U DUỆ

Ngô Minh Hằng

 

Trước ngày theo đợt sóng người di cư vào Nam t́m tự do năm 1954, gia đ́nh tôi có nuôi một U Già. Chúng tôi, từ lớn đến nhỏ đều gọi U là U Duệ. Mẹ và chị lớn tôi ngày nào cũng bận bịu với cửa hàng vải nên ít khi ở nhà. Nhờ có U Duệ chăm sóc cho chúng tôi nên chúng tôi được ăn no mặc sạch và mẹ tôi cũng đỡ vất vả rất nhiều.

U Duệ rất chăm làm và thương yêu chúng tôi như con đẻ nên chúng tôi rất quư U. Người U thon thả, tầm thước, nước da bánh mật. U vui tính, hay cười và nhất là hay kể truyện. Truyện của U th́ nhiều lắm. Những lúc rảnh rỗi hoặc những buổi tối mưa dầm, tôi hay sà vào ḷng U, bắt U kể truyện. U kể truyện rất có duyên. Ai cũng thích nghe. Một trong những câu truyện mà tôi c̣n nhớ đến bây giờ là truyện Thằng Lếu.

Lần nào cũng vậy, U có thói quen là nhổ miếng cốt trầu vào ống phóng rồi dùng ngón trỏ và ngón cái chùi hai bên mép trước khi bắt đầu câu truyện. 

- Trong làng ai cũng gọi nó là thằng Lếu. Bố nó chết v́ bi Tây ruồng năm nó lên hai tuổi. Mẹ nó làm thuê cấy mướn ở nhà ông Bá Hộ lấy tiền nuôi nó. Thương t́nh mẹ góa con côi, ông nuôi cả hai mẹ con . Thấy mặt mũi nó sáng sủa, ông cho nó đi học ở trường làng cùng với con trai út của ông cho đi về có bầu có bạn. Thằng Lếu rất thông minh, học đâu nhớ đấy. Do đo, nó đâm ra kiêu ngạo và thường chế nhạo những tṛ kém cỏi hơn. Đă thế, nó lại rất gian xảo, bịa đặt, chuyện không nói có, vu oan giá họa để đám trẻ con bị bố mẹ hay thầy giáo đánh đ̣n oan.

Năm lên tám, nó đă làu thông kinh sử và tính kiêu ngạo hỗn hào gian dối của nó cũng tăng thêm. Tăng  đến nỗi người trong làng không ưa và bắt đầu quên đi tên thật của nó mà gọi nó là Thằng Lếu. Vài năm sau khi bố nó chết, Mẹ nó đi thêm bước nữa. Vốn tính hỗn hào, nó căi nhau với bố dượng và bỏ nhà đi ở vạ ở vật với cái nhà bác Láo. Từ đó, nó có vẻ thù đời và càng thêm tai ngược. V́ tai ngược quá độ, nó không c̣n biết thế nào là yêu thương, xúc động, lư lẽ, phải trái của một con người nữa. Ngược lại, ḷng nó lại  nhỏ nhen, hiềm tị.  Nó căm ghét thù oán mọi người, nhất là những người mà nó nghĩ là có ǵ hơn nó. Nó lại ác độc đến nỗi không bỏ qua một cơ hội nào có thể làm tổn thương đến người khác, mặc dầu người ta không hềquen thuộc hay động chạm ǵ đến nó.

- Tại sao lại tên là bác Láo hở U?

U Duệ dừng lại, nhổ băi cốt trầu, lau mép và chậm răi:

- U cũng không rơ, nhưng nghe người trong làng nói là "ngưu tầm ngưu, mă tầm mă"  nên thằng Lếu ở với bác Láo là đúng. Hai bác cháu nó thật hỗn láo gian ngược giống nhau!

Bác Láo không phải là người sinh trưởng trong làng mà từ phương xa đến. Bác ta không có bà con thân thích ǵ. Vài năm đầu, bác ta đến ở giúp việc cho bà Dậu bán bún riêu ở đầu làng. Công việc của bác Láo nhẹ nhàng lắm. Mỗi chiều bác ta vác giỏ ra đồng bắt cua. Khi được đầy giỏ, bác ta đem về ngâm vào chậu nước cho cua nhả hết chất dơ. Mỗi sáng, bác ta dậy sớm, phụ bà Dậu giă cua, nấu bún. 

Khi nồi bún sôi dạo đầu, bác Láo ra quán quét dọn, lau chùi mấy cái ghế, cái chơng cho sạch sẽ. Xong, bác ta nhóm lửa, gánh nồi bún ra quán đặt trên bếp lửa cho bà Dậụ  Mỗi khi có khách, bà Dậu múc bún ra tô cho bác Láo bưng ra mời khách. Công việc ấy, làng ta gọi là thằng ở nhưng sau này văn minh hơn,  U thấy người ta gọi là "thằng bồi" hay sao ấỵ -U chép miệng- Thật lắm chuyện, thằng ở hay thằng bồi th́ cũng vẫn là một việc bưng tô hầu khách chứ có khác ǵ đâu!

-Rồi thằng Lếu ra sao hở U?

U cười:

- Thằng Lếu ấy à? càng ngày nó càng lếu láo, lỳ lợm, mất dạy và dối gian quỷ quyệt. Chuyện của ai nó cũng nhảy xổ vào, nói năng những lời hỗn hào xấc xược. Người ta tránh xa nó, ghê tởm nó đến nỗi, cả làng chẳng ai thèm dây với nó. Họ bảo không thèm dây với hủi. Thậm chí đến cả nghe nó chửi, hay nghe nó dựng chuyện nói không, người ta cũng lờ đi. Thấy nạn nhân của nó không ai phản ứng, nó lại nghĩ là người ta sợ nó mới buồn cười! Nhưng nó nào biết được rằng người ta quá khinh khi nên không thèm lưu ư đến.

Có được dăm ba chữ, nó cho thế là nhất nh́ trong làng, trong xă. Nó tụ bè họp đảng với bọn chửi cha mắng  mẹ, bọn đầu trộm đuôi cướp trong làng và làm nhiều điều xằng bậy. Nó ăn nói ngạo ngược. Gặp người lớn, đáng tuổi cô tuổi bác nó, nó cũng chả chút kiêng nể ǵ. Nó lại hay gây sự. Thế nên, dù thân hay sơ, quen biết hay không quen biết, và người ta chẳng có thù oán ǵ với nó, nó cũng xỏ xiên xách mé. Bác nó, ông Láo, đă không dạy bảo nó điều khôn lẽ phải th́ chớ, mà lại c̣n cho thế là hay và hănh diện về nó lắm.  

Một hôm, nó thấy trong làng cờ quạt trống phách linh đ́nh, hỏi thăm, nó được biết là, vào buổi trưa, giờ ngọ hôm sau sẽ có một vị quan to trảy qua vùng và dân làng làm cổng chào, chào đón. Nó tự nhủ:

- Cái thằng quan này là thằng nào mà khiến cả bày dân ngu phải kính trọng đến thế ? Được, để đó, giờ ngọ ngày mai thằng Lếu này sẽ cho mọi người thấy thằng quan kia to đến đâu cho biết.

U Duệ lại cười, nụ cười thật vô tư :

- Thế rồi đúng vào giờ ngọ hôm sau, một đoàn quân lính ăn mặc chỉnh tề khiêng một cái kiệu đi qua làng. Các bô lăo khăn đống áo chùng đứng hai bên đường chắp tay thi lễ. Vị quan nọ ngồi trong kiệu vui vẻ đưa tay ra vẫy chào các quan viên. Khi đi ngang qua gốc đa cổ thụ đầu làng, trời đang nắng ráo đẹp đẽ bỗng đâu một ṿi nước từ trên một cành đa cao rót ngay xuống kiệu của quan. Ông quan ngũ phẩm triều đ́nh bèn cho kiệu ngừng lại t́m nguyên do. Mọi người nh́n lên cành đa, chỗ phát ra ṿi nước th́ thấy thằng Lếu đứng trên đó vừa kéo quần lên, vừa nh́n ông quan và đám dân làng cười thách thức và khoái chí. Các kỳ hào bô lăo trong làng sợ hăi bảo nhau quỳ xuống xin quan tha tội thất kính.  Ông quan vốn có ḷng nhân, hiểu chuyện xảy ra do một đứa trẻ vô hạnh th́ cũng không trách cứ ǵ các cụ bô lăo mà c̣n cảm thương cho thằng bé dại dột kia. Vị quan bèn cho gọi thằng Lếu xuống, khen là can đảm, dám làm những chuyện mà người thường không ai dám làm. Ngài c̣n sai lấy tiền ra khen thưởng trước sự ngạc nhiên của đám dân làng. Từ đó, chỗ nào có bác cháu nó là chẳng có người dân làng hiền lành nào muốn tới. Ai ai cũng tởm, cũng ghét và t́m cách tránh càng xa, càng tốt. Thằng Lếu thấy mọi người né ḿnh th́ lại càng hung hăn. Trẻ con và người lớn trong làng, ít ai chưa từng là nạn nhân của nó.

Một hôm, vào mùa Thu, tiết trời mát mẻ, dân làng lại nhộn nhịp chào đón một vị quan đi kinh lư ngang qua. Lếu nghĩ rằng chắc ông quan này phải lớn lắm. Có thể c̣n lớn hơn ông quan trước nữa. V́ không th́ sao dân làng lại lấy cả cờ quạt chiêng trống của những buổi đại lễ ra mà nghinh đón. Nếu điều đó là đúng th́ ông này hẳn là phải có quyền thế và tiền bạc nhiều hơn. Nghĩ thế rồi Lếu uống cho một bụng đầy nước và leo lên cành đa ngồi đợi. Đoàn quân tiến vào làng. Lếu thấy vị quan này không đi kiệu , ḿnh mặc áo giáp, uy nghi ngồi trên một con ngựa hồng to lớn. Tay ông gh́ cương cho ngưạ đi chậm lại .Trên gương mặt nghiêm trang, Ông để lộ nét hân hoan như trầm trồ khen ngợi sự  phồn thịnh và khung cảnh sống động cuả dân làng. Ngay lúc đó, một ṿi nước từ trên cành đa tuôn xuống xối xả trên đám quân lính và vị quan nọ. Quan nh́n lên, thấy thằng Lếu vừa cười vừa nh́n ông khinh mạn và thách thức. Giận cho hành vi vô lễ, hỗn hào, Ông sai lính bắt thằng Lếu xuống , chém đầu .

- Thế bác Láo nó đâu, U, sao không bênh nó?

U Duệ lại cười:

- À, bác nó hả, U nghe đâu lăo ấy chết lâu rồi. Mà nếu có c̣n sống th́ chắc ǵ lăo ấy bênh nó. Người ta đặt tên lăo là Bác Láo th́ cũng phải có lư do chứ ! Vả lại, con ạ, dân ta là một giống dân hiền lành, đầy ḷng nhân đạo, tin tưởng vào thuyết ác giả ác báo. Nghĩa là kẻ làm điều ác th́ sẽ gặp ác, không ai cứu được. Người lành, làm việc thiện , nếu có gặp chuyện không may th́ sẽ có hiền nhân giải cứu. Thôi, bé đi ngủ đi, mai c̣n dậy sớm đi học. Chóng ngoan, U thương! 

Tôi mỉm cười ngước nh́n U Duệ. U Duệ vẫn cười. Nụ cười hiền như U Duệ vậy. 

 

Ngô Minh Hằng

Cùng một tác giả Ngô Minh Hằng

 

Trở lại trang chánh