vào
cơi tranh thiền
* Lê Anh Minh
|
Vô Lượng Thọ
Phật
(tranh Tề Bạch
Thạch) |
Trong môn họa
truyền thống của
Trung Quốc
(thường được gọi
là Quốc Họa) ta
thường bắt gặp
những chủ đề ước
lệ quen thuộc
được thể hiện
với màu sắc đậm
nhạt thích mắt,
thậm chí những
màu tươi vui sặc
sỡ. Các chủ đề
này lặp đi lặp
lại đây đó đến
mức sáo ṃn, đại
loại như hoa
(đào, mai, lan,
cúc, sen, thủy
tiên, mẫu đơn,
tử đằng, quỳnh),
điểu cầm
(phụng, ưng, hạc
két, quạ, chim
cút, vịt trời,
gà vịt, ngan
ngỗng), muông
thú (hổ,
ngựa, lừa, trâu
ḅ, dê, nai),
con vật truyền
thuyết
(long, lân),
tôm cá cua, côn
trùng (bướm,
chuồn chuồn, dế,
bọ ngựa, sâu,
kiến), cây
cối (tùng
bách, tre trúc,
ngô đồng, dương
liễu, phong),
phong cảnh
(mây nước sông
biển, núi non,
thác ghềnh, khe
suối), trái
cây, nhân vật
(thật và truyền
thuyết)... Những
chủ đề này được
các họa sĩ khai
thác triệt để
suốt bao thế kỷ
qua. Có người
chuyên vẽ đá,
hoặc mai, hoặc
lau, hoặc
trúc... Chính v́
thế nên hội họa
Trung quốc lâm
vào biển chết,
người họa sĩ cảm
thấy lúng túng
trong mê lộ: bất
kỳ ư tưởng nào
cũng là cũ kỹ mà
các tiền bối đă
khai thác hết
rồi. Loại tranh
này chẳng c̣n ǵ
tân kỳ nữa, rốt
cuộc chỉ là
những màu sắc
trang trí trong
pḥng thất mà
thôi.
|
|
|
Kể từ vị tổ
thiền 28 Ấn Độ
là Bồ Đề Đạt Ma
(?-528) sang
Đông Độ thành sơ
tổ thiền Trung
Quốc (năm 520,
đời vua Lương Vơ
Đế), thiền đă
mọc rễ và lớn
mạnh với thông
điệp thù thắng:
«Bất lập văn tự,
giáo ngoại biệt
truyền, trực chỉ
nhân tâm, kiến
tánh thành
Phật.» Cho đến
đời Nam Tống
(thế kỷ XII)
thiền du nhập
vào Nhật Bản.
Thiền đă ảnh
hưởng tâm hồn
hai dân tộc
Trung-Nhật suốt
bao thế kỷ trong
sinh hoạt hằng
ngày cũng như
trong học thuật.
Ṿng tṛn viên
măn (tranh Torei
Enji, 1721-1801)
Thế là thiền đă
thổi vào nền hội
họa truyền thống
một luồng sinh
khí mới, cứu lấy
môn họa này
thoát khỏi biển
chết. Cách thể
nghiệm thiền
«minh tâm kiến
tánh» là nguồn
cảm hứng bất tận
cho người nghệ
sĩ. Hội họa là
một ngôn ngữ phi
ngôn ngữ, mà
ngôn ngữ hội họa
há không thể
trực chỉ nhân
tâm sao? Rơ ràng
có thể xem hội
họa là phương
tiện thể nghiệm
thiền để có thể
kiến tánh. Nhưng
tôn chỉ của
thiền là phi
phương tiện (bất
lập văn tự, giáo
ngoại biệt
truyền) cho nên
phải thể hiện
thế nào sao cho
hội họa trở
thành một thứ
phương tiện để
có thể tải được
tư tưởng ảo diệu
thâm mật của
Phật giáo? Những
đặc điểm nổi bật
của thiền họa là
sự đơn giản tối
đa tưởng chừng
phi nghệ thuật,
sự hướng nội, sự
trống trải đầy
gợi ư, sự viên
măn trong bất
toàn (như lời
Lăo Tử: «Đại
thành nhược
khuyết»), và
được thể hiện
theo phong các
đặc biệt: tiết
giảm nét bút và
chừa nhiều
khoảng trống
trên giấy (gọi
là bút pháp một
góc: one-corner
style).
Trúc trong gió
(tranh Sengai
Gibon,
1750-1837)
Trong môn họa
Trung Quốc có
hai loại bút
pháp trái ngược
nhau: «công bút»
và «ư bút», có
thể độc dụng hay
kiêm dụng trong
tranh. «Công
bút» là lối vẽ
tỉ mỉ công phu
trau chuốt từng
chi tiết nhỏ. «Ư
bút» là bút pháp
tả ư chấp nhận
màu sắc, nhưng
trong thiền họa
bút pháp này ly
khai màu sắc,
chỉ có mực đen
giấy trắng mà
thôi. Người Nhật
gọi là sumiye
(mặc hội: vẽ
bằng mực đen),
Trung Quốc gọi
là mặc họa.
«Mặc» tức là mực
đen, làm bằng bồ
hóng và keo. Bút
làm bằng lông
các thú như dê,
thỏ, chồn, sói
và ngậm được
nhiều mực. Giấy
vẽ là loại giấy
cực mỏng, đặc
biệt là giấy
Tuyên mà ta quen
gọi là «xuyến
chỉ». Từ đời
Tống trở về
trước, tranh
Trung Quốc chủ
yếu dùng lụa. Từ
đời Tống về sau,
do kỹ thuật làm
giấy tinh xảo
hơn, bắt đầu
xuất hiện giấy
Tuyên. Nói
chung, vẽ sơn
thủy và tả ư chủ
yếu dùng giấy;
vẽ nhân vật,
điểu, hoa chủ
yếu dùng lụa để
dễ đạt sự tinh
vi tỉ mỉ. Nhưng
dù lụa hay giấy,
cả hai đều là
chất liệu lư
tưởng v́ hút mực
dễ dàng. Điểm
này khác hẳn lối
họa sơn dầu Tây
phương.
Tranh của thiền
sư Mục Khê
(1180-1250), đời
Tống
Một chất liệu
mong manh dễ
rách như giấy
được chọn làm
công cụ thể hiện
cảm hứng nghệ
thuật bởi những
cảm hứng này
phải được tải đi
thật nhanh, nếu
ngọn bút dừng
lại lâu, giấy sẽ
bở rách v́ quá
ẩm ướt. Đường
nét phải vẽ
nhanh, tiết giảm
tối đa và chỉ
thể hiện những
ǵ thật cần
thiết mà thôi.
Một nét bút
phóng ra phải là
duy nhất, dù nó
thế nào ta cũng
không được dậm
vá, tô điểm hay
sửa chữa. Nó
phải tự do,
không g̣ ép,
không tẩy xóa
hay đồ lại.
Người nghệ sĩ cứ
để ḿnh trôi đi
theo ḍng cảm
xúc một cách tự
nhiên tự phát
tuyệt đối. Cánh
tay, bàn tay,
ngọn bút chính
là một tổng thể
và dường như có
bàn tay vô h́nh
nào đó dẫn dắt
đi. Thiền họa
dường như thực
hiện bởi khả
năng phi kiểm
soát của người
nghệ sĩ, một sự
phi kiểm soát
đầy khổ luyện.
Nếu giữa bút và
giấy có xen vào
sự suy tư lư
luận nào đó,
điều này sẽ phá
hỏng tác phẩm.
Ta sẽ lầm nếu
cho rằng bức
tranh chỉ là
những nét nguệch
ngoạc cẩu thả vô
lối. Đường nét
của thiền họa là
cái ǵ bất toàn,
nó bất chấp luật
phối cảnh
(perspective) và
luật vẽ bóng
(chiaroscuro)
vốn là định luật
cơ bản của lối
họa Tây phương
để dựng h́nh ba
chiều. Điều cốt
yếu là cái thần
của sự vật phải
thể hiện được
trên giấy, do đó
nét bút phải
sống động như là
nhịp đập của một
sinh thể.
Chăn trâu (tranh
Tsuboshima
Dohei)
Lối họa của
tranh thiền khác
hẳn lối họa sơn
dầu Tây phương.
Lối họa sơn dầu
đ̣i hỏi một bố
cục nghiêm chỉnh
có qui tắc và hệ
thống. Vải bố,
sơn dầu là những
chất liệu mạnh
mẽ cho phép họa
sĩ tẩy xóa, dặm
vá, cạo sửa dễ
dàng. Lối họa
Tây phương ví
như tấm vải
triết lư hoàn bị
mà các sợi chỉ
logic của nó đan
kết chặt chẽ với
nhau. Nó ví như
một giáo đường
tôn nghiêm mà
tường, cột, nền
toàn bằng đá
tảng rắn chắc.
Ngược lại, thiền
họa sao mà nghèo
nàn, h́nh thức
sao mà sơ sài
thô thiển, đường
nét sao mà giản
ước, chất liệu
sao mà mong manh
đến vậy. Thế
nhưng, người
Đông phương
chúng ta lại
nh́n thấy trong
đó một nhịp sống
kỳ diệu ẩn tàng
sau từng nét,
từng chấm, từng
mảng đậm nhạt.
Đen và trắng
tượng trưng cho
cặp mâu thuẫn
đối đăi gay gắt
trong cơi nhị
nguyên này. Cơi
mà tư tưởng
chúng ta chấp
trước vào nó:
đen/trắng,
đúng/sai,
thiện/ác,
cao/thấp,
ngắn/dài,
sướng/khổ,
đẹp/xấu,
có/không, v.v... |
|
|
Thiền là bất nhị
pháp môn
(non-dualism)
đột phá cái thế
nhị nguyên đối
lập để giải
thoát nhân sinh.
Tư tưởng nhất
nguyên (monism)
phá chấp ấy
chính là căn bản
đạo pháp thiền.
Những sắc độ đậm
nhạt tượng trưng
cho từng mức độ
hóa giải, và tất
cả những đen
trắng đậm nhạt
ấy trong từng
nét bút đă thể
hiện một sự vật
nào đó tưởng
chừng vô nghĩa
như gốc cây, cục
đá, cành hoa,
con chim trên
cành, ngọn lau
trĩu tuyết...
nhưng lại chuyển
tải được sự sống
mà không cần
giảng giải. Một
đoá huệ nở cô
đơn hay một cánh
sen lay trong
gió là h́nh ảnh
sống động của
một tâm hồn
thuần phác
nguyên sơ trong
cơn giông tố
cuộc đời. Một lá
thuyền câu bé
nhỏ trên mặt
nước mênh mông
cho ta ấn tượng
sâu sắc h́nh ảnh
biển cả bao la
và sự hiện hữu
một tâm hồn sâu
kín ḥa nhập với
cuộc sống vĩnh
hằng vô ngại
giữa nhịp sóng
đời dâu biển.
Tất cả những kỳ
diệu sâu kín này
lại tựu thành
trong sự dung dị
và phi nỗ lực.
|
Quán Tự Tại |
|
|
Thiền họa không
phải là chụp
h́nh, mô phỏng
hay sao chép một
thực thể. Một
nét chấm hay một
đường cong không
tượng trưng cho
con chim hay
ngọn núi, mà nét
chấm đó chính là
con chim, đường
cong đó chính là
ngọn núi, bởi v́
thiền họa phải
là sáng tạo. Một
sự vật trong
tranh thiền phải
giống thực mà
không giống
thực, phải viên
măn mà dường như
khiếm khuyết.
Người nghệ sĩ
buông xả mọi nỗ
lực chụp h́nh
nguyên dạng sự
vật, mà sáng tạo
một sinh thể
ngoài sự tưởng
tượng của chúng
ta. Thái độ của
nghệ sĩ thiền
họa đối với nghệ
thuật cũng là
thái độ của
thiền đối với
cuộc sống. Đó là
lư do tại sao
hầu hết các tác
giả của tranh
thiền đều là
thiền sư hay
thiền sinh.
Thiền sư nhập
định (tranh
Thạch Khác, thế
kỷ X)
Nét bút của họa
sĩ phải dứt
khoát như tia
chớp, không tô
sửa. Bởi v́ một
sự vật chỉ đẹp
khi nó không bị
ràng buộc hay
câu thúc. Cái
đẹp đó nằm trong
sự buông xả. Cơ
nhục được vận
dụng vẽ một
đường hay một
chấm nhưng đằng
sau đó là sự vô
tâm. Với sự vô
tâm vô niệm của
nghệ sĩ thiền,
tác phẩm nghệ
thuật được h́nh
thành. Thiền họa
chụp bắt cái
thần của sự vật
đương lúc nó vận
hành. Điều này
có vẻ khó bởi v́
vạn vật luôn vận
động không bao
giờ tĩnh tại.
Nhưng người nghệ
sĩ thiền họa có
thể làm được
điều này nếu
biết nắm bắt sự
sống từ trong
tâm nội hơn là
tâm ngoại. Khi
tác phẩm h́nh
thành, những nét
bút phóng phát
trực tiếp từ nội
tâm không bị tạp
niệm ngăn trở đó
chính là một
sinh thể.
|
|
|
Bồ Đề Đạt Ma |
Cho nên, thiền
họa khước từ màu
sắc, bởi v́ màu
sắc gợi nên một
thực thể trong
thiên nhiên mà
thiền họa th́
không chấp nhận
một sự tái hiện
nào dù hoàn toàn
hay bất toàn.
Nếu chủ trương
hội họa là sao
chép mô phỏng
tái hiện giống
hệt một sự vật
th́ không gian
hai chiều của
trang giấy sẽ
không thể hiện
được trung thực
điều ǵ, và màu
sắc khó mà đạt
được nguyên dạng
sự vật đó. Và
nếu người họa sĩ
lại cố vẽ cho
thật giống thực
thể đó th́ cũng
chỉ là sự mô
phỏng tái hiện
rất tội nghiệp
mà thôi.
Mặt khác, thiền
họa không cho
phép sự tŕ
hoăn. Sự diên
tŕ của ngọn bút
sẽ phá hỏng tờ
giấy vốn dĩ mong
manh yếu ớt. Tŕ
hoăn có nghĩa là
thay đổi, là vỡ
mộng, là toan
tính, là lư sự,
là câu thúc mà
đó không phải là
tinh thần của
thiền họa. Luôn
luôn có một nét
nào đó xuất hiện
bất ngờ đột ngột
trong thiền họa.
Nơi mà ta tưởng
sẽ có một đường
hay một chấm th́
lại chẳng có ǵ
cả. Nhưng sự
thiếu vắng đó
không hề gây
thất vọng mà nó
gợi ư cho ta
mạnh mẽ hơn nữa.
Cho nên «bút
pháp một góc»
khiến cho tranh
có nhiều khoảng
trống, thoáng và
đầy gợi ư. Một
trang giấy nhỏ
có thể hàm ẩn cả
vũ trụ. Một nét
ngang ngụ ư cho
sự mênh mông của
không gian, một
ṿng tṛn gợi ư
sự vĩnh hằng của
thời gian, chúng
c̣n gợi nên sự
vô biên và sự
sống nữa.
|
|
|
Điều cần lưu tâm
là tranh tôn
giáo không phải
là tranh thiền.
Cho nên tranh
họa chân dung
chư Phật thậm
chí chân dung
các tổ thiền hay
thiền sư không
nên miễn cưỡng
xếp vào loại
thiền họa. Một
số tranh tuy
thực hiện với
lối công bút
nhưng giàu hương
vị thiền th́
cũng có thể gọi
là thiền họa
được.
Bước vào cơi
tranh thiền là
bước vào thế
giới u mặc đầy
gợi ư. Người
nghệ sĩ thiền
họa – nguyên là
thiền sư hoặc
thiền sinh –
chẳng những muốn
kư thác vào
tranh tâm nguyện
theo dấu bước
của chư tổ bằng
cách minh họa
chân dung, hành
trạng các ngài,
mà c̣n muốn gởi
cho tha nhân một
thông điệp ẩn
tàng qua những
h́nh ảnh đơn sơ
đời thường tưởng
chừng vô nghĩa
với nét bút tiêu
sái ngơ hầu tha
nhân có thể giải
thoát tâm linh.
Trong chừng mực
nào đó thiền họa
có thể xem là
một phương tiện
chứng ngộ. Chức
năng của thiền
họa gắn với chức
năng của công án
thiền.
Kể từ Thiền du
nhập lưỡng thổ
Trung-Nhật, nền
hội họa mỗi nước
đă khởi sắc và
mang một hương
vị thâm trầm.
Hương vị thiền
giúp thiền họa
trở thành một
mảng tranh độc
đáo tân kỳ và
biệt lập trong
kho tàng hội họa
Đông phương.
Người thưởng
ngoạn tranh
thiền trong phút
giây tĩnh lặng
trầm ngâm bên
tách trà ngát
hương, dù đă
muôn lần hân
thưởng một bức
tranh nào đó,
nhưng rồi sẽ có
một lần chợt
thấy ḿnh chới
với. Bức tranh
mới quá, lạ quá,
cơ hồ mới thấy
lần đầu. Một
chân lư vi diệu
vừa được khám
phá. Đó là
khoảnh khắc của
sự bừng tỉnh,
như căn pḥng
kín tối tăm đă
lâu nay được mở
toang mọi cửa
nẻo đón ánh
quang huy của
một ngày mới,
như ngọn đèn vừa
thắp lên sau
biết bao tháng
năm bỏ quên lăn
lóc trong bóng
tối âm thầm.
●
10 tranh chăn
trâu / thập mục
ngưu đồ |
|
1. T́m trâu |
2. Thấy dấu |
3. Thấy trâu
|
4. Được trâu |
5. Chăn trâu |
6. Cưỡi trâu về
nhà |
7. Quên trâu,
c̣n người |
8. Trâu và người
đều quên |
9. Phản bản hoàn
nguyên |
10. Thơng tay
vào chợ |
SÁCH THAM KHẢO
1. D.T. Suzuki,
Zen Buddhism,
Doubleday Anchor
Books, NY, 1956,
p.279-284.
2. D.T. Suzuki,
Manual of Zen
Buddhism, Grove
Press Inc, NY, 1960,
p.128-144.
3. Jean A. Keim,
L'Art Chinois,
Fernand Hazan,
Paris, 1961.
HANOSOFT
–
Hán-Nôm Software
R&D
Chú
thích về font Arial Unicode MS
Cùng
một tác giả Lê Anh Minh
|