Lời
Giới Thiệu
Trong
quyển này, tôi đi sâu vào các đạo
giáo, và các Mật tông, Mật giáo trong thiên
hạ. Tôi thấy Đạo nào cũng có
phần Công Truyền và phần Mật
Truyền. Công Truyền là phần hiển
lộ cho quần chúng. Phần Mật
Truyền th́ dành để cho thánh hiền.
Hai phần Công và Mật có thể đi song
song với nhau, như ở Á Đông hay tách
rời là hai phần đối lập nhau, như
ở phương Tây. Tôi nhận ra rằng,
Đạo nào về phần Mật Truyền
cũng chủ trương Thuyết Thiên
Địa Vạn Vật đồng nhất
thể. Con người phát sinh từ
Trời, lúc chung cuộc lại trở về
với Trời. Con người như vậy
đều phải tiến tới Chân,
Thiện, Mỹ. Con người lúc chung
cuộc sẽ trở thành Trời thành
Phật.
Thế là tôi đă t́m ra được con
đường t́m đạo, t́m trời
của Người xưa. Như vậy Đại
đạo chính là tinh hoa các đạo giáo:
Đại đạo chính là Thuyết Thiên
Địa vạn vật đồng nhất
thể. Nó kêu gọi chúng ta đi sâu vào
nội tâm mà t́m Đạo, t́m Trời.
Đó chính là con đường tâm linh duy
nhất đưa ta về với Đạo
với Trời. Tŕnh bày học thuyết này
một cách cô đọng, ta thấy nó có
những chủ trương chính yếu sau
đây:
1.- Vũ trụ này là sự h́nh hiện,
hiển dương của một Đại
Thể linh minh, huyền diệu bất
khả tư nghị. Nói cách khác, vũ
trụ quần sinh này không phải là đă
được tạo dựng nên bởi
một vị Thượng Thần quyền uy
vô hạn, mà đă do một Đại
Thể phóng phát tán phân ra mà thành.
2.- V́ Đại Thể nói trên đă lấy
chính Bản thể ḿnh để h́nh
hiện, biến hóa ra vũ trụ hữu h́nh
này, nên tất cả quần sinh trong vũ
trụ này đều cùng nhau chia sẻ
Bản Thể siêu việt nói trên. V́ thế
mới nói là Thiên địa vạn vật
đồng nhất thể, hay Nhất tức
Nhất Thiết; Nhất Thiết tức
Nhất: Một là Tất Cả; Tất
Cả là Một.
3.- Cái Đại Thể vô biên tế,
bất khả tư nghị ấy, sau này
được hài danh bằng nhiều cách,
được gọi, được tả
bằng nhiều tên như Hư, Không, Vô
Cực, Thái Cực, Đạo, Chân Như, Chân
Tâm, Trời, Thượng Đế, Allah,
Ahura Mazda, Yahveh, Adonai, Brahman, Atman, En-Sof hay
Bản Thể. Xin nói ngay rằng Bản
thể trên không phải là vị Thượng
Thần hữu ngă (Dieu personnel) mà là một
vị Thượng Thần vô ngă (Dieu
impersonnel).
4.- Vũ trụ quần sinh hay chúng sinh
được bao quát bằng danh từ
Hiện Tượng.
5.- Như vậy vũ trụ quần sinh
đa tạp này có hai phương diện:
a).- Phương diện Bản Thể
thời đồng nhất bất phân, siêu
xuất biến thiên, siêu xuất sinh tử,
siêu xuất không gian, thời gian; siêu
xuất thiện ác, siêu xuất trên các h́nh
danh, sắc tướng. Aị Đông xưa
c̣n gọi đó là cơi Niết Bàn trường
sinh, bất tử, hạnh phúc vô biên.
b).- Phương diện Hiện Tượng
thời đa tạp, nằm trong ṿng biến
thiên tương đối; chịu sự chi
phối của không gian thời gian, có
hiện, có biến, tức là có sinh, có
tử, ở trong ṿng h́nh danh, sắc tướng,
và lúc nào cũng va chạm với những
cặp mâu thuẫn như thiện ác,
thị, phi. V́ ở trong ṿng Aẹm Dương
tương đối, nên cũng c̣n gọi
là cơi luân hồi, sinh tử, biến thiên,
đau khổ.
6.- Tất cả các hiện tượng tuy
biến thiên, nhưng luôn luôn được
chi phối bởi những định
luật vĩnh cửu như Tụ, Tán, Văng
Lai, Thuận Nghịch, Hỗ Tương
Ảnh Hưởng; Hỗ Tương Sinh Hóa.
7.- Vũ trụ quần sinh, tuy biến thiên
đa tạp, nhưng v́ đă sinh xuất
từ một Bản Thể, nên lúc chung
cuộc lại trở về hợp nhất
với Bản Thể nói trên. Nói thế có
nghĩa là vũ trụ này biến hóa theo
định luật tuần hoàn. Người
xưa gọi thế là 'Nhất Tán Vạn,
Vạn Qui Nhất' hay 'Thiên Địa
tuần hoàn chung nhi phục thủy. Nói cho
dễ hiểu: Chúng ta sinh xuất từ
Trời, và lúc chung cuộc phải trở
về với Trời.
Hegel mô tả đại khái như sau: Tinh
Thần thoạt kỳ thủy xuất phát
để phá tán vào vạn vật, rồi
qua nhiều thời kỳ văn minh, nhiều
chặng đường lịch sử
vất vả, lại phục hồi
được chân thể, về được
với Thượng đế. Trong con người
rơ ràng có 2 chiều biến chuyển:
-Tiêu (Catabolism) Chiều thuận.
-Tức (Anabolism) Chiều nghịch.
“Đi theo chiều thuận, trong th́ bị
thất t́nh, lục dục làm mê muội, ngoài
th́ bị trăm điều, ngh́n việc
quấy đảo tâm thần, lấy giả
làm chân, lấy tà làm chính, lấy khổ làm
vui, cứ bị lôi cuốn theo dục
vọng, cho đến khi tiêu hao hết tinh
thần.
Người đại trí, đại tuệ
đi theo chiều nghịch sẽ thoát ṿng
kiềm tỏa của các định luật
tạo hóa, sẽ không c̣n bị âm dương
nung nấu, không c̣n bị vạn vật lôi
cuốn, dùng đời để tu đạo,
lấy nhân đạo để chu toàn Thiên
Đạo. Nghịch đây là trở về
với Tuyệt đối Thể y như
một kẻ bỏ nhà ra đi thật xa xôi,
nay trở lại nhà. Tuy gọi là
“Nghịch Hành”, nhưng thực là đi
theo đúng lẽ Trời, đó là “cái
đại thuận” trong cái nghịch.
Nghịch đây bất quá là đi ngược
với đường lối của thế
nhân thông thường.” Sau khi đă tŕnh bày
xong thế nào là Vạn Vật Đồng
Nhất Thể, tôi đi vào các tôn giáo và các
Mật Tông trong Thiên Hạ. Tôi đi vào Tây
Phương trước rồi sang Trung Đông
rồi sang Á Châu.
Trước hết là Công Giáo. Công giáo không
hề phân biệt Chân Truyền và Mật
Truyền. Công truyền là tôn giáo dành cho
quần chúng, th́ không có ǵ là cao siêu xa
vời. Phần mật truyền là phần do
các Đại thánh truyền thụ, như
Jean, như Paul, như Augustin, nhu Jean de la Croix,
như Thérèse D’Avila v.v... Và do các ḍng
khổ tu, như Benedictins, như Carmel v.v...
Phần mật truyền th́ giống như các
đạo giáo Á Đông. Tôi đă chứng
minh được rằng các ngài chủ trương:
- Thượng Đế là Bản Thể muôn
loài.
- Thượng đế hay Bản Thể
bất khả tư nghị ấy đă phóng
phát ra muôn loài chứ không phải là Tạo
dựng bởi không.
- Thượng Đế là cốt lơi, là Tâm
Điểm muôn loài.
- Muốn t́m Thượïng Đế phải
t́m nơi đáy ḷng.
- Mục đích của công phu tu luyện là
kết hợp Nhất Như với Thượng
đế.
Sau đó tôi chứng minh thêm rằng:đạo
nội tâm là con đường của
hiền thánh muôn thủa muôn phương. Tôi
trích dẫn đời sống của các
Triết gia Hi Lạp với các Triết Gia
Ấn độ và Trung Hoa cho thầy họ
hết sức giống nhau. Và tôi muốn
chứng minh rằng: Thuyết Thiên địa
Vạn vạt đồng nhất thể
với các hệ luận của nó như:
1/ Vũ trụ hữu h́nh này là những phân
thể của một Toàn Thể, đă
được phóng phát, tán phân ra.
2/ Như vậy, vạn hữu đồng căn,
dị dạng, nhất thể vạn thù. 3/
Thượng đế tiềm ẩn trong ḷng
quần sinh, vũ trụ.
4/ Giác ngộ là biết rằng ḿnh có
bản thể Thượng đế, có tính
Trời.
5/ T́m trời, t́m Đạo phải t́m trong
ḷng, phải đi vào nội tâm.
6/ Lúc chung cuộc vạn vật sẽ siêu thăng,
trở về với Thượng Đế.
Như vậy, chung cuộc là ḥa hợp.
7/ Vũ trụ, lịch sử chuyển hóa 2
chiều, văng lai, thuận nghịch, thành
một chu kỳ. (Cyclical Conception of History)
Tôi lại đem sánh nó với Thuyết Sáng
Tạo của Công giáo, như sau:
Thuyết Sáng Tạo (Creationism) 1/ Vũ
Trụ hữu h́nh này là do quyền năng
của Thượng đế sáng tạo ra
từ Không.
2/ Vạn hữu dị thể, dị
dạng, và hoàn toàn khác nhau từ căn
cốt.
3/ Thượng đế siêu việt và tách
ra khỏi vạn hữu.
4/ Mạc khải là tin theo giáo hội
rằng Thượng đế là đầu
và cùng sau hết mọi sự.
5/ T́m Trời, t́m Đạo phải t́m trong
nhà thờ, nhà thánh và qua các phép Bí Tích.
6/ Chung cuộc là phán xét, và tan vỡ kinh hoàng
(Tận thế).
7/ Lịch sử, vũ trụ và con người
biến hóa một chiều theo đường
thẳng (Linear Conception of History).
Tôi thấy thuyêt Thiên Địa Vạn
Vật đồng nhất thể mới
đích thực là thứ Triết học
bất biến vĩnh cửu của nhân
quần (Philosophia perennis: Perennial Philosophy).
Về Do Thái Giáo th́ Công truyền và mật
tông hoàn toàn khác nhau. Mật Tông Do Thái là
Kaballa. Kaballa chủ trương Vũ trụ
này do một Bản Thể sinh xuất ra
(Ein-sof). Cốt lơi con người chính làThượng
Đế (Yod, He, Vau, He). Và các lớp lang h́nh
tướng bên ngoài của vũ trụ th́
y như là Những lớp vỏ áo phủ bên
ngoài Thượng Đế. Lúc chung cuộc,
Thượng Đế sẽ rũ bỏ
những lớp áo lớp vỏ bên ngoài và
hiện ra trong vinh quang.
Sau đó tôi tŕnh bày về Huyền Môn
cổ Ai Cập.
Hai quyển Asclepios cùng với Pimandre là hai
bộ sách do Hermes chép ra. Sách này ghi chép
những lời mà Hermes dạy đệ
tử ông là Asclepios. Sách Asclepios dạy con người
phải biết căn cơ, cốt cách ḿnh,
phải học biết những phương
thức để sống phối kết
với thần linh.
...Con người giác ngộ sẽ thấy
trời ngự trị trong tâm khảm ḿnh,
biết rằng ḿnh đă từ một
thực thể tuyệt đối, duy
nhất phóng phát ra, biết rằng trong ḿnh
có một phần chính cái sức thiêng cai
quản vũ trụ.
...Con người có bổn phận sống
thuận theo Trời, phối kết với
Trời, ḥa đồng với vạn
hữu...
...Đối với người Ai Cập xưa,
th́ vạn vật, bằng nhiều đường
lối khác nhau sẽ đạt tới cùng
một mục đích: Trở thành Osiris,
trở thành Thần minh...
Nghĩa là chúng ta ai cũng có thể trở
thành thần linh. trở thành Thần Linh, th́
phải biết rung đông theo nhịp điệu
thần linh.
Sau đó tôi sang Mật Tông Tam Điểm. Tôi
sẽ dùng tượng h́nh của môn phái này
để soi sáng cho chúng ta về thuyết
thiên địa vạn vật nhất
thể. Đại Tự-Điển Tam Điểm
nhận định về thuyết thiên địa
vạn vật nhất thể như sau:
“Học thuyết PHÓNG PHÁT là một học
thuyết thịnh hành trong nhiều đạo
giáo Á Đông, nhất là Bà la môn và Bái
Hỏa Giáo (Parsisme). Đến sau, Huyền môn
Kabbalah và Viên Giác (Gnostics) cũng chấp
nhận nó, Philo, Plato cũng giảng dạy nó.
Học thuyết này chủ trương:
Vạn vật từ Tuyệt-đối-thể
phóng phát ra, từ Tuyệt-đối-thể
thoái hóa dần măi xuống. Vậy nên, trong
Bà La Môn giáo, Hồn vũ trụ, nguồn
mạch huyền diệu của muôn sinh linh
được đồng hóa với Brahma,
với Thượng Đế.
Môn phái Viên Giác (Gnostics) cũng cho rằng
vạn hữu sinh xuất từ Thực
thể Thần linh. Vạn vật sinh hóa
từ cao đến thấp, và sự cứu
rỗi lúc chung cuộc, là sự vạn
hữu trở về với thanh tịnh
của Tạo Hóa. Philo dạy rằng
Tuyệt-đối-thể hay khối Linh quang
nguyên thủy đă tung tỏa quang huy để
soi sáng cho mọi tâm hồn, và như vậy
vạn hữu đều chung một nguồn
gốc. Thuyết phóng phát rất được
Tam điểm lưu tâm chú trọng, v́ các
cấp cao trong Tam điểm thường
đề cập tới các học thuyết
cả Kabbalah của Philo và của huyền môn
Viên Giác...”
Tam điểm ưa dùng tượng h́nh
để diễn tả tư tưởng. Ví
dụ Quan niệm Thượng Đế
ngự trị trong con người, và người
giác ngộ phải biểu dương, phóng
phát Thượng đế ra bên ngoài
được tượng trưng bằng:
-H́nh sao năm cánh tung tỏa hào quang, với
chữ G hoa ở tâm điểm. G là God là Thượng
đế. Ngôi sao năm cánh là tượng
trưng con người.
Sau đó tôi sang Hồi Giáo Hồi giáo có 2
phần Công Truyền, Mật Truyền phân
biệt rơ rệt. Phần Công truyền là
Hồi giáo với hơn 1 tỉ tín đồ.
Phần mật truyền là môn phái Sufism
(Bạch Y). Môn phái Bạch Y (Mật Tông
Hồi giáo) ra đời vào khoảng thế
kỷ 2. Dạy con người có thể
kết hợp với Trời qua những giai
đoạn như thống hối, hăm ḿnh,
bỏ ḿnh, sống nghèo khó, nhẫn nhục,
tin tưởng v. v...
Họ tin rằng con người có thể
tiến tới thần minh, tu luyện thành
thần minh và sống kết hợp với
Ợấng Tối Cao, sống ḥa ḿnh
với Đại Thể vũ trụ. Quan
niệm này cũng tương đương
như quan niệm nhập Niết Bàn của
Phật Giáo, hay ḥa ḿnh với Brahman của
ấn Giáo. Môn phái này cũng chủ trương
thuyết : Thuyết Thiên địa vạn
vật đồng nhất thể. Có người
cho rằng tư tưởng trên có thể
thấy trong vài đoạn thánh kinh Coran
của Hồi Giáo, nhưng thực ra đă
vay mượn ở những trào lưu ngoài
đạo Hồi như Huyền Học Thiên
Chúa Giáo (Catholic Mysticism), môn phái Tân Bá
Lạp đồ (Néo-Platonism), Denys l'Aréopagite,
môn phái Viên Giác (Gnosticism), môn phái Mandeism,
Manicheism v.v...
Trong quyển Histoire du Caodaisme của Gabriel
Gobron có toát lược tư tưởng môn
phái này như sau: ông Ben Aliona vị giáo
chủ gần ta nhất (ông chết năm
1934) chủ trương phối hợp đạo
Maisen, Bái Hỏa, Công Giáo, Hồi giáo. Ông
dạy như sau: Thượng đế là
duy nhất. Vũ trụ này là những
bức màn che thế giới vô cùng.
Vũ trụ này được phóng phát ra
từ Thượng đế. Chỉ
những tâm hồn đặc biệt mới
hiểu điều sâu nhiệm (bathen) ẩn
áo này (sirr), chứ không phải là thế
giới này được tạo dựng nên,
như người tầm thường (foqara)
đă tưởng. Và như vậy, Thượng
đế đă ở trong ta (ai biết ḿnh,
sẽ biết Chúa, ai chịu t́m hiểu ḿnh,
sẽ tiến gần Chúa. Phải được
giác ngộ (ichraq) như mọi danh nhân
Hồi Giáo đă chủ xướng.
Sau đó tôi đi vào Thông Thiên Học. Bà
Blavatsky xác tín rằng: Vũ trụ này đă
được sinh xuất từ một Nguyên
Lư vĩnh cửu phổ quát. Hết ṿng
biến dịch, sinh hóa, vạn hữu
lại thể nhập vào căn cơ, vào
nguyên thể. Và như vậy, đối
với Bà Blavatsky và Thông Thiên, Thượng
Đế phải tiềm ẩn trong ḷng
vạn hữu, và trong ḷng của moồi
chuững sinh, trong ḷng của mỗi nguyên
tứư của thế giới vô h́nh và
hữu tướng, v́ Ngài chính là nguồn
sinh lực, nguồn sinh hóa vô biên, vô tận
của vạn hữu. Thông Thiên học
chủ trương thêm rằng v́ vạn
hữu sinh xuất từ một nguồn, nên
vạn hữu có liên lạc mật thiết
với nhau, và muốn t́m hiểu về con người,
không bao giờ được tách rời nó
ra khỏi Đại Thể vũ trụ.
Đọc nhận định của Thông Thiên
về con người y thức như nhận
định của Kinh Hoa Nghiêm. Chính v́
thế, mà toàn thể nhân loại là anh em
với nhau. Nhân loại họp lại thành
một Đại Thể Vũ Trụ. V́
chủ trương Thượng Đế
ở khắp mọi nơi, nên Thông Thiên
đă tự xếp ḿnh vào hàng ngũ
Phiếm Thần (Panthéism).
Phiếm Thần không chấp nhận rằng
Thượng đế ở ngoài vũ
trụ, và ở trên trời xa thẳm, như
Công giáo chủ trương. Quan niệm Thượng
đế ngoại tại, và ở trên
trời xa thẳm đó đă bị
nhiều học giả như Tillich, như Giám
Mục Giáo Phái Anh Quốc John Ạ T. Robinson,
cho là một tư tưởng đă lỗi
thời. Ngày nay quan niệm Thượng Đế
tiềm ẩn trong ḷng sâu vạn hữu
đă được các môn phái Huyền
Học từ Đông sang Tây chấp nhận.
Sau hết, Thông Thiên học chủ trương
rằng con người sẽ trở thành
Thần Minh, sẽ trở thành Thượng
Đế. Chân nhân chính là Thượng Đế
đă thức giấc.
Sau đó, tôi đi vào Bà La Môn. Bà La Môn xưa
nay vốn chủ trương: Vũ trụ này
cũng như vạn hữu đều do
một bản thể duy nhất phóng phát ra.
a). Nhà thấu thị có thể coi Brahman là vũ
trụ (Mundaka 2.2. II) (Mandukya Upanishads 2)
“Là lửa, Ngài sưởi ấm,
Ngài là vừng Thái dương,
Ngài là mưa móc đượm nhuần,
Ngài là đất, là vật chất, là
Thần,
Ngài là Hữu, Ngài là Vô, Ngài là Hằng
cửu.
Ngài là vừng dương trong thinh không,
Ngài là thần Vasu trong không khí, Ngài là gió,
Ngài là đạo sư trước bàn
thờ,
Ngài là tân khách đến chơi nhà.
Ngài ở trong người, trong không gian, trong
định luật thiên nhiên, Ngài ở trên
trời. Ngài sinh trong nước, trong mục
súc, trong định luật thiên nhiên, trong
nham thạch. Đấng toàn thiện, đấng
tối cao là như vậy.”
... “Brahman, thật ra là bất tử. Brahman
ở đằng trước, Brahman ở
đằng sau, ở bên trái, ở bên
phải; Brahman ở trên, Brahman ở dưới,
Brahman thật ra chính là toàn thể thế
giới, toàn thể vũ trụ.” (Mundaka 2.2
II) “Bởi v́ thật sự, vạn hữu
là Brahman” (Manukya Up. 2)
... “Ngài nhập vào vạn hữu, ngay
cả vào đầu móng tay, y như dao
cạo tra vào bao dao, y như lửa nằm
trong mồi lửa...”
b)- Nhà thấu thị cũng có thể coi
Brahman, Atman là Bản thể, là Cốt lơi, là
Trục cốt vạn hữu. T́m ra được
Cốt lơi ấy, Trục cốt ấy, là
hiểu được Brahman, hiểu
được vạn hữu, hiểu
được chính ḿnh. Đó là ch́a khóa
mở ra mọi hiểu biết. Thực
tại chỉ là Một. Biến thiên
phiền tạp chỉ là h́nh tướng. Trên
mặt đất này không có tạp thù, không
có biến thiên thực sự. Kẻ nào
chỉ nh́n thấy biến thiên cách biệt
bên ngoài, kẻ ấy sẽ c̣n trong Ṿng sinh
tử. Tất cả phải được
nh́n thấy trong Nhất thể, trong thực
thể, Bản thể duy nhất bất
khả tư nghị...” (Brih. 2.4.5)
Upanishads tuyên xưng:
“Thực sự nếu nh́n thấy được,
nghe thấy được, nghĩ ra
được, t́m hiểu được
Đại Ngă, sẽ hiểu được
vũ trụ này.” (Brih. 2.4.5.)
“Thực sự, ai mà thấy được
sợi giây nhất quán, thấy được
chủ tể tại hàm tàng trong vạn
hữu, người đó biết Brahman, người
đó hiểu biết vũ trụ, hiểu
biết thần minh, hiểu biết Veda,
hiểu biết tạo vật, hiểu
biết Đại Ngă, hiểu biết
mọi sự...” (Brih. Up. 3.7.1)
- Thấy được Trời lồng trong
vạn hữu là đạt tới chân tri, là
t́m thấy được Thượng Đế.
“Ai mà thấy được Chúa Trời,
Lồng trong vạn vật, vạn loài
thọ sinh,
Trường tồn giữa mọi điêu
linh,
Trường tồn vĩnh cửu trong ḿnh
biến thiên,
Thế là tri giác vẹn tuyền...”
Sau đó tôi đi vào Đạo Phật. Kinh
Hoa Nghiêm cho rằng: Mọi sự vật trong
vũ trụ đều do Tâm mà ra. Tâm đây
là Tâm Chân Như hay Chân Không Diệu Hữu,
Bản Thể. Vũ trụ do nhân duyên ḥa
hợp mà thành, mọi vật lớn nhỏ
đều nương vào nhau, nhân làm
quả, quả lại làm nhân, cái này có là
nhờ cái kia, cái kia có là nhờ cái này, tương
quan, tương duyên, lớp lớp chằng
chịt vô cùng nên gọi là trùng trùng duyên
khởi. Mọi sự vật đều dính
chùm với nhau, nên vật này động là
tất cả đều động, tất
cả đều liên quan mật thiết
với nhau, Một tức Tất Cả,
Tất Cả tức Một, mọi vật
đều tương tức, tương
nhập. Vạn vật đều cùng chung
một Bản Thể, một nguồn
sống vô h́nh vô tướng, tuyệt đối
mà Phật giáo tạm gọi là Tâm Chân Như,
là Không, Lăo giáo gọi là Đạo hay Vô
Cực, Khổng Giáo gọi là Thái Cực,
Cao Đài gọi là Thày.
Thế tức là: Nhất thiết do tâm
tạo, Vạn vật đồng nhất
thể. Trong cái Đồng nhất Thể
đó, có 2 thành phần: Một là Lư, Hai là
Sự. Sự là Vạn Vật trong vũ
trụ, có h́nh tướng, mà ngũ quan có
thể tiếp xúc được, như: người,
vật, núi, sông, cây cỏ, mặt trời,
mặt trăng, tinh cầu...
C̣n Lư th́ không có h́nh tướng, phải dùng
tâm để mà hiểu biết mà thôi, như:
Bản Thể, Chân Lư, Thật Tướng, Lư
Tánh... Sự c̣n gọi là Vọng Tâm,
Vọng Ngă, hay Luân Hồi, Sinh Tử. Lư cũng
là Chân Tâm, Chân Ngă, hay Niết Bàn, Bất
Sinh Bất Tử.
Ḥa thượng Hải Tràng nói: Do tu Bát nhă
(prajnaparamita) mà tôi đắc tuệ nhăn và hàng
ngàn vạn tam muội khác. Lúc nhập Tam
Muội này, tôi biết rơ tất cả
thế giới không chút chướng ngại
và thấy mọi sự vật trong vũ
trụ đều dung thông, dung nhiếp
với nhau. Tôi biết rằng CÁI TÂM CHUNG
CỦA MỌI NGƯỜI LÀ CÁI TÂM CHUNG
CỦA TRỜI ĐẤT, VÀ CÁI LƯ CỦA
SỰ VẬT LÀ CÁI LƯ CHUNG CỦA VẠN
VẬT. Khi đă rơ được một
phần tử trong vũ trụ, th́ cũng rơ
được sự vật trong trời
đất. Đó là cái lư MỘT LÀ TẤT
CẢ, và TẤT CẢ LÀ MỘT, TÂM VẬT
KHÔNG HAI. Tóm lại, chủ trương
của Phật Giáo chính là: Từ Vọng Ngă
nhỏ hẹp, ta sẽ cố phát huy Đại
Ngă mênh mông. Từ sắc thân phàm tục, ta
sẽ cố phát huy Pháp Thân siêu việt.
Từ phàm thân dễ bị hủy diệt ta
sẽ phát huy Kim Cương Thân bất
khả huỷ diệt. Từ u minh mê vọng
của Lục Thức, Lục Trần, ngũ
uẩn, ta sẽ làm bừng sáng lên ngọn
đuốc Chân Tâm. Chữ Diệt Ngă,
chữ Giải Thoát, hiểu cho đứng
đắn, sẽ là phá tan mọi h́nh tướng
để t́m ra Chân Tính (Khiển tướng
chứng tính); làm lu mờ tan biến mọi
nhỏ nhoi, ti tiện, cho Quang Minh, Chính Đại
hiện ra (ẩn liệt, hiển thắng).
Mục đích tối hậu là khế
hợp nhất như với Chân Như
Tuyệt Đối, Bản Thể Tuyệt
Đối...
Sau đó tôi đi vào Đạo Lăo. Đạo
lăo chủ trương muôn loài sinh ra từ
Một, hay Đạo, biến hóa muôn vàn , lúc
chung cuộc lại trở về Đạo.
Đạo hay bản thể muôn loài có
nhiều tên gọi, như Đạo, như
Cốc Thần, như Nê Hoàn Cung, như
Huyền Quan Khiếu v.v.. Khiếu ấy sinh
xuất muôn thần vạn thánh. Đạo
hay Cốc thần th́ ở trung diễm ṿng
tṛn, c̣n muôn thần vạn thánh th́ chầu
quanh ở ṿng tṛn biến hóa bên ngoài.
Huỳnh Đ́nh Kinh viết:
Một thần chính vị nơi Trung Điểm,
Vạn thần chầu chực thành ṿnh quanh.
Con người biến hóa có hai chiều
Thuận và Nghịch. Thuận là biến
từ Thái Cực, Bản Thể ra ngoại
cảnh. Nghịch là Biến Hóa từ
Ngoại Cảnh trở về Tâm. Đi theo
chiều thuận thời sinh Nhân sinh Vật..
Đi theo chiểu Nghịch thời sinh thánh
sinh Thần. Con đường trở về
với Đạo với Nhất là con
đường hướng nội. Chung qui
hiểu được chữ Nhất là
hiểu được tinh hoa các Đạo
Giáo Á Đông.
Sau đó tôi đi vào Đạo Khổng.
Đạo Khổng cũng suy diễn
thuyết Thiên Địa Vạn Vật đồng
Nhất thể. V́ muôn loài đều sinh ra
từ một gốc là Thái Cực. Nên Đạo
Khổng rất trọng gốc, gốc có
vững th́ Đạo Lư mới sinh. Quân
tử vụ bản, bản lập nhi Đạo
sinh (L.N. I, 2). Đạo Khổng chuyên
khảo về con người, nên đă t́m
thấy Chân Đạo tại nhân tâm, và t́m
ra được Thiên Tâm ẩn áo sau lớp
nhân tâm là sẽ ung dung Trung Đạo.
Sau hết tôi đi vào Cao Đài. Tôi đă
cộng tác với Cơ quan phổ thông giáo
lư Cao Đài ở đừờng Cống
Quỳnh Sài G̣n khoảng 10 năm. Đạo
Cao Đài chấp nhận mọi tôn giáo, nhưng
muốn t́m cho ra Tinh Hoa các Tôn Giáo, mà họ
gọi là Đại Đạo. Đạo
Cao Đài tin tưởng Trời ở trong ḷng
mọi người, và “Học là học
để làm Trời, Có đâu măi măi làm người
thế gian”
Và ước mong mọi người Việt
Nam t́m cho ra cái Căn Trời Cốt Phật
trong ḷng ḿnh.
“Đi về đâu, Việt Nam ơi,
Về nơi Nhân Bản của Trời
trước kia.”
Và tôi kết luận sách này bằng cách tuyên
xưng rằng thật t́nh chúng ta là anh em
một nhà, là Tứ Hải Giai Huynh Đệ,
cho nên quí nhất là chúng ta phải tương
thân tương ái với nhau.
|