Lời
Giới Thiệu
Tính
Mệnh Khuê Chỉ là một quyển sách không
phải để đọc chơi, mà là
để nghiên cứu suốt đời.
Cuốn sách này rất mực văn chương,
có nhiều h́nh ảnh, chữ Hán và chứa
đầy khẩu quyết của Chư Tiên.
Tôi đă đi sâu vào Tam Giáo.
- Về Khổng Giáo, tôi đă viết
bộ Trung Dung Tân Khảo, và 3 quyển
khảo luận về Khổng Giáo.
- Về Lăo, tôi dịch Đạo Đức
Kinh, dịch sơ lược Nam Hoa Kinh,
dịch Huỳnh Đ́nh Kinh, Tham Đồng
Khế, Ngộ Chân trực chỉ, và Tính
Mệnh Khuê Chỉ.
- Về Phật tôi viết quyển Phật
Học Chỉ Nam.
Tính Mệnh Khuê Chỉ là một sách dạy
tu tiên do học tṛ của Doăn Chân Nhân in vào
năm Khang Hi thứ 9 (1670). Tính Mệnh Khuê
Chỉ là một bộ sách rất nổi
tiếng trong Đạo Lăo. Nó chủ trương:
Tam Giáo hợp nhất, và VẠN GIÁO NHẤT
LƯ. "Thiên Hạ vô nhị Đạo, thánh
nhân vô nhị tâm". Đầu sách có h́nh
Phật, Lăo, Khổng. Sách gọi là Tính
Mệnh Khuê Chỉ, nêu rơ mục đích là
Tu Tâm Tu Tính, là đi từ Hữu nhập Vô,
từ Thực tới Hư. (Xem tr. 7) Dịch
Kinh cho rằng: Trời có trước Người,
mà Người chính là Trời Nguyên Thủy,
nên sách này dạy ta phép Thủ Khảm Điền
Ly, để biến Ly thành Kiền, để
giúp ta trở về với Trời (tr. 16).
Con đường tu là t́m hiểu Tính
Mệnh, t́m hiểu Bản Thể con người,
mà Thái Cực là Bản Thể, là Tâm Tính
(tr. 17). Đắc Đạo chính là Đắc
Nhất, đắc Trung. Phải lo tu từ
kiếp này:
Nhân thân nan đắc, kim dĩ đắc,
Đại Đạo nan minh, kim dĩ minh.
Thử thân bất hướng kim sinh độ,
Cánh hướng hà sinh độ thử thân?
Dịch:
Thân người khó được, nay đă
được,
Đại Đạo khó hay, nay đă hay.
Thân này chằng hướng kiếp này độ,
Đợi đến kiếp nào mới độ
đây? (tr. 21)
Phép tu hay nhất là luyện Kim Đan (tr. 23),
và phải hiểu rơ 2 chủ Tính Mệnh.
(tr.27) Tính là Nguyên Thần, Mệnh là Nguyên
Khí. Tính có Tính Trời, có Tính Người.
Tính Trời là Thiên Địa chi Tính. Tính người
là Khí Chất chi Tính. Mệnh có Mệnh
Trời và Mệnh Người. Mệnh
trời là H́nh Khí Chi Mệnh. Mệnh người
là Phân định chi Mệnh.(tr. 27) Tính
Mệnh trời th́ vĩnh cửu, trường
sinh. Tính Mệnh người th́ Luân Hồi
sinh tử. Cho nên Chân Tính Mệnh của ta th́
thông ngày đêm, phối Thiên Địa,
triệt cổ kim, không bao giờ mất mát
tiêu diệt được (Tr. 28) Biết
Tận Tính Chí Mệnh, th́ sẽ đạt
được Hư Không Bản Thể (tr.
30) Sau đó sách dạy cách luyện
đơn, bằng 40 h́nh vẽ. Muốn
luyện đan trước hết là phải
dẹp trừ niệm lự. (Tr.102)
- Luyện Đan là luyện Tiên Thiên Khí Công,
là ḥa hợp Nguyên Thần, Nguyên Khí qua 2
mạch Nhâm Đốc.
Luyện Đan chính thị luyện Kim Đan,
Nguyên Thần Nguyên Khí hợp lưỡng ban
Vận chuyển phải qua Nhâm Đốc
mạch
Nhâm Đốc đả thông sẽ chu toàn.
(tr. 103)
-Luyện Đan là t́m ra được Thiên
Địa chi tâm, (tr. 102), t́m ra được
Thái Cực trong con người. (tr. 103)
- Luyện Đan là loại trừ bụi
bặm, để cho Tâm phục hồi
bản thể, phục hồi Thiên Mệnh
chi tính cuả ḿnh.(tr. 106)
- Sách gọi Luyện Tâm là Luyện Đan, và
dạy con người có 2 tính: Thiên địa
chi tính (Tính Trời) và khí chất chi tính (Tính
Người)
Trừ khử tính Người là luyện
Đan. Trừ được Tính người
th́ Tính Trời sẽ hiện, và Đan
sẽ thành. (tr. 107)
Ta thấy mục đích đạo Lăo khá rơ
ràng: Biến con người Phàm phu thành con người
Siêu Việt, biến Người thành
Trời.
Đạo Lăo đưa ra nhiều cách:
1. Hợp nhất các yếu tố về
Nhất Thể, khiến Âm Dương
hợp Nhất thành Thái Cực. Họ
gọi Âm là: Hổ, là Diên, là Xá nữ, là
Nguyệt; gọi Dương là Long, là
Hống, là Anh Nhi, là Nhật v.v. Và gọi
đó là Phép Luyện Đơn. mà luyện
đơn là vận chân khí qua xương
sống, qua hai mạch Nhâm Đốc, và
đem Chân Khí đó về Tích Tụ tại
Nê Hoàn Cung, hay Thượng Đơn Điền.
Khoa học Vận khí qua hai Mạch Nhâm Đốc
chính là Khoa Khí Công của Trung Hoa. Tôi không
muốn nói nhiều hơn, chỉ xin giới
thiệu bộ sách: Trung Quốc khí Công đại
thành?, do Phương Xuân Dương, chủ
biên, 868 trang, Cát Lâm Khoa Học kỹ
thuật xuất bản xă, 1999.
2. Chẳng những hợp Âm Dương, mà
c̣n Hoà Hợp Tinh Khí Thần qui tụ về
nơi đầu mà họ gọi là Tam Hoa qui
đỉnh.
3. Cũng có thể Hoà Hợp Ngũ Hành Mà
Họ gọi là Ngũ Khí Triều Nguyên.
4. Họ coi con người sau khi đă sinh, th́
không c̣n Thuần Thể, Toàn Thể như
Trời. Trời khi ấy đă mất
vẻ Thuần Khiết và đă biến thành
Ly. Cho nên phải biết lấy Hào Dương
ở giữa quẻ Khảm thay cho Hào Âm
ở giữa quẻ Ly, cho Ly biến trở
lại thành Kiền. Đó là Thủ Khảm
Điền Ly. Đó là biến Phàm Tâm con người
trở thành Thiên Tâm.
5. Họ gọi con người là Khí Chất
chi Tính, coi Trời là Thiên Mệnh chi Tính.
Diệt Khí chất chi tính, để thay
thế bằng Thiên Mệnh Chi Tính. Khí
Chất chi tính là Nhân Dục, Thiên Mệnh
chi tính là Thiên Lư. Cho nên hễ Nhân dục
thắng th́ Thiên Lư vong, Nhân dục tận th́
Thiên Lư hiện. Hai đằng không thể Lưỡng
lập, mà phải một chết một c̣n.
Đó cũng là Biến Người thành
Trời.
6. Họ muốn biến Tinh Khí Thần, và Nói:
Luyện Tinh hoá Khí, luyện Khí hoá Thần,
Luyện thần hoàn Hư, phục qui Vi
Cực. Đó cũng là Biến Người
thành Trời.
7. Họ chủ trương người có Bát
Thức. Ngoài Bát thức ra, c̣n có Cửu
Thức, hay Bạch Tịnh Thức. Bát
thức phải qui về Bạch Tịnh
Thức th́ con người mới trở nên
Bất Tử. Đó cũng là cách Biến Người
thành Trời theo Phật Giáo. (Phật giáo xưa
nay chỉ biết Bát Thức, khi giác ngộ,
th́ Thức sẽ biến thành Trí, ví dụ
Alaya sẽ biến thành Đại Viên
Cảnh Trí. Chỉ có Doăn Chân Nhân mới nói
con người có Cửu Thức).
8. Họ c̣n chủ trương Tâm Tử,
Thần Hoạt. Tâm con người có
chết đi th́ Thần Trời Đất
mới hiện ra.
9. Cho nên có thể nói Đằng sau mỗi
con người sinh tử chúng ta, c̣n có
một Chân Nhân bất sinh bất tử.
Phải t́m cho ra được Chân Thần
bất sinh bất tử ấy, phải hoàn
toàn vất bỏ con người cũ
của chúng ta, và thay thế chúng ta hoàn toàn
bằng con ngưới mới. Như vậy
mới là Giác Ngộ hoàn toàn. Tâm ta phải
như mặt trời trong sáng. Như vậy
giữa Con Người Phàm Phu chúng ta và con người
Thiên Chân chúng ta, như có một bức màn,
Tu là xé bỏ bức màn đó.
10. Như vậy, chúng ta đáng lư là Trong sáng,
nhưng ta lại nghĩ ta là Đen đủi.
Chúng ta là Bất tử nhưng chúng ta
chỉ nh́n thấy Sinh Tử, Biến Thiên.
Chúng ta là Chân Như, nhưng v́ mang hồn phách,
h́nh hài nên tưởng ḿnh là cái ǵ GIẢ
HỢP.
Bà La Môn giáo cầu xin:
Xin đưa tôi từ GIẢ trở về
CHÂN.
Xin đưa tôi từ TỐI TĂM trở
về ÁNH SÁNG.
Xin đưa tôi từ TỬ VONG trở
về BẤT TỬ.
(Brih. Upanishad, 1.3.28)
Đó chính là Họ nh́n ta từ Khía
Cạnh Thần Tiên, chứ không nh́n ta
bằng đôi mắt phàm tục (tr. 112). Con
người muốn qui nguyên phản bản,
th́ tất cả phải qui hướng
về Trời về lẽ một. Ngũ khí
là: Tinh Thần, Hồn, Phách, Y. Tất cả
phải họp lại thành một. Cho nên
mới có những chữ như Ngũ Khí
triều Nguyên, Toàn Thốc Ngũ hành. Tứ
tổ qui gia, Tam gia tụ đỉnh. Tam gia tương
kiến v,.v...(Tr. 114)
Sau đó Sách cho ta ít nhiều khẩu
quyết như:
1. Muốn trường sinh, phải t́m cho
được Chân Tâm. Chân Tâm là Nguyên
Thần, là nguồn gốc Trường Sinh.
Vọng Tâm là Thức thần là căn nguyên
Sinh Tủ.
2. Muốn tu phải t́m cho ra Linh Đài. Linh
Đài chính là Huyền Quan Khiếu, là
Cốc Thần hay Nê Hoàn Cung trong đầu năo
con người. v.v... (tr. 128)
3. Tu là Tu tâm là bồi dưỡng bản
nguyên (tr. 134). Sau đó sách bàn về hô
hấp. Doăn Chân Nhân phân biệt hai loại hô
hấp:
Phàm tức là thở thường bằng
phổi và Chân tức là thở qua 2 mạch
Nhâm Đốc. Đó là một khoa học
rất khó. (tr. 171- 172). Sách lại dạy
về Nê Hoàn Cung. Nê Hoàn Cung, chính là Vô
Cực là Chân Trung trong con người.
(tr.190).Nó là căn nguyên sinh ra vạn sự
trong con người.
Huyền tẫn, huyền tẫn, chân
huyền tẫn,
Bất tại tâm hề bất tại
thận,
Cùng thủ sinh thân thủ khí sơ,
Mạc quái thiên cơ đô tiết tận
Huyền tẫn, huyền tẫn, Chân
huyền tẫn,
Không phải ở Tâm, không ở Thận
Ở tại chỗ người vừa
thụ khí,
Không sợ Thiên cơ đă tiết
lộ.(tr. 188)
Khiếu này gọi là Tổng tŕ Môn, là Kinh
Đô vạn pháp, nó không có biên cương,
không có trong ngoài. (tr. 195) Sách c̣n dạy
chuyển Pháp Luân. (tr. 213) Rồi lại
dạy Điều Tức, dạy ngưng
thần nhập khí huyệt.
Tích nhật ngô sư thân khẩu quyết,
Chỉ yếu ngưng thần, nhập khí
huyệt.
Ngày trước gặp thày truyền khẩu
quyết,
Chỉ yếu ngưng thần nhập khí
huyệt (tr. 239)
Dạy ngoại Hô Hấp, nội Hô Hấp,
dạy Thai tức v,.v...( tr. 232- 249), và
truyền nhiều khẩu quyết về Thai
Tức (tr. 255- 262) Sách dạy tiếp Hành
Thiền, Tọa Thiền,Lập Thiền,
Ngọa Thiền. Sách dần dần tiến sâu
vào các khẩu quyết tu luyện.
Yêu mịch trường sinh lộ,
Trừ phi nhận bản nguyên
Đô lai nhất vị dược,
Cương đạo số thiên ban.
Muốn t́m nẻo trường sinh,
Phải biết bản nguyên ḿnh
Dược vị vốn chỉ một,
Người nói thành trăm ngh́n. (Tr. 317)
Tính Mệnh Khuê Chỉ dạy ta không
biết bao nhiêu là khẩu quyết, không
biết bao nhiêu bài thơ. Chung qui vẫn
dạy chữ Nhất. Phục Hi Văn Vương
được chữ Nhất mà Chu Dịch hưng
khởi. Đại Vơ, Cơ Tử được
chữ Nhất, mà Hồng Phạm Cửu Trù
sinh; Chu Mậu Thúc (Chu Liêm Khê) được
chữ Nhất mà có Thái Cực Đồ;
Thiệu Nghiêu Phu (Thiệu Khang Tiết) đắc
Nhất mà viết Hoàng Cực Kinh Thế; Lăo
Tử được chữ Nhất, mà
vạn sự tất; Thích Ca được
chữ Nhất mà Vạn Pháp qui. Qui Căn là
Qui Nhất, Phục Mệnh là Phục
Nhất vậy. Và dạy t́m Nê Hoàn Cung: Pháp
Bảo Di Châu viết:
Nhận đắc Bản Lai Chân Diện
mục,
Thủy tri sinh tử tại Nê Hoàn.
Biết được Bản Lai Chân Diện
Mục,
Mới hay sinh tử tại Nê Hoàn.
Huỳnh Đ́nh Kinh viết:
Nê Hoàn bách tiết giai hữu Thần
(Nê Hoàn bách tiết đều có Thần).
Lại nói:
Năo trung tinh căn tự Nê Hoàn
Năo Thần tinh căn tự Nê Hoàn).
Lại nói:
Nhất diện chi thần thông Nê Hoàn,
Nê Hoàn cửu Chân giai hữu pḥng.
Phương viên nhất thốn xứ
thử trung,
Đăn tư nhất bộ thọ vô cùng
Chư Thần nơi mặt thuộc Nê Hoàn,
Nê Hoàn Cửu Chân đều có pḥng.
Vuông tṛn một tấc tại năo trung,
Tồn tư Cửu Chân thọ vô cương.
Xưa vua Hoàng Đế lên núi Nga Mi, yết
kiến Thiên Chân Hoàng Nhân, để hỏi
về đạo Chân Nhất. Hoàng Nhân nói:
Đó là điều quí trọng của Đạo
gia. Kinh này Thượng Đế dấu trong
năm thành của núi Côn Lôn, để trong
ḥm ngọc, chữ khắc vào thẻ Kim Trát,
bôi bằng bùn tía, đóng ấn Trung Chương.(tr.
356 - 358)
Như vậy bí quyết luyện đơn
chỉ là: Thủ Khảm điền Ly,
biến Ly thành Kiền. Nghĩa là làm sao
vứt bỏ hết những ǵ nhơ
nhớp, xấu xa trong con người, chỉ
c̣n lại những ǵ trong sáng, tinh hoa
nhất của con người. Y thức như
Nho Gia nói: Khử nhân dục, tồn thiên lư,
hay nhân dục tận, thiên lư hiện. ( tr.
390)
Khi ta sinh ra làm người th́ chưa biết
ḿnh có Tính Trời, Tính Phật. Nhưng trong
bào thai mẹ chúng ta đă tiềm ẩn
sẵn cái Tính Trời Tính Phật ấy
rồi. Chúng ta chịu suy sẽ nhận ra
điều này. Là trong ta đă sẵn có Tính
Trời, Tính Phật mà chúng ta chẳng
biết chẳng hay.
Nếu biết ra, th́ ta sẽ thấy ta cũng
là vị Hoá Công, có thể tái tạo
lại cho ḿnh Tính Trời, tính Phật
ấy, tạo lại cho ḿnh một bầu
trời mới. Chúng ta là khoáng có vàng bên
trong mà ta không biết. Biết ra sẽ hun
đúc cho khoáng nơi ḿnh chảy ra th́
sẽ thành vàng. Chúng ta vốn là Phật, là
Trời nhưng chúng ta phải tốn công tu
luyện mới được. Như vậy
ta phải hiểu Thánh Thai là Con Người
Phàm nay đă sinh lại thành Tiên Phật. Chúa
Giêsu cũng đă nói: Nếu con người
không sinh lại, sẽ không thấy được
Nước Trời. (John 3, 3; 3, 5-7).
Kinh Dịch gọi Sinh lại là quẻ
Phục. Phục là Nhất Dương sinh. Có
vào được quẻ Phục, mới
biết rằng ḿnh có Tính Trời. PHỤC
kỳ kiến thiên địa chi tâm hồ. Sách
kết luận trong tâm ta có Phật mà ta không
biết.
Tụng kinh trai giới thảy đều không
Hà tất tham thiền uổng phí công
Nực cười thiên hạ t́m trong núi,
Chảng hay rằng Phật tại tâm trung.(
481)
Và cho rằng tu là đạt Chân Như (tr.
490).
Ta thấy Tính Mệnh Khuê Chỉ ngoài
phần lư thuyết cao siêu ra, c̣n có phần
thực hành. Phần thực hành chính là
phần Tiên Thiên khí Công của Đạo Lăo.
Nó dạy điều ḥa Âm Dương.
Dạy phép thở qua 2 mạch Nhâm, Đốc,
từ huyệt Vĩ Lư lên tới Nê Hoàn,
rồi lại từ Nê Hoàn, đi theo
Mạch Nhâm, xuống Vĩ lự.
Cách thở này Đạo Lăo gọi là Chân
Tức. Thở qua xương sống như
vậy, chính là Thần Tức tương y,
hay Tâm tức tương y. Thần vận Khí
đi khắp con người. Thần chính là
Chân Dương, Tức chính là Chân âm.
Luyện sao cho Âm tận Dương thuần,
cho Kim đơn ngưng kết tại Nê Hoàn.
Để cho rơ hơn, tôi xin trích một
đoạn tôi bàn về Phép Luyện
Đơn khi tôi viết trong Huỳnh Đ́nh
Kinh. Đạo Lăo cho rằng, trong con người
có hai thứ khí:
a. Khí trời: khí hô hấp.
b. Khí Tiên Thiên hay Chân khí?, hay Nguyên khí?. Nguyên
khí hay khí Tiên thiên ở trong xoang năo, và trong
tủy xương sống. Chính v́ vậy mà
tủy xương sống được
gọi là Tiên thiên khí quản.
Hai khí Tiên thiên và Hậu thiên hỗ trợ
nhau. Nghĩa là hô hấp tiên thiên phải
nhờ vào sức hô hấp hậu thiên
mới có thể vận chuyển được.
Nói rơ hơn: khi ta hít khí trời xuống
phổi (hấp hậu thiên), th́ đồng
thời ta nương sức hít đó, hít Chân
khí từ Vĩ lư, qua Đốc mạch lên
Nê Hoàn (hấp tiên thiên). Khi ta thở khí ra
(hô hậu thiên), th́ đồng thời ta
chuyển chân khí từ Nê Hoàn, xuống
Hạ đan điền, xuống Sinh tử
huyệt (huyệt giữa giang môn và sinh
dục khí) (hô tiên thiên). Người xưa
gọi Hô hấp hậu thiên là Hỏa
hầu. Hô hấp tiên thiên là Dược
vật Hô hấp hậu thiên là Âm. Hô
hấp tiên thiên là Dương. Hai thứ hô
hấp đó liên lạc mật thiết
với nhau và hỗ trợ nhau.
B. ĐƯỜNG VẬN CHUYỂN CỦA CHÂN
KHÍ
Hô hấp tiên thiên là vận chuyển chân khí
từ Sinh tử huyệt (Trường cường)
tới Vĩ lư , qua Đốc mạch (qua
Giáp tích, Ngọc chẩm) vào Nê Hoàn. (Đốc
mạch c̣n được gọi là Ngân hà,
Hoàng hà, Hoàng đạo, Khí quản, Khí
lộ, Thiên kinh, hay Hà xa. Vĩ lư, Giáp tích,
Ngọc chẩm gọi là hậu tam quan). Giai
đoạn này là Hấp khí, cũng c̣n
gọi là Thăng, là Tiến dương
hỏahay Thái thủ Sách Sao Kiểu động
chương gọi giai đoạn này là:
Hấp thăng hổ hống phong sinh (Sđd,
tr. 8a, quyển Hạ). Giai đoạn thứ
hai là hô khí, tức là chuyển khí từ Nê
Hoàn, xuống miệng, xuống mạch Nhâm,
rồi xuống tới Sinh tử huyệt.
Giai đoạn này là giai đoạn hô khí
hay Giáng, hay Thoái âm phù Sao kiểu động
chương gọi giai đoạn này là: Hô
giáng, long ngâm vân khởi. Nhâm mạch cũng
c̣n được gọi là: Xích đạo,
Thần lộ, Hồng Khê, Tào khê. Đường
vận chuyển của Chân khí có hai
khoảng đứt quăng: Trên là Mồm, dưới
là Cốc đạo hay hậu môn. Muốn
cho mạch đến được liên
tục cần phải lấy lưỡi
đưa lên cúa để cho liền
mạch nơi mồm tức là bắc Thượng
thước kiều, và cần phải khép kín
hậu môn lại gọi là bắc Hạ thước
kiều. Người xưa đă tóm tắt
công phu vận khí điều tức tiên thiên
khí bằng bốn chữ: Hấp (hô
hấp); Để (đưa lưỡi lên
cúa để khóa môn 'miệng' ); Toát (khép kín
hậu môn); Bế (nhắm mắt, ngậm
miệng).
C. THAI TỨC (Respiration embryonnaire)
Đă nói đến vấn đề hô
hấp Nguyên khí cần phải đề
cập đến Thai tức. Tiên học
từ điển định nghĩa Thai
tức rằng: Thai là tàng thần ở khí
huyệt. Tức là khí đến khí
huyệt. Như vậy Thai tức là Ngưng
thần tụ khí ở Khí huyệt. Lúc
ấy, hô hấp hậu thiên và tiên thiên
đều như ngừng lại. Sách Thái
Thanh Trung Hoàng chân kinh (tr. 7a) định nghĩa
thai tức là: "Bế Chân khí thành thai
tức."
Sách có câu:
Hội hợp Thai tiên Đạo tự thành.
Cũng nơi trang ấy, sách b́nh rằng:
Nhập thai tức (tức là tự khí,
bế khí nơi Nê hoàn) lâu tới 100 tức
(khoảng nửa giờ) th́ vào được
cảnh tiên, lâu 1000 tức (khoảng 1
giờ) th́ hồn du thượng cảnh. Có
biết thai tức, mới thành thánh thai,
mới thành thai tiên, mới mong nhập đại
định mới mong xuất thần,
xuất hồn. Tính Mệnh Khuê Chỉ là
một quyển sách rất văn chương
và chứa đầy khẩu quyết của
Chư Tiên. Chúng ta nếu đọc cho tường
tận sẽ thấy nó rất hay và để
nghiên cứu suốt đời.
Ở Việt Nam đă có xuất bản
quyển Phép Luyện Công của Lă Đồng
Tân, hay Thái Ất Kim Hoa Tông Chỉ. Các sách này
mượn của Tính Mệnh Khuê Chỉ 38
đồ h́nh và không dịch hoặc không nói
rơ chữ Hán trong các đồ h́nh mà
chỉ luận cách tu theo đó. Các sách
về Tiên Thiên Khí Công cũng sao chép
nhiều đoạn của TMKC. Tiên Thiên Khí
Công đang dược lưu truyền
chỉ là phần h́nh như Hạ.
Cho ta thấy cuốn sách TÍNH MỆNH KHUÊ
CHỈ này rất nổi tiếng. Tôi đă
hoàn tất vài bản dịch rất hay
của Đạo Gia đang được lưu
truyền, mong quư độc giả đón
nhận trong nay mai.
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
|