Lời
Giới Thiệu
Linh
Mục Hoàng Sỹ Quí nhờ tôi dạy khoa Tôn
Giáo Đối Chiếu tại ḍng Tên, năm
1971. Tôi nhận lời, v́ tôi rất thích môn
học này. Tôn giáo đối chiếu là
một môn học hết sức khó. Tài
liệu th́ nhiều, nhưng biết khai thác
biết sắp xếp, biết gạn lọc
các tài liệu ấy mới là cái khó.
Chúng ta cần có một khối óc vô tư.
Nếu chúng ta thiên kiến và cố chấp,
chúng ta không thể nào thấy được
những cái hay, cái đẹp của các tôn
giáo bạn. Cái khó hơn hết là làm sao
đi sâu được vào tinh hoa các đạo
giáo, t́m ra được cái vẻ mặt
cao siêu, đẹp đẽ, vĩnh cửu,
và phổ quát của siêu nhiên, sau những
lớp hóa trang của lễ nghi, h́nh
thức, ư kiến và tâm tư con người.
Mục đích tối hậu của khoa tôn
giáo đối chiếu chính là t́m cho ra tinh
hoa các đạo giáo, t́m cho ra chân đạo
khuất lấp sau những bức màn
hiện tượng dày đặc của các
tôn giáo, và cũng chính là sống một
cuộc đời đạo hạnh chân
thực, hẳn hoi, khinh khoát thanh sảng.
Muốn hiểu tôn giáo, tôi cố gắng t́m
hiểu về con người, và t́m hiểu
chiều sâu nông của các tôn giáo, để
cuối cùng đi đến kết luận là
Chân Đạo tại nhân tâm, và thiên hạ
đồng qui nhi thù đồ.
Phong trào khảo sát t́m hiểu các tôn giáo không
phải gần đây mới có. Ở Á
Đông từ đời nhà Hán đến
đầu đời nhà Tống, các Nho gia,
đạo sĩ, tăng già đều có cái
ư niệm “tam giáo thống nhất” và
những thuyết sau đây đă được
nêu lên: “Nho Phật nhất trí”, “Lăo
Phật đồng thể dị dụng”,
“Tam giáo nhất trí”, v.v. Trương Dung
đời Nam Tề, lúc lâm chung, tay trái
cầm Hiếu Kinh, và Lăo Tử Đạo
Đức Kinh, tay phải cầm Pháp Hoa Kinh,
ấy là biểu tượng thuyết “Tam
giáo nhất trí” vậy.
Ở Âu Châu, sự khảo sát về các tôn
giáo cũng đă có từ xa xưa. Cicéron
(106-43), Plutarque (45-125), Salluste (86-35) đă
viết nhiều về bản chất và tương
quan giữa các thần minh La Hi. Thời Trung
Cổ, Hồng Y Nicolas de Cusa đă có ư nghĩ
thành lập một liên minh tôn giáo. Bẵng
đi một thời gian, phong trào này lại
được chính thức phục hưng
ở Anh quốc, dưới triều đại
nữ hoàng Elizabeth (1533-1603), vào khoảng
đầu thế kỷ XVII, và người
khởi xướng là ông Herbert de Cherbury
(1581-1648).
Gần đây, các đạo giáo cũng như
muốn xích lại gần nhau để t́m
hiểu nhau, bắt tay thân thiện cùng nhau
nếu chưa đi được đến
chỗ hợp nhất. Từ năm 1939 cho
tới nay nhiều đại Học Âu
Mỹ đă chính thức giảng dạy Tôn
Giáo Đối Chiếu.
Các lư thuyết về đạo giáo có
rất nhiều, xin đan cử ít nhiều lư
thuyết chính:
1. Có nhiều học giả cho rằng đạo
giáo càng xưa càng hay, nay càng dở.
2. Nhưng nhiều học giả chủ trương
ngược lại rằng: Đạo cổ
sơ có trước và các h́nh thức đạo
giáo cao siêu có sau.
3. Jaspers cho rằng các đạo giáo lớn
ra đời vào thời đại trục,
nghĩa là vào khoảng từ 800 đến
200 trước kỷ nguyên.
4. Âu Châu cho rằng đạo có tự nhiên
và mặc khải.
- Tự nhiên như Ấn Giáo, Phật, Lăo,
Khổng.
- Mặc khải như Do Thái, Cơ Đốc,
Hồi Gíao. Và chủ trương Chân Đạo
phải được mặc khải trong
những thánh thư.
5. Các thánh hiền Đông Tây đều cho
rằng: Chân đạo tại nhân tâm.
Thế nghĩa là chúng ta phải đi vào tâm
mà t́m Đạo, t́m Trời.
Tôn giáo lấy con người làm gốc, nên
quan niệm về con người sẽ thay
đổi bộ mặt tôn giáo.
Á Châu cho rằng con người có 3 phần:
thần, hồn xác.
Âu châu cho rằng con người chỉ có
Hồn Xác.
Nơi Chương V. Tôi có ghi các quan niệm
khác nhau giữa Đông và Tây. Tôi thấy Á
Đông thâm trầm hơn, sâu sắc hơn
dạy con người phải đi t́m Đạo,
t́m Trời trong tâm, phải tu luyện để
sống phối thiên. Các Đạo giáo Á
Đông muốn t́m những tiêu chuẩn
hằng cửu của vũ trụ, và
những yếu tố phổ quát đại
đồng trong nhân loại, để làm cơ
sở cho Đạo giáo ḿnh. Các Đạo
Giáo Âu Châu muốn t́m những dữ
kiện lịch sử để làm cơ
sở cho Đạo Giáo ḿnh.
Đi sâu vào khoa tôn giáo đối chiếu,
tôi thấy cổ nhân thường dùng Tượng
H́nh: Tâm Điểm và ṿng tṛn, để
diễn tả cái siêu vi huyền diệu. Tâm
Điểm tượng trưng cho Trời,
cho hóa công bất biến ở bên trong c̣n ṿng
tṛn bên ngoài tương trưng cho Vạn
Hữu biến thiên, và sự luân lưu
biến hóa của muôn loài.
Học thuyết nào cũng dạy ta t́m cho ra
Tâm Điểm, Trung Điểm, t́m cho ra
Tuyệt đối thể, t́m cho ra Chân,
Thiện, Mỹ, t́m cho ra Trời ra Đạo,
ần áo trong đáy ḷng vũ trụ và trong
ḷng con người. Trở về Trung Điểm
là giải thoát, v́ tâm điểm tượng
trưng cho sự tự do, khinh khoát, c̣n ṿng
chu luân tượng trưng cho nghiệp chướng
cho sự thằng thúc chi phối.
Dịch kinh giúp ta hiểu rất nhiều
về Khoa Tôn Giáo đối chiếu: Mục
đích của Dịch là cốt dạy ta t́m
cho ra bản thể uyên nguyên, hằng cửu
của chúng ta, giữa muôn vàn biến hóa.
Dịch chủ trương Nhất thể tán
vạn thù, th́ các đạo giáo cũng
chủ trương như vậy.
Dịch dạy lẽ Thiên nhân tương
dữ hay Thiên Nhân hợp nhất. Các đạo
giáo trong thiên hạ, nhất là các đạo
Mật Tông đều chủ trương tương
tự. Cái đó cũng dễ hiểu: V́
Trời là cốt lơi muôn vật, nên ai cũng
có thể t́m thấy Ngài, sống kết
hợp với Ngài nếu đi sâu vào
nội tâm. Dịch chủ trương
biến hóa có mục đích là giúp con người
trở thành thần minh mai hậu. Teilhard de
Chardin cũng chủ trương như
vậy.
Tôn giáo đối chiếu giúp ta đi t́m Chân
Lư. Trước hết Chân Lư không phải là
sở hữu của đạo nào, phương
nào, mà đẵ nằm sẵn trong ḷng con người.
Cho nên chúng ta phải chịu suy, chịu nghĩ,
th́ mới có được trực giác,
mới lănh hội được Chân Lư.
Cho đến nay, người ta thường
phân loại đạo giáo thành Thiên Nhiên, và
Mặc khải. Thiên Nhiên như các Đạo
Giáo Đông Phương, như vậy các
Đạo này là do con người lập ra nên
không hoàn toàn. Mặc Khải như các Đạo
Do Thái, Cơ Đốc và Hồi Giáo. Các
Đạo Giáo này được Trời
truyền, và đă được lưu
trữ trong các Thánh Kinh nên hoàn hảo hơn.
Ngày nay, người ta nhận thấy đạo
giáo, có nông, có sâu. Nông th́ là những đạo
công truyền, sâu th́ là những đạo
Mật Truyền. Công truyền thời
truyền cho quần chúng. Mật truyền là
đạo của các tao nhân mặc khách. Công
truyền như vậy chỉ là Ngoại
Đạo, Mật Truyền mới chính là Chân
đạo.
Tagore viết: Ngài là Thượng Đế
ẩn áo. Ngài chỉ có thể cảm
thấy trong bóng tối, chứ không thể
trông thấy ban ngày. Nh́n thấy Đấng
tối cao trong ḷng ḿnh là một trực giác,
không dựa vào suy luận hay chứng minh...
Sự hiển hiện của Vô Cùng trong
hữu hạn- duyên do sựv sáng tạo muôn
loài- không thể thấy được trên
những bàu trời muôn sao, mà chỉ
thấy được trong tâm hồn con người.(Sadhana,
p. 41)
Học về Tôn Giáo đối chiếu, ta
thấy nhân loại có 2 thái độ:
một là Mâu thuẫn, chống đối,
bất tương dung, hai là Tương Dung Ḥa
hợp.
- Người Bất Tương Dung cho
rằng Tôn Giáo ḿnh là hoàn toàn đúng, tôn
giáo người hoàn toàn sai, cần phải
đả phá và thay thế.
- Người có thái độ tương
dung, ḥa hợp th́ cho rằng mọi đạo
giáo đều là những khía cạch
của một chân lư và do đó tôn trọng
mọi thứ tôn giáo. Họ học hỏi và
so sánh các đạo giáo, để t́m cho ra
những điểm tương đồng, t́m
cho ra điểm đồng qui, hay tinh hoa các
đạo giáo.
Dịch kinh viết: Thiên hạ đồng
qui nhi thù đồ, chính là v́ vậy.
Từ trước tới nay, các đạo
giáo đua nhau t́m ra những điều tương
dị. Từ nay về sau, các đạo giáo
sẽ đua nhau t́m cho ra những điểm
tương đồng. T́m những điều
tương dị để đả kích,
phỉ báng lẫn nhau, sẽ sinh ra mâu
thuẫn, chia rẽ, đấu tranh, bách
hại, giết lát. T́m những điểm tương
đồng sẽ tạo nên t́nh huynh đệ,
thực hiện tương thân, tương
ái. Mà thực hiện được t́nh tương
thân tương ái, tức là thực hiện
được Thượng đế v́ Thượng
đế là t́nh yêu, tức là đem
được Thượng đế
xuống sống chung với con người.
Phải chăng đó là mục đích
tối hậu của các đạo giáo. Và
chúng ta có thể kết thúc bằng một
lời ước nguyện:
"Ước
ǵ Thượng đế là mọi sự
trong mọi người."(I Cor. 15, 28).
|