sự th́ con người
phải biết thi hành nhiệm vụ công dân. ‘Quyền mà không đến từ nỗ lực hoàn
thành trách nhiệm th́ không đáng để có.’
Quốc gia lư tưởng theo Gandhi là một đất nước phản ảnh trung
thực nhu cầu của dân tộc. Ông không muốn chính quyền Ấn Độ độc lập bị
dính cái vết nhơ của guồng máy thư lại thuộc địa với những bất công của
nó như tham nhũng, kỳ thị nông dân, o bế thành phần vương giả giàu có
cũng như đám dân quân thuộc địa Anh.
Ông mong ước một chính quyền với những lănh tụ có khả năng
và kinh nghiệm với một hệ thống quản trị đơn giản. Chính quyền phải chú
trọng vào việc phát triển nông thôn, nơi đại đa số dân Ấn đang sống lầm
than hầu như bị bỏ quên bởi chính quyền trung ương đóng neo trong các
pḥng ốc tráng lệ ở thành phố. Chính quyền đơn giản th́ có thể phản ứng
lẹ làng hơn đối với các vấn đề cấp bách của quốc gia. Và nếu chính quyền
chú trọng vào việc phát triển nông thôn th́ đời sống của đại đa số nhân
dân sẽ khá hơn; có được như thế th́ quốc gia mới giàu nổi.
Chính quyền phải quản trị quốc sự theo ư dân, và nhân dân có
quyền thay đổi chính quyền khi họ bất tín nhiệm sự lănh đạo của chính
quyền. Gandhi không muốn chính quyền bị một đảng chính trị ảnh hưởng lâu
dài; chính ông cũng không muốn tổ chức Nghị Viện Quốc Gia Ấn - vốn được
thành lập với chủ trương giành độc lập - biến thành một đảng chính trị
sau khi Ấn Độ được độc lập. Chính trị thường đi đôi với tệ nạn chia chác
quyền lợi và có thể hủ hóa con người.
Gandhi muốn xây dựng một xă hội thật sự công bằng mà không
ai có thể c̣n bị xem là hạng ‘hạ nhân’ (the untouchables). Mọi công dân
phải được b́nh đẳng trong nhiệm vụ và quyền lợi; không ai có quyền kỳ
thị người khác với bất cứ lư do ǵ. Vai tṛ của chính quyền rất quan
trọng trong lănh vực này; chính quyền phải ngăn cấm các chính sách hay
phong tục kỳ thị con người. Song song, chính quyền c̣n phải cố gắng giảm
thiểu tối đa hố cách biệt giữa người nghèo và kẻ giàu. Quyền lợi kinh tế
phải được chia sẻ đồng đều cho mọi công dân trong quốc gia.
Nữ phái phải được tôn trọng
trong xă hội và được b́nh quyền với nam phái. Chính quyền cũng phải lo
cho quyền lợi của thiếu niên vốn là tương lai của quốc gia. Mọi h́nh
thức cưới hỏi trẻ em vị thành niên phải bị khai trừ. Là người đă phải
thành hôn lúc 12 tuổi, Gandhi khinh tởm tục lệ lâu đời này và xem nó như
một mắt xích gông cùm xiềng chặc dân tộc Ấn vào sự nghèo khổ.
Cả đời của Gandhi tận tụy hy sinh cho một quốc gia Ấn độc
lập, tự do và hạnh phúc. Ông xây dựng quốc gia lư tưởng của ông trên
trang giấy như sau:
’Tôi sẽ tranh đấu cho một Ấn Độ trong đó thành phần nghèo nhất cũng
có thể cảm thấy đó là quốc gia của họ mà trong đó họ có tiếng nói hiệu
lực; một Ấn Độ mà trong đó không có giới thượng lưu hay giới hạ lưu. Một
Ấn Độ mà trong đó tất cả các cộng đồng đều chung sống tuyệt đối dung
ḥa. Trong quốc gia Ấn Độ đó tệ nạn hạ nhân hoặc say sưa và nghiện ngập
không tồn tại. Nữ giới có cùng quyền hạn như nam giới. Bởi v́ chúng ta
có ḥa b́nh với cả thế giới, không bóc lột hay bị bóc lột, chúng ta sẽ
có một đội quân ít người nhất. Tất cả các quyền lợi, bất kể là của ngoại
quốc hay của quốc gia, không đi ngược lại quyền lợi của triệu triệu ngu
dân sẽ được tôn trọng một cách chu đáo. Đây là Ấn Độ trong giấc mơ của
tôi.’
Gandhi hy vọng toàn thể nhân dân sẽ thi hành bất bạo
động để thương yêu lẫn nhau nhằm tương thân tương trợ trong việc xây
dựng gia đ́nh hạnh phúc và quốc gia dân chủ phú cường. Chính quyền dân
chủ là một giấc mơ xa vời nếu bất bạo động không được công nhận như sức
mạnh thực thể, như một tín điều không thể bị vi phạm, chứ không phải chỉ
là một chính sách hời hợt. Ông suy luận rằng ‘thiếu sự công nhận bất
bạo động trên b́nh diện quốc gia th́ chính quyền hiến pháp hay dân chủ
khó tồn tại.’
Chính quyền thực sự dân chủ và biết chăm lo cho đời sống
nhân dân th́ không thể đàn áp người vô tội chỉ v́ họ có ư kiến khác với
chính quyền. ‘Tự do dân chủ trở thành thất kính khi bàn tay của chính
quyền dính đầy máu của dân vô tội.’ Gandhi cũng so sánh chủ trương bất
bạo động v́ nhân dân của ông và mô h́nh Xă Hội Chủ Nghĩa kiểu Cộng Sản;
ông viết ‘mục đích (Xă Hội Chủ Nghĩa kiểu Cộng Sản) là sự tiến bộ vật
chất. Trong Xă Hội Chủ Nghĩa của họ không có tự do cá nhân. Bạn không
làm chủ ǵ kể cả thân thể của bạn. Bạn có thể bị bắt bất cứ lúc nào ngay
cả khi bạn không phạm tội ǵ. Họ có thể đày ải bạn đi bất cứ nơi nào.
Tôi là người theo Xă Hội Chủ Nghĩa trước khi đa số họ (đảng viên Cộng
Sản Ấn) chưa ra đời. Quan niệm của tôi vẫn tồn tại khi Xă Hội Chủ Nghĩa
của họ bị đào thải... Tôi không muốn tiến hóa trên đống tro tàn của kẻ
mù, người điếc và dân ngu... Tôi muốn được tự do bày tỏ cá tánh riêng...
Xă Hội Chủ Nghĩa của tôi có nghĩa là quốc gia không làm chủ tất cả.’
Gandhi từng tiếp xúc với phong trào Cộng Sản và cảm thấy
rằng nó không giải quyết được các vấn đề quốc gia cũng như khiến cho con
người bị rơi vào ṿng nô lệ mới của Moscow sau khi vượt khỏi cái hố nô
lệ thuộc địa. ‘Tôi có nhiều bạn trong giới Cộng Sản. Một số được coi như
là con trai của tôi. Nhưng họ có vẻ không biết phân biệt giữa sự công
bằng và sự điên rồ, sự thật và giả dối... Họ h́nh như nhận lệnh thẳng từ
Nga Sô, một đất nước được họ xem như là tổ quốc tinh thần thay v́ (quốc
gia của họ). Tôi không thể chấp nhận t́nh trạng lệ thuộc một thế lực bên
ngoài.’
Tựu trung, cơ chế quốc gia trong nhăn quan của Gandhi là một
cơ chế chính trị dân chủ mà trong đó mọi người đều b́nh đẳng như nhau và
có đầy đủ quyền tự do phát triển khả năng cá nhân. Chính quyền phải chăm
lo cho đời sống của nhân dân, thay v́ thiểu số liên hệ đảng phái cầm
quyền.
Không một đảng phái nào có thể ảnh hưởng cơ chế chính phủ
lâu dài, và nhân dân có quyền thay đổi chính phủ khi họ bất tín nhiệm
chính phủ. Chính quyền phải chú tâm nâng cao đời sống của nhân dân và
phải quản trị đất nước theo ư dân nhằm bảo vệ sự tự do của nhân dân.
Quốc gia không thể đạt được độc lập, tự do và hạnh phúc thực sự khi mà
người dân bị chính quyền đàn áp dă man bởi v́ họ dám can đảm đưa ra
những ư kiến khác với đường lối ‘chung’ của thành phần lănh đạo quốc
gia.
Kết Luận
Trong những nhà cách mạng cận đại hiếm ai có đầy đủ tư cách
của một Thánh Nhân như Gandhi. Con người lư tưởng nhưng thực tế của
Gandhi đă vạch ra cho thành phần nghèo khổ trong xă hội phương pháp cải
tổ chính quyền chỉ bằng sự kiên tŕ bất hợp tác - một vũ khí mà ai cũng
có. Ông đem niềm hy vọng đến cho đại đa số ngu dân vốn đă mất hết hy
vọng v́ bị bỏ quên bởi những nhà chính trị tiếm danh sống xa thực trạng
cực khổ của nhân dân.
Ahimsa là tư tưởng bất bạo động hướng dẫn con người xử sự
theo t́nh thương người với sự can đảm cá nhân vượt bực. T́nh thương
người và ḷng can đảm cá nhân chính là hai bửu bối quan trọng của người
thi hành bất bạo động. ‘Lưỡi kiếm của bất bạo động là t́nh thương và sự
quả quyết không thể lay chuyển.’ Ḷng căm thù có thể được chinh phục
bằng t́nh thương. Sự ‘căm thù ngược lại’ (counter-hatred) chỉ gia tăng
mặt nổi và độ sâu của ḷng căm thù. Khi c̣n ḷng căm thù th́ con người
khó đoàn kết với nhau cũng như không thể thi hành bất bạo động đúng đắn,
và nếu thiếu ḷng can đảm hy sinh th́ không bao giờ đạt được mục tiêu
cải cách.
Sách lược bất bạo động khác với chủ trương phản kháng tiêu
cực (passive resistance). Phản kháng tiêu cực là vũ khí của thành phần
yếu không có khả năng tài trợ bạo lực nhưng không từ chối việc sử dụng
bạo lực khi điều kiện cho phép. Trong khi đó, sách lược Ahimsa là vũ khí
của thành phần mạnh nhất, có ư chí cao nhất và hoàn toàn không chấp nhận
việc dùng bạo lực trong mọi hoàn cảnh. Bất bạo động không đồng nghĩa với
sự hèn nhát; không có ǵ tệ hại bằng b́nh phong bất bạo động giả tạo của
kẻ yếu hèn và thiếu nghị lực. Người thi hành bất bạo động là người sẵn
sàng hy sinh cả mạng sống của ḿnh để bảo vệ sự thật. ‘Sự hy sinh mạng
sống cho sự thật chính là chánh điểm của bất bạo động.’ Người thi hành
bất bạo động không bao giờ chạy trốn sự hiểm nghèo khi hành động một
ḿnh hay chung với người khác và nhất quyết hoàn thành trách nhiệm ngay
cả khi phải hy sinh mạng sống cá nhân. Người thi hành bất bạo động phải
sẵn sàng hy sinh với nụ cười trên môi mà không có ư trả thù hay ư oán
thù trong tim.
Sức mạnh ṇng cốt của Ahimsa trong thực tế là Satyagraha.
Satyagraha là nắm lấy sự thật hay chân lư cho nên có nghĩa là Sức Mạnh
Chân Lư (truth-force). Sức Mạnh Chân Lư cung cấp cho người dân sự can
đảm chấp nhận hy sinh để phản kháng chống lại những chính sách bất công
của chính quyền, và chấp nhận hy sinh để bất hợp tác với chính quyền
trên tất cả mọi phương diện cho đến khi Chân Lư chiến thắng, tức là
chính quyền phải thay đổi chính sách bất công. ‘Trong bất bạo động, cứu
cánh và phương tiện đều phải rơ ràng và công bằng’. Phương tiện cải cách
cũng quan trọng không kém ǵ cứu cách; phương tiện xấu hay hành động bất
nhân khó có thể bảo đảm thành quả tốt đẹp. Nhân loại không thể xây dựng
được một cơ chế tốt đẹp bằng phương pháp tàn bạo. Gandhi suy luận rằng
nhân loại phải có lư tưởng tốt và luôn luôn hành động tốt mới có thể đạt
được chủ đích tốt; hành động xấu sẽ làm hoen ố mục đích tốt.
Mọi người đều có thể thi hành bất bạo động chứ không phải
chỉ riêng một thiểu số cá nhân đa tài. Nếu tinh thần của con người mạnh
th́ cái yếu về thể lực hay vật chất không c̣n là một bất lợi cản trở nỗ
lực cải cách chính sách quốc gia. Với bất bạo động, đại đa số nhân dân
nắm giữ một vũ khí hữu hiệu có thể giúp họ chống đối lại bạo lực vô nhân
và thành công trong việc cải tạo xă hội.
Tựu trung, chủ thuyết của Gandhi bao gồm bốn điểm chánh: (1)
suy nghĩ và hành động theo Chân Lư hay Sự Thật; (2) hành động phải bất
bạo động; (3) chấp nhận hy sinh cho Chân Lư; và (4) luôn luôn hành động
tốt theo Chân Lư. Chỉ có Thượng Đế mới biết được Chân Lư hay Sự Thật và
có khả năng trừng phạt con người; nhân loại không đủ khả năng hiểu biết
hoàn toàn Chân Lư cho nên không thể trừng phạt những người có quan điểm
bất đồng. Gandhi không định nghĩa Chân Lư, và ông chỉ biết đi t́m Chân
Lư bằng các hành động cụ thể với mục đích đem lại công bằng cho mọi
người bất kể giàu nghèo, sang hèn. Chân Lư hay Sự Thật sẽ khai phóng
nhân loại. Phương pháp t́m kiếm Chân Lư của ông là phương pháp thiên về
xă hội-chính trị, và cũng không phải là phương pháp duy nhất bởi v́ con
người cũng có thể tự đi t́m lấy Chân Lư qua tôn giáo hay khoa học.
Gandhi chú trọng vào nỗ lực
khai phóng đời sống thực tại của nhân loại dựa trên nền tảng t́nh thương
cho nên ông chủ trương bất bạo động (bởi v́ bạo động th́ có thể gây ra
đổ máu mà con người không biết được Chân Lư tuyệt đối cho nên không thể
trừng phạt kẻ đối lực). Và khi đă quyết định hành động theo Chân Lư để
công bằng hóa xă hội, Gandhi chấp nhận hy sinh ngay cả mạng sống của
ḿnh. Sự hy sinh của Gandhi không phải để trừng phạt kẻ đối lực (thí dụ
như ‘tôi thề sống chết cùng anh’) mà là để làm rạng rỡ Chân Lư. Một khi
đă phấn đấu cho Chân Lư th́ Gandhi quan niệm rằng mọi hành động phải
phản ảnh t́nh thương nhân loại và giá trị của mục đích cho nên chỉ có
những phương pháp tốt mới đáng được áp dụng nhằm đạt được mục tiêu tốt.
Hành động xấu hay tàn bạo chỉ làm lu mờ Chân Lư. Dùng bạo lực để khai tử
bạo lực th́ khó có thể xây dựng một tân chính quyền nhân bản.
Với chủ trương Bất Bạo Động, Gandhi đă thành công trong nỗ
lực tháo bỏ gông cùm nô lệ cho dân tộc Ấn và b́nh đẳng hóa xă hội (mặc
dầu là thành quả về phương diện này bị giới hạn nhiều sau khi ông qua
đời). Sau khi Gandhi ra đi, một đồng nghiệp (co-worker) của ông tên
Vinoba Bhave cũng cố gắng nối tiếp bước ông để nâng cao đời sống nhân
dân. Vào tháng 4-1951, Bhave đi từ làng này qua làng khác để kêu gọi
giai cấp địa chủ tặng ruộng đất cho giới vô sản. Phong trào Boodan Yagna
(Tặng Đất) nổi lên một thời gian rồi ch́m lặng vào quên lăng bởi v́
thiếu sự hỗ trợ tinh thần thánh thiện của Gandhi. Với cái chết của
Gandhi, Ấn Độ mất đi vị Cha Già Quốc Gia (Father of the Nation) và nhân
loại mất đi một vị Thánh cao quư.
Dương Thành Lợi: Triết Lư
Quốc Trị Đông Phương, tr. 379-444
|