Niềm Đau Quốc Hận 30/4 Trong Thi Ca VN Hải Ngoại

TUYẾT MAI

(Việt Báo Thứ Bảy, 4/21/2007, 12:02:00 AM)

30 tháng Tư, 1975 là ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử, đây là ngày Quốc hận của mấy mươi triệu đồng bào Miền Nam. Ngày hôm ấy, hằng triệu dân quân Miền Nam bị rơi vào cảnh kinh hoàng, hằng vạn người đổ ra biển đi tìm tự do, nhiều tướng lãnh và quân cán chính đã khẳng khái tuẫn tiết để bảo toàn danh dự. Sau đó trên đường đi tìm tự do, hằng vạn người bị chết trên đường vượt biên, băng rừng, hằng trăm ngàn người bị đày đọa trong ngục tù từ Nam ra Bắc hay bị thảm sát. Đây là một giai đoạn đen tối, đau thương nhất trong lịch sử VN.

Trên bước đường lưu vong, khi hạnh phúc không còn trong tầm tay, khi con tim đã chín muồi với đau thương thì những lời thơ trong lòng thi nhân tự nó trào tuôn. Bằng những xúc cảm chân thành thi sĩ đi vào thi ca bằng tấm lòng chứa chan tình yêu quê hương, Tổ Quốc, lời thơ nói lên tâm hồn cô đơn sâu thẳm và sầu muộn tràn đầy.

Mời độc giả lắng lòng, hồi tưởng lại những xót xa cho quê hương máu lửa ba mươi hai năm trước đây, với những giọt nước mắt cho người nằm xuống.

“Chiều ầy Lai Khê u uất lắm

Đất trời cây cỏ ngập màu tang

Khi người nằm xuống, Người nằm xuống

Ta đã mất rồi! Mất Việt Nam.

Sáng Ba-nươi giặc tràn Phú Lợi

Quân ta về trấn thủ Bình Dương

Ta vẫn nghe tiếng Người trong máy

Lòng trung Tổ Quốc vẫn vang vang

Đồi Bam-mốt Sư Đoàn bị bức tử

Đêm ba-mươi vang vọng những hồn oan

Bao nhiêu năm! cờ tang chưa xả

Sống lưu đày lòng đau nhục mang mang

Trời Tháng Tư vẫn nghẹn ngào trong nắng

Hởi hồn Người! Còn vang tiếng Việt Nam.

(Tưởng nhớ Tướng Lê NguyênVỹ) - Đăng Nguyên.

 

Nhà thơ Thương Việt Nhân ghi lại hình ảnh một người lính tử trận ở Cầu Rạch Chiếc.

“Ba mươi Tháng Tư, mây trời ôm khói lửa

Anh, người lính sau cùng đối diện kẻ thù

Ngả xuống bên cầu Rạch Chiếc

Anh chưa kịp nói lời từ biệt

Nhưng vinh-hạnh anh đền xong nợ nước

Mỗi Tháng Tư về ray rức trong tim

Ký ức hiện về đâu phải kiếm tìm

Anh, người lính sau cùng bên cầu Rạch Chiếc

Sống mãi trong tôi từng Tháng Tư qua”

(Bên cầu Rạch Chiếc) Thương Việt Nhân.

 

Tháng Tư, 1975 là cái mốc thời gian đáng ghi nhớ của bao nhiêu người lính kiêu hùng:

“Tháng Tư chợt nhớ quê nhà

Quặn đau từng mãnh sơn hà nát tan

Tháng Tư bẻ kiếm không hàng

Rừng đau núi phủ màu tang ngất trời

Tháng Tư, kinh sử tơi bời

Xót ai tuẫn tiết với lời thề xưa

Ngồi buồn đếm từng cơn mưa

Nỗi đau bút mực như vừa gom chung

Tháng Tư thẹn mặt anh hùng

Ngước lên, nhìn xuống trùng trùng nghiệt oan

Tháng Tư lệnh xuống qui hàng

Ba mươi năm vẫn chưa tan nỗi hờn”

(Nỗi Đau Bút Mực Tháng Tư) Lê Khắc Anh Hào

 

Nhà thơ Vương Đức Lệ diễn tả tâm trạng cô độc trong nhà giam:

“Phòng giam hai bệ ngủ

Quanh quất một mình ta

Chợt thèm hơi thở nhỏ

Dẫu tiếng thở dài xa

Mờ mờ ô cửa gió

Chân ai bước lại qua?

Trừng trừng đôi mắt đỏ

Soi mói, rợn da gà…

Xủng xẻng xâu chìa khóa

Dừng lại riêng phòng ta

Ầm ầm khuôn cửa mở

Đêm đen bỗng vở oà…”

(Cô Độc)

 

Rồi hằng vạn người đổ ra biển cả đi tìm tự do, Nhà thơ Đào Văn Bình ghi lại cảnh trời mây non nước đêm vượt biên:

“Thuyền đã xa rồi Côn Sơn ơi!

Bóng em vụt tắt ở ngàn khơi

Thuyền đi như thể vào vô tận

Chỉ có sao trời đưa lối thôi”

(Giã từ Côn Sơn)

 

Bên cạnh những chết chốc chiến tranh, những bài thơ hoài hương luôn để lại trong lòng người những ấn tượng sâu sắc, những nỗi đau buồn xót xa, thương nhớ về một miền quê hương yêu dấu, đã ngàn trùng cách xa. Và chúng ta không biết đến bao giờ có thể trở về để sống lại với những kỷ niệm êm đềm của ngày xưa cũ. Dù lưu lạc ở chân trời nào, góc biển nào, chúng ta vẫn tương tư, vẫn ấp yêu, nhớ hoài nhớ mãi hình bóng quê nhà thân yêu.

“Mùa Xuân nào ta sẽ về thăm Quảng Trị

Mình sẽ về thăm Chợ Sải, Chợ Cầu

Nhớ ghé thăm làng Trí Bưu, Xuân Mỵ

Xem biển đời còn cuộn sóng nương dâu

Mùa Xuân nào mình về thăm Ái Tử

Ca dao xưa nơi mẹ vẫn bồng con

Bên đầu cầu gánh quá nhiều bom đạn

Tang thương ơi nước lở với non mòn!

Mùa Xuân nào về thăm cầu Bến Hải

Nước dưới sông sao tê tái vô tình

Chia một lần là chia lìa mãi mãi

U uất đời vết cắt: Mẹ Gio Linh”

(Mùa Xuân Nào Ta về Thăm Quảng Trị)

Phan Khâm.

 

Hoàng Trùng Dương mang tâm trạng của kẻ lưu vong biệt xứ, bơ vơ ở một miền đất lạ với bao nỗi đắng cay, khổ nhục, cả thể xác lẫn tinh thần. Nhất là những ngày Xuân, Xuân đất khách không có nắng ấm và hoa mai vàng rực rỡ, chỉ có hoa tuyết rơi não nuột, lạnh lùng:

“Xuân về hồn thấy chơi vơi

Rừng trơ trụi lá, tuyết rơi lạnh lùng

Cảnh buồn khêu gợi nhớ nhung,

Vời trông cố quốc ngàn trùng cách xa

Người đi cạn chén quan hà

Giọt buồn đọng lại nhạt nhòa lệ dâng

Lưu vong đã mấy mùa Xuân

Nhìn hoa tuyết rụng lâng lâng gợn sầu.”

(Kiếp Lưu Vong) Hoàng Trùng Dương.

 

Hoàng Song Liêm cũng cùng tâm trạng của Hoàng Trùng Dương, một nỗi buồn man mát như cánh chim lạc đàn trong ngày Tết tha hương:

“Pháo nổ nhà ai buồn gác trọ

Nửa đêm ngoài phố bước chân mau

Khói trầm ai thả mùi hương Tết

Trừ tịch đêm nay sầu lại sầu

Đã mấy mùa Xuân xứ lạ

Bồi hồi tưởng Tết cố hương xa

Chén cơm manh áo sao mà nặng

Thao thức năm canh mấy tiếng gà”

(Xứ Lạ Quê Người)

 

Mẹ vẫn là hình ảnh thương yêu nhất trong tâm tưởng của những đứa con xa xứ. Làm sao quên được hình ảnh Mẹ rưng rưng dòng lệ trong buổi tiễn đưa con. Nhà Thơ Phan thị Ngôn Ngữ diễn tả nỗi niềm thương nhớ mẹ cha da diết:

”Nỗi nhớ trong tôi là ước hẹn

Buổi trùng phùng tay nắm nghẹn ngào vui

Nước mắt trong tôi pha lẫn giọng cười

Mẹ chống gậy đón con đầu lộ vắng

Chén trà sen ngát hương chiều tĩnh lặng

Cha ngồi nghe con kể chuyện tha hương

Nắng đầu xuân nhảy múa ở quanh vườn”

(Nỗi Nhớ) Phan thị Ngôn Ngữ.

 

Trong những ngày lưu lạc tha hương, nhà thơ Phan Thị Ngôn Ngữ chẳng những chỉ nhớ mẹ nhớ cha mà nhớ luôn cả Bà Ngoại, êm ru đưa cháu đi vào giấc ngủ thần tiên:

“Chiếc võng gai mấy mùa mưa nắng

Mỗi trưa ngồi - con nhổ tóc sâu

Trong tiếng gù gù của lũ chim câu

Ngoại dắt con qua từng trang Kiều lẩy

Câu Lục vân Tiên như mái dầm mái đẩy

Giọng Ngoại chèo lúc nhặt lúc khoan

Để hồn con là cánh vụ xoay tròn

Rồi ngủ rụng trên vai còm của Ngoại”

(Tuổi Thơ Con Là Chỗ Ngoại Nằm).

 

Đứng bên này bờ đại duơng, nhìn về chân trời xa, chẳng thấy quê hương ch nào, nhưng trong tâm trí chúng ta vẫn còn nguyên hình ảnh của Saigon xưa cũ với những nhịp xe lăn đâu đó nửa khuya và những đêm hò hẹn trong quán cóc bên đường.

“Khi trở lại – Sai Gòn lạ thế

Đường thay tên vội vã những góc đời

Sài Gòn ngày xưa còn đó trong tôi

Quen thuộc cả từng hàng hiên góc phố

Khi trở lại Sài Gòn – tôi xưa cũ

Nghe chênh vênh ngơ ngác một chốn về

Vẫn ánh đèn màu-quán cóc café

Vẫn những hàng me đang mùa lá đổ

Trên áo ai phất phơ bay chiều cuối phố…”

(Sài Gòn Khi Trở Lại) Phan thị Ngôn Ngữ.

 

Vâng! 30 Tháng Tư là ngày Quốc hận! Bao nhiêu năm lưu lạc xứ lạ quê người chúng ta vẫn luôn quay đầu hướng về cố quốc với muôn ngàn niềm thương nỗi nhớ, với đầy ấp kỷ niệm nồng nàn. Những thảm mạ xanh tươi, những giòng sông của tuổi thơ, rồi chiến tranh với hận thù chất ngất, rồi nỗi đau chia lìa ngày bỏ xứ ra đi. Tất cả những mãnh vụn tâm tình của đời người tỵ nạn được gom góp lại thành dòng thơ Quốc hận.

Nhưng, chúng ta không thể dừng lại đây để chỉ khóc than, thương tiếc, hoài niệm về cố hương xa xôi… tám mươi triệu đồng bào ở quê nhà đang trông chờ sự dấn thân đấu tranh của chúng ta ở hải ngoại. Chúng ta tạm biệt chứ không phải vĩnh biệt quê hương.

Tự do, dân chủ, hạnh phúc, ấm no, không thể đến với những vần thơ tuyệt vời, với ước mơ suông. Hãy dũng mãnh đứng lên đấu tranh cho một ngày về vinh quang trên quê hương, Việt Nam yêu dấu ngàn đời của chúng ta.

“Tôi cũng như anh vẫn một lòng

Bên trời canh cánh nợ non sông

Trong tim dòng máu còn luân chuyển

Còn khắc ghi hoài nỗi nhục vong

Mẹ Việt Nam ơi! Con còn đây

Ba mươi hai năm là mấy vạn ngày

Khắc khoải chờ mong ngày trở lại

Diệt lũ bạo quyền, góp bàn tay.

(Ba Mươi Hai Năm Biệt Xứ) Yên Sơn.

 

TUYẾT MAI

Trở lại trang chánh