Phóng sự đặc biệt ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa 19 Tháng Sáu |
Harry Trần Ngọc Huế, một chiến binh anh dũng và trung thành |
Bài và h́nh: Đỗ Dzũng
Đại úy Harry Trần Ngọc Huế được Tướng Creighton Abrams, Tư Lệnh Quân Đội Hoa Kỳ tại Việt Nam, gắn huy chương “Anh Dũng Bội Tinh với Ngôi Sao Bạc” (Gallantry Cross with Silver Star), sau trận Mậu Thân 1968.
FALLS CHURCH,
Virginia (NV) - “Harry Trần Ngọc Huế là một chiến binh lỗi lạc và ông đă phải
trả giá đắt cho sự trung thành với tổ quốc ḿnh trong cuộc chiến Việt Nam.” Đó
là lời mà Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ James Webb (Dân Chủ-Virginia) viết về người cựu
sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa (QLVNCH) này trong một bức thư đề ngày 4
Tháng Tư vừa qua.
Qua một người bạn giới thiệu, tôi được gặp người đàn ông
mà nhiều người trong Hải Quân và Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, trong đó có Thượng
Nghị Sĩ Webb, từng là bộ trưởng Bộ Hải Quân, gọi là “anh
hùng của những anh hùng (Hero of the Heroes).”
Tướng cao to, khỏe mạnh, mặc dù tuổi đă ngoài 60, bàn tay
trái chỉ c̣n hai ngón nguyên vẹn, cộng với một vài vết thẹo trên khuôn mặt và
phía dưới cằm, ít ai ngờ rằng, con người này đă từng vào sinh ra tử biết bao
lần, nhất là cuộc chiến lấy lại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh và Đại Nội Huế, hồi
Tết Mậu Thân 1968.
Bàn tay chỉ c̣n hai ngón nguyên vẹn của Harry Trần Ngọc Huế và những tấm huy chương.
V́ những hành động
anh hùng của ḿnh, ông Harry Trần Ngọc Huế đă được Hoa Kỳ tặng thưởng một huy
chương “Ngôi Sao Bạc” (Silver Star) và một huy chương “Ngôi Sao Đồng” (Bronze
Star). Ngoài ra, ông cũng được chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa tặng Đệ Ngũ Đẳng Bảo
Quốc Huân Chương cùng nhiều huy chương cao quư khác. Harry là tên các cố vấn
Mỹ đặt cho ông.
Cuộc tái chiếm Bộ Tư
Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh
Là đại đội trưởng
Đại đội Hắc Báo, lực lượng tổng trừ bị của Sư Đoàn 1 Bộ Binh QLVNCH, Trung
úy Trần Ngọc Huế đă khôn khéo và dũng cảm chỉ huy trận chiến một mất một c̣n với
quân đội Bắc Việt để lấy lại quyền kiểm soát Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1, nơi đầu năo
chỉ huy tái chiếm lại Huế vào Tết Mậu Thân 1968.
Người cựu chiến binh này kể: “Lúc đó, Đại đội Hắc Báo của
chúng tôi là Lực Lượng Phản Ứng Cấp Thời (Fast Reaction Forces) đóng tại sân bay
Thành Nội. Đêm đó là mùng một Tết và quân đội Bắc Việt đă tấn công
nhà đèn, Thiết Đoàn 7 Thiết Giáp, Phú Văn Lâu, Ṭa Hành Chính Tỉnh và Bộ Tư Lệnh
Sư Đoàn 1. Ngoài đường phố tràn ngập lính Bắc Việt, phi trường bị pháo
kích dữ dội...”
Ông kể tiếp: “Chúng tôi có 6 trung đội, sau khi bố trí
quân, tôi về nhà nghỉ. Một lúc sau, thấy pháo dữ dội quá, tôi trở dậy, mặc đồ
lính đi. Trong đêm tối, tôi thấy đặc công Bắc Việt đi hàng hàng lớp lớp ngoài
đường.”
“Lúc đó, tôi rất lưỡng lự, không biết có nên đi hay không
v́ con gái đầu ḷng của tôi mới sinh được một tháng. Tôi có thể trở về nhà với
vợ con, nhưng nghĩ lại trách nhiệm của người lính và một chỉ huy. Hơn nữa,
nếu nước mất nhà tan, th́ chưa chắc gia đ́nh tôi yên ổn.
Thế là tôi tiếp tục đi phía sau họ để đến phi trường,” người anh hùng này kể
tiếp.
Harry Trần Ngọc Huế: “Lúc đó, chúng tôi chiến đấu với tinh thần sống tự do hay là chết.”
Khi đến sân bay,
theo lời ông kể, đặc công Bắc Việt đă tiếp cận bộ chỉ huy Đại đội Hắc Báo của
Trung úy Huế.
“Họ chiến đấu rất hăng say. Họ mặc quần đùi, đeo súng AK
bá xếp. Tuy nhiên, các anh em Hắc Báo đă dũng cảm chiến đấu và đánh bật đối
phương ra khỏi phi trường. Chúng tôi cứu được hai lính thủy quân lục chiến
Hoa Kỳ, lúc đó có nhiệm vụ bảo vệ phi trường, khỏi tay quân địch,” ông Huế
kể tiếp.
Sau đó, đơn vị Hắc Báo lại được lệnh của Trung tá Ngô Văn
Chung, trưởng pḥng 3, Sư Đoàn 1, qua giải cứu Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn, đang bị địch
vây hăm.
“Liền đó, tôi nghe trên điện đàm tiếng Trung tá Chung
nói: Đây là lệnh của mặt trời (ẩn danh của Tướng Ngô Quang Trưởng). Nếu không
thi hành sẽ bị đưa ra ṭa án mặt trận”. Ông Huế kể.
Qua hệ thống vô tuyến chỉ huy, ông Huế cũng nghe được
lệnh của Trung tá Chung ra lệnh cho Thiết Đoàn 7, đồn trú tại An Cựu, đưa xe
tăng sang cứu Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn.
“Tuy nhiên, Trung tá Chí, thiết đoàn trưởng Thiết Đoàn 7
Thiết Giáp, cho sư đoàn biết là hiện tại bộ chỉ huy của ông đang bị pháo và đặc
công uy hiếp nặng nề,” ông Huế kể tiếp.
Sau khi ổn định t́nh h́nh, Trung úy Huế tập trung anh em
Hắc Báo lại và ban lệnh hành quân kế tiếp.
Ông kể: “Tôi nói với anh em rằng, một nửa đại đội
pḥng thủ phía Nam sông Hương đă chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và tôi đă mất
liên lạc. Nay Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn đang bị vây hăm, t́nh thế thập tử nhất
sinh, tất cả đều trông cậy vào Hắc Báo chúng tôi. V́ sự sống c̣n của anh em và
gia đ́nh, v́ sự sống c̣n của đồng bào và thành phố, chúng tôi quyết phải đánh,
dù bất cứ giá nào.”
Cựu hắc báo Harry Trần Ngọc Huế đứng cạnh bức h́nh mà cựu cố vấn David Wiseman đă cầm để đi t́m ông trong một thời gian dài.
Sau khi nghe đại đội
trưởng Huế nói, tất cả đều hô to “Xin thề! Xin thề! Xin thề!” và “Huế ơi, có
chúng tôi đây!”
“Đó là lời thề của các chiến sĩ Hắc Báo trước khi xung
trận,” cựu đại đội trưởng Hắc Báo cho biết tiếp.
Nhờ sống ở Huế lâu và rất rành đường đi nước bước
trong thành phố, nên ông Huế dễ dàng dẫn quân luồn lách qua những ngả đường, đến
nơi mà địch hoàn toàn không biết.
Người cựu chiến binh QLVNCH này say sưa kể: “Khi đến
bên này Cầu Kho, tôi thấy bên kia cầu, gần cổng chính vào Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn,
địch đang lúc nhúc đào công sự, chuẩn bị tấn công. Bên trong bộ tư lệnh không
thể nào ra được. Ngoài nhân viên Việt Nam c̣n có một số cố vấn Mỹ trong đó. Nếu
bộ tư lệnh mà bị chiếm là coi như rắn mất đầu. Thế là chúng tôi phải dốc toàn
lực đánh một mất một c̣n với địch.”
Theo ông Huế, Hắc Báo là đơn vị đầu tiên của Sư Đoàn 1 có
súng M16, được coi là tối tân nhất lúc đó. Họ cũng sử dụng súng phóng hỏa tiễn
M72, đại liên 30ly và đại bác 57ly không giật.
“Từ bên này cầu, tôi cho bố trí ba khẩu đại liên bắn trực
xạ làm quân địch rối loạn. Cùng lúc đó, chúng tôi dùng cả lựu đạn khói làm
địch không thấy đường. Sau khi hy sinh một tiểu đội, chúng tôi chiếm lại cầu
và mở đường vào bên trong bộ tư lệnh,” ông Huế kể tiếp như vậy.
Người đầu tiên Trung úy Huế gặp khi vào bên trong bộ tư
lệnh là Trung tá Trần Văn Cẩm, tham mưu trưởng sư đoàn. Trung tá Cẩm liền chỉ
cho đại đội trưởng đại đội Hắc Báo biết nơi địch quân đang chiếm đóng trong khu
vực. Đó là khu vực Đại đội 1 Quân Y Sư Đoàn, bệnh xá và câu lạc bộ.
“Không chần chờ, tôi cho lệnh chiến đấu,” ông Huế kể.
Đơn vị Hắc Báo dùng lựu đạn đi đến tấn công từng
pḥng, giết và bắt một số tù binh một cách dễ dàng.
“Chiến thuật của Hắc Báo lúc đó là cận chiến nhằm bắt
sống tù binh để khai thác. Nếu không được mới dùng lựu đạn tấn công,” ông Huế
cho biết như vậy.
Tôi hỏi: “Làm sao mà đặc công có thể thoát băi ḿn để
vào được bên trong bộ tư lệnh nhiều thế?”
“Đó là một đường cống, lỗ thoát nước. Đó chính là nơi
mà đặc công ḅ vào,” ông trả lời.
“Sau khi chiếm cửa hậu phía Bắc của thành Mang Cá, tôi
thấy một cảnh hăi hùng. Địch đang ḅ lê ḅ càng dọc theo bên ngoài bờ thành. Thế
là các khẩu đại liên của Hắc Báo cứ thế mà ‘quét’ vào. Cuộc chiến bắt đầu từ 10
giờ sáng mà măi đến 3 giờ chiều mới kết thúc,” ông Trần Ngọc Huế nói.
Ông nói tiếp: “Lúc đó, chúng tôi
chiến đấu với tinh thần sống tự do hay là chết.”
Ngay sau đó, ông đă được tặng thưởng huy chương Anh
Dũng Bội Tinh với Ngôi Sao Bạc (Gallantry Cross with Silver Star) do chính
Tướng Creighton Abrams, tư lệnh Các Lực Lượng Quân Đội Hoa Kỳ tại Việt Nam, gắn
lên ngực áo. Cũng trong dịp này, ông được lên đại úy và chính Tướng Ngô Quang
Trưởng gắn lon cho ông.
Ngày 19 Tháng Sáu, 1969, Ngày Quân Lực VNCH, ông Trần
Ngọc Huế được thăng cấp thiếu tá.
Viên ngọc của “Huế”
Sinh ra và lớn lên tại Huế, cái tên Trần Ngọc Huế của ông
c̣n có nghĩa là “ḥn ngọc của Huế xuất phát từ nhà Trần.”
Năm 12 tuổi ông đă vào trường Thiếu Sinh Quân. Sau khi
đậu tú tài, chàng thanh niên Trần Ngọc Huế vào trường Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt,
khóa 18. Ra trường năm 1963, ông được điều ngay về Sư Đoàn 1 Bộ Binh.
Kể từ năm 1969, ông lần lượt làm tiểu đoàn trưởng các
tiểu đoàn 1/3, 5/2 và 2/2 thuộc Sư Đoàn 1 Bộ Binh.
Tháng Ba, 1971, Tiểu Đoàn 2/2 của ông cùng với các
tiểu đoàn khác, dưới sự chỉ huy của Đại tá Ngô Văn Chung, trung đoàn trưởng
Trung Đoàn 2, được điều động tham gia cuộc hành quân Lam Sơn 719 với nhiệm vụ
đột kích bằng trực thăng vận vào mục tiêu chiến lược Tchepone, Nam Lào.
Theo kế hoạch, sau khi hoàn thành nhiệm vụ chiếm và kiểm soát mục tiêu chính của
cuộc hành quân, ông Huế sẽ được Tướng Phạm Văn Phú đáp trực thăng xuống gắn lon
trung tá và tiểu đoàn của ông sẽ được lệnh hành quân về phía Tây Nam Lào, giải
vây cho hai tiểu đoàn 3/3 và 4/3.
Sau khi giải vây được cho tiểu đoàn bạn, Tiểu Đoàn 2/2
lại bị địch bao vây.
Ông Huế kể: “Lúc đó, pháo bắn vào dữ quá. Tôi bị
thương nặng nơi mặt, đầu và cổ. Ban chỉ huy ra lệnh mở đường máu rút lui.
Anh em đ̣i khiêng tôi rút lui, nhưng tôi không chịu. Tôi không muốn anh em bị
thiệt hại v́ mang tôi đi. Chúng tôi xuống 600 người nhưng chỉ thoát được 50
người. Toàn bộ số c̣n lại bị bắt hoặc hy sinh. Đó là ngày 21 Tháng Ba, 1971.”
Sau đó, ông Huế được anh em tù binh khiêng đi dọc
đường ṃn Hồ Chí Minh về tới Vĩnh Linh. Phía địch quân đưa ông lên xe lửa và
mang ra nhốt tại nhà tù Hỏa Ḷ. Vài tháng sau, ông bị đưa lên nhốt ở các trại
tại Sơn Tây, Hoàng Liên Sơn, Yên Bái, Lạng Sơn và Cao Bằng.
Ông Huế kể tiếp: “Sau khi Hiệp Định Paris được kư
kết hôm 27 Tháng Giêng, 1973, theo quy định, địch phải thả tôi. Lúc đó, tôi
đang ở Kỳ Cùng th́ địch đưa về Hà Tây. Sau đó, họ đưa tôi cùng một số anh em
khác vào bờ sông Thạch Hăn để trao trả tù binh. Nhưng tự nhiên địch chia
chúng tôi ra làm hai nhóm, nhóm bị bắt tại các nơi khác và nhóm bị bắt ở Lào.
Lúc đó, tôi đă mường tượng một điều ǵ đó không tốt.”
“Các anh bị bắt ở Lào là thuộc quyền Mặt Trận Lào Yêu
Nước,” một cán bộ Bắc Việt nói với ông Huế như vậy, theo lời kể của ông.
Ông kể tiếp: “Thế là họ đưa chúng tôi về ngă ba Đường
Thành, Hà Nội, và giam tiếp. Chúng tôi phản đối bằng cách tuyệt thực và cạo đầu.
Thế là chúng c̣ng tay và đánh đập chúng tôi. Sau đó, chúng tôi bị đưa đi Yên Bái
và nhốt cách ly. Kế đến, chúng lựa ra 11 người đầu năo, trong đó có tôi, đưa lên
nhốt ở Cao Bằng.”
“Năm 1974, chúng tôi bị đưa về Nghĩa Lộ làm trại cải tạo
chuẩn bị đón thêm tù binh. Sau đó, chúng tôi lại bị đưa trở lại về Yên Bái để
làm đường chiến lược Tây Bắc,” ông kể tiếp.
Năm 1978, khi Việt Nam rục rịch chiến tranh với Trung
Quốc, ông Huế lại bị đưa về Nam Hà. Đến Tháng Tư, 1982, ông được chuyển về Hàm
Tân. Tháng Bảy, 1983, ông được thả.
Về Sài G̣n, ông bị quản thúc tại gia trong nhiều năm
cho đến năm 1991, ông sang Hoa Kỳ diện cựu sĩ quan chế độ cũ.
Cuộc sống mới tại
Hoa Kỳ
Hồi ở Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 2 của Sư Đoàn 1, ông Huế
có một người bạn thân là David Wiseman, lúc đó là cố vấn Mỹ. Ông Wiseman cũng
từng bị thương ba lần tại Việt Nam và rất cảm kích tinh thần chiến đấu của người
bạn Trần Ngọc Huế.
Sau năm 1975, ông David Wiseman không biết người bạn của
ḿnh sống chết ra sao. Ông cầm tấm h́nh của ông Huế đi khắp vùng thủ đô
Washington D.C. và đưa cho mọi người xem. Mỗi lần ông đưa tấm h́nh ra, ông đều
nhận được một cái lắc đầu.
Cho đến một hôm, ông Wiseman tham dự một buổi tiệc
gây quỹ của Hội Gia Đ́nh Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam tại Virginia và gặp ông
Ngô Đức Am, em rể của bà Khúc Minh Thơ, chủ tịch hội.
Thật là may mắn cho ông Wiseman v́ ông Am chính là người
ở chung trại tù với ông Huế.
Sau khi xem tấm h́nh, ông Am cho ông Wiseman biết ông Huế
vẫn c̣n sống ở Việt Nam. Thế là ông Wiseman t́m cách liên lạc với ông Huế.
Việc đầu tiên là ông Wiseman gởi cho ông Harry một bức
thư ngắn trong đó kèm theo năm tờ giấy $20.
Bức thư chỉ có vài hàng: “Harry, tôi biết anh c̣n sống.
Tôi đă t́m anh 20 năm nay. Tôi sẽ t́m mọi cách đưa anh sang Mỹ. Nếu anh qua Mỹ
tôi sẽ giúp. Nếu anh muốn ở lại, tôi sẽ gởi tiền về giúp. Anh c̣n thích hút
thuốc Salem không?”
Khi đến Hoa Kỳ năm 1991, chính ông Wiseman là người ra
đón gia đ́nh ông Huế tại phi trường
Washington National Airport. Sau đó, ông Wiseman lo mướn nhà cho gia đ́nh ông
Huế, giúp mua sắm một số vật dụng cần thiết.
Theo ông Huế cho biết, ông Wiseman đă qua đời cách đây
bốn năm.
Kể từ khi biết Harry đến Hoa Kỳ, các cố vấn Mỹ, mà nhiều
người sau này trở thành bạn thân và coi Harry như anh em ruột, gọi điện thoại và
đến thăm tới tấp. Ai cũng muốn giúp ông ổn định cuộc sống mới.
Năm 1994, nhờ bạn bè Mỹ giúp đỡ, cựu chiến binh Trần
Ngọc Huế và ba cô con gái, Coco, Vicky và Elly, vào làm cho ngân hàng Navy
Federal Credit Union cho đến nay.
Một người lính đầy danh dự
Dù trong hoàn cảnh nào, cựu chiến binh Harry Trần Ngọc
Huế luôn giữ được khí tiết và danh dự của một người lính QLVNCH. V́ thế, ông
được nhiều người rất kính nể.
“Mỗi người có một cách sống riêng. Bản thân tôi luôn sống
với danh dự của một quân nhân QLVNCH. Người ta (các cố vấn Mỹ) đă rời bỏ quê
hương sang giúp ḿnh th́ ḿnh phải giúp họ hoàn thành nhiệm vụ. Sống với họ
phải sống xứng danh quân đội VNCH. V́ thế, tôi có những cảm t́nh rất khó tin với
các cố vấn Mỹ,” ông Huế chia sẻ như vậy.
Hài cốt nạn nhân của Việt cộng Tết Mậu Thân năm 1968
Ông Ned Devereaux, cố vấn cũ và từng
bị thương với ông cố vấn Wiseman và ông Huế ngày 8 Tháng Mười Một, 1970, cho
biết: “Khi tôi gặp Harry lần đầu tiên, tôi biết ngay ông là một người lính
chuyên nghiệp, một sĩ quan chuyên nghiệp, một người mà khi ra lệnh tôi sẽ theo
ngay, không thắc mắc. Harry đă làm tôi cảm thấy ḿnh là một thành viên trong gia
đ́nh quân đội của ông. Những ǵ ông làm đă giúp tôi hoàn thành nhiệm vụ dễ
dàng.”
“Nếu phải viết một câu về Harry, tôi sẽ viết, Harry
thật sự là một anh hùng, một người trung thành với tổ quốc, cấp trên, gia đ́nh
và binh sĩ của ḿnh và tôi coi Harry như một người anh em cùng huyết thống và
thật sự kính nể ông,” ông Devereaux viết như vậy trong email gởi cho tôi.
Ông Thái Quang Ty, một trung sĩ đại đội Hắc Báo
tham gia trận đánh lấy lại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, đang sống tại thành phố
Atlanta, Georgia, kể: “Anh Huế là một chỉ huy tài giỏi và mưu lược. Lúc tôi ở
cùng đơn vị với anh, Hắc Báo đánh đâu thắng đó, chưa thua một trận nào. Ở mỗi
trận đánh, anh đều quan sát trước địa h́nh trước khi giàn quân. Các chỉ huy khác
thường xua binh sĩ đi trước, riêng bản thân anh lúc nào cũng đi sát binh sĩ.
Chính v́ vậy làm cho tinh thần anh em hăng say.”
Qua điện thoại, ông Richard Weyand, cố vấn đại đội Hắc
Báo từ năm 1967 đến 1969 và hiện sống tại thành phố Kenosha, Wisconsin, nói:
“Harry là người dấn thân nhất cho cuộc chiến. Cách chỉ huy của ông, sự trung
thành của ông và sự can đảm của ông làm tôi tự hào khi được làm việc với ông
trong hai năm trời.”
Một cố vấn khác của đơn vị Hắc Báo, ông William Bolt,
hiện là trung tướng hồi hưu sống tại thành phố Columbia, South Carolina, kể qua
điện thoại: “Trong một trận đánh tại phía Nam thành phố Huế vào cuối năm
1968, chính ông Harry đă cơng ông Richard Weyand ra sau khi ông này bị thương
trong một băi ḿn. Harry quả thực là một người can đảm. Ông là một người yêu
nước và là người hy sinh nhiều nhất cho đất nước của ông mà tôi được biết.”
Thủy quân lục chiến Mỹ tại Huế, Tết Mậu Thân năm 1968
Khi Giáo Sư Sử Học Andrew Wiest,
trường đại học University of Southern Mississippi, chuẩn bị viết tác phẩm
“Vietnam's Forgotten Army, Heroism and Betrayal in the ARVN,” ông vô t́nh biết
được Harry Trần Ngọc Huế qua ông Jim Coolican, cựu Đại Tá Thủy Quân Lục Chiến
Hoa Kỳ và là cố vấn của ông Huế hồi Tết Mậu Thân 1968.
Giáo Sư Wiest kể: “Tôi sang thăm Việt Nam năm 2000 và
thấy rất nhiều. Một điều tôi ít thấy nói đến là QLVNCH. Về Mỹ tôi quyết định
viết một cuốn sách về đề tài này. Trong lúc nghiên cứu t́m tài liệu, nhiều người
cho tôi biết phải t́m và viết về Harry Trần Ngọc Huế. Thế là tôi nhờ cựu cố vấn
Jim Coolican giúp tôi.”
“Tôi nghĩ Harry là một biểu tượng xứng đáng nhất của
Việt Nam và Hoa Kỳ. Cũng như bao nhiêu người khác sau chiến tranh, đến Hoa Kỳ
với hai bàn tay trắng. Giờ đây, cả ba cô con gái của ông đều tốt nghiệp đại học
và có việc làm ổn định. Harry đă thực hiện được giấc mơ Mỹ của ḿnh,” giáo
sư này nói tiếp.
Ông kết luận: “Harry là người yêu nước nhất mà tôi gặp
từ trước đến nay.”
Vào Tháng Mười Một tới đây, Giáo Sư Andrew Wiest sẽ cho
ra mắt tác phẩm nêu trên.