Trở lại trang chánh của Website Thiên Lư Bửu Ṭa

 

T̀M HIỂU CÁC TÔNG PHÁI CỦA
ĐẠO GIÁO TRUNG QUỐC

* Lê Anh Minh

 

Tóm tắt: Trong Tam giáo th́ Nho giáo và Đạo giáo (Taoism) là hai hệ thống tín ngưỡng/tôn giáo bản địa của Trung Quốc, c̣n Phật giáo là một tôn giáo du nhập từ Ấn Độ. Riêng về Đạo giáo, chính tư tưởng Hoàng Lăo (Hoàng Đế - Lăo Tử) hay tư tưởng Đạo gia, vu thuật (shamanism), và khát vọng trường sinh bất tử đă dẫn đến sự h́nh thành tôn giáo này. Bài viết sau đây nhằm t́m hiểu tính chất của sự h́nh thành các tông phái của Đạo giáo, cơ cấu và hoạt động của các tông phái xuất hiện vào thời kỳ ban đầu của Đạo giáo, đồng thời mô tả sự ảnh hưởng của Đạo giáo đối với triều đ́nh (giai cấp thống trị) và quần chúng b́nh dân (giai cấp bị trị). Sau cùng, bài viết giới thiệu sơ lược ba giáo phái tiêu biểu, xuất hiện vào thời kỳ ban đầu của Đạo giáo, đó là: Ngũ Đấu Mễ Đạo, Thái B́nh Đạo, và Bạch Gia Đạo.

 

I. KHÁI LƯỢC

Đạo giáo Trung Quốc có nhiều tông phái (tức giáo phái). Thuật ngữ tông phái đồng nghĩa nhau và Đạo giáo hay dùng lẫn lộn pháitông để đặt tên. Người Tây phương thường dùng chữ sect để dịch chữ phái và chữ school để dịch chữ tông. Thực tế, tuy tôngphái đồng nghĩa nhau, nhưng Phật giáo có xu hướng dùng chữ tông và Đạo giáo có xu hướng dùng chữ phái. Trong vài chục tông phái của Đạo giáo Trung Quốc, ngoài thuật ngữ tông phái, thuật ngữ đạo giáo cũng được dùng. Nhưng các thuật ngữ này được dùng không theo quy tắc nào cả và cũng không hề có sự so sánh về qui mô lớn nhỏ giữa các thuật ngữ ấy. Cho nên bài viết này dùng thuật ngữ giáo phái, tức là một thuật ngữ phổ thông, có thể dùng cho một tôn giáo bất kỳ.

Giáo phái đầu tiên là Ngũ Đấu Mễ Đạo  五斗米道, xuất hiện vào đời Đông Hán 東漢 (25-220), triều vua Thuận Đế 順帝 (126-144). Sau đó, giữa những năm Kiến Ninh 建寧 và Hi B́nh 熹平 (168-177) dưới triều Hán Linh Đế 漢靈帝 (168-189), Thái B́nh Đạo 太平道 được h́nh thành. Cho đến đời Đông Tấn 東晉 (317-420) và Nam Bắc Triều 南北朝 (420-589), có thêm nhiều giáo phái xuất hiện như Thượng Thanh 上清, Linh Bảo 靈寶, Lâu Quán 樓觀, v.v... Đến đời Nam Tống 南宋 (1127-1279) và đời Kim (1115-1234), phía Bắc xuất hiện Toàn Chân Đạo 全真道, Chân Đại Đạo 真大道, Thái Nhất Đạo 太一道, v.v... và phía Nam xuất hiện Thiên Tâm Phái 天心派, Thần Tiêu Phái 神霄派, Thanh Vi Phái 清微派, Đông Hoa Phái 東華派, Tịnh Minh Đạo 靜明道, v.v... Đó là giai đoạn phát triển cực thịnh của Đạo giáo.

Trong lịch sử phát triển của Đạo giáo, người ta thấy rằng tùy theo sự biến thiên của xă hội mà nhiều giáo phái suy vong, th́ lại có tân giáo phái ra đời. Có khi do hoàn cảnh xă hội, một giáo phái nhỏ sáp nhập với một giáo phái khác, hoặc một giáo phái lớn bị phân hoá thành chi phái nhỏ hơn. Đó là hiện tượng hưng - suy - phân - hợp trong lịch sử phát triển khoảng 2000 năm của Đạo giáo Trung Quốc. Thí dụ:

- Ngũ Đấu Mễ Đạo đă trải qua hai cuộc cải cách do đạo sĩ Khấu Khiêm Chi 寇謙之 (Bắc Ngụy) và đạo sĩ Lục Tu Tĩnh 陸修靜 (Nam Triều Tống) tiến hành. Khấu Khiêm Chi cải cách Ngũ Đấu Mễ Đạo (tức Thiên Sư Đạo) ở phương bắc nên nhánh này gọi là Bắc Thiên Sư Đạo, c̣n Lục Tu Tĩnh cải cách Ngũ Đấu Mễ Đạo ở phương nam nên nhánh này gọi là Nam Thiên Sư Đạo. Đến đời Tùy th́ Nam và Bắc Thiên Sư Đạo hợp nhất làm một. Khoảng đời Đường sử sách không chép rơ diễn biến của Thiên Sư Đạo. Sau đời Đường, cháu của Trương Lăng (tương truyền là Trương Thịnh 張盛, con thứ 4 của Trương Lỗ) tiếp tục truyền giáo tại Long Hổ Sơn ở Giang Tây. Núi này dần trở thành một trung tâm truyền bá Thiên Sư Đạo và giáo phái mang tên mới là Long Hổ Tông 龍虎宗 theo tên của nơi truyền đạo là Long Hổ Sơn, cũng gọi là Long Hổ Sơn Thiên Sư Đạo.

- Thượng Thanh Phái đến đời Đào Hoằng Cảnh 陶弘景 th́ lấy Mao Sơn làm trung tâm truyền đạo, nên gọi là Mao Sơn Tông 茅山宗.

- Lư Gia Đạo từ đời Đông Tấn về sau th́ nhập vào Thiên Sư Đạo.

- Linh Bảo Phái đến đời Bắc Tống th́ phân hoá thành Đông Hoa Phái; đến đời Nguyên th́ nhập vào Chính Nhất Đạo.

- Lâu Quán Đạo suy thoái vào đời Nguyên, được Toàn Chân Đạo khôi phục, nên nhập vào Toàn Chân. v.v...

Cho dù do những điều kiện chủ quan và khách quan dị biệt như thế nào, th́ các giáo phái có một đặc điểm chung là: xuất hiện vào những thời kỳ mà xă hội bị phân hóa, nảy sinh nhiều mâu thuẫn, và nhân dân lầm than khốn khổ. Thí dụ như:

- Ngũ Đấu Mễ Đạo 五斗米道 và Thái B́nh Đạo 太平道 xuất hiện vào cuối đời Đông Hán lúc mà t́nh h́nh chính trị tối tăm mục nát, khủng hoảng kinh tế nặng nề.

- Thượng Thanh Phái 上清派 và Linh Bảo Phái 靈寶派 xuất hiện vào đời Đông Tấn bị suy yếu do các nước phân tranh.

- Các giáo phái phương Bắc (như Toàn Chân Đạo 全真道, Chân Đại Đạo 真大道,  Thái Nhất Đạo 太一道, ...) và các giáo phái phù lục phương Nam (như Thiên Tâm Phái 天心派, Thần Tiêu Phái 神霄派, Thanh Vi Phái 清微派, Đông Hoa Phái 東華派, ...) xuất hiện vào đời Bắc Tống 北宋 (960-1127) là thời hai vua Huy Tông 徽宗 và Khâm Tông 欽宗 bị giặc bắt giữ, và đời Nam Tống 南宋 (1127-1279) là một thời kỳ loạn lạc liên miên.

Với hoàn cảnh xă hội tao loạn điêu linh trong cơn binh lửa như vậy, các giáo phái đă ra đời như một điểm tựa tâm linh cho quần chúng vốn dĩ quá ngao ngán trước thế cuộc và băn khoăn đau xót về thân phận phù du của kiếp người.

II. CÁCH ĐẶT TÊN CỦA GIÁO PHÁI

1. Lấy tên của bộ tổ kinh 祖經 [1] làm tên của giáo phái

Người sáng lập các giáo phái có nhiều cách để thu hút quần chúng. Ngay từ thuở đầu tiên, các giáo chủ đều lấy kinh điển (tương truyền do thần tiên giáng cơ bút) để thu hút quần chúng:

- Khi Thái B́nh Đạo 太平道 được sáng lập, người ta bảo nhau rằng Trương Giác 張角 được thần tiên trao cho bộ kinh 170 quyển nơi suối Khúc Dương 曲陽. Đó là bộ Thái B́nh Thanh Lĩnh Thư 太平青領書 tức là Thái B́nh Kinh 太平經.

- Khi Ngũ Đấu Mễ Đạo 五斗米道 xuất hiện, người ta tuyên truyền rằng nơi Hạc Minh Sơn 鶴鳴山 Thái Thượng Lăo Quân 太上老君 đích thân truyền đạo Chính Nhất Minh Uy 正一盟威 cho Trương Lăng 張陵. Ngũ Đấu Mễ Đạo cũng gọi là Chính Nhất Đạo và Thiên Sư Đạo.

- Thượng Thanh Phái 上清派 khi thành lập, họ tuyên truyền rằng Ngụy Phu Nhân 魏夫人 (tức Ngụy Hoa Tồn 魏華存) và chư tiên đă truyền cho Dương Hi 楊羲 và Hứa Mật 許謐 bộ Thượng Thanh Chân Kinh 上清真經.

- Linh Bảo Phái 靈寶派 th́ nói rằng giáo chủ Cát Sào Phủ 葛巢甫 (cháu họ của Cát Hồng) đă có được bộ Linh Bảo Kinh 靈寶經 mà xưa kia Nguyên Thủy Thiên Tôn 元始天尊 đă truyền cho Cát Huyền 葛玄.

Những truyền tụng đại loại như vậy th́ rất nhiều, nhưng điều này cho thấy việc đặt tên cho giáo phái dựa trên cơ sở ban đầu là tên của tổ kinh 祖經 (tương truyền do thần tiên giáng cơ bút dạy cho vị đạo sĩ sáng lập giáo phái). Thí dụ như:

- Trương Giác 張角 căn cứ vào bộ Thái B́nh Kinh 太平經 mà đặt tên giáo phái ḿnh là Thái B́nh Đạo 太平道.

- Trương Lăng 張陵 căn cứ vào bộ Chính Nhất Minh Uy 正一盟威 mà đặt tên giáo phái là Chính Nhất Đạo 正一道 (Ngũ Đấu Mễ Đạo 五斗米道 và Thiên Sư Đạo 天師道 là tên gọi b́nh dân của Chính Nhất Đạo).

- Dương Hi 楊羲 và Hứa Mật 許謐 căn cứ bộ Thượng Thanh Đại Đỗng Chân Kinh 上清大洞真經 mà đặt tên phái ḿnh là Thượng Thanh Phái 上清派.

- Cát Sào Phủ 葛巢甫 căn cứ bộ Linh Bảo Kinh 靈寶經 mà đặt tên phái ḿnh là Linh Bảo Phái 靈寶派.

- Đạo sĩ Nhiêu Động Thiên 饒洞天 (đời Bắc Tống) mộng thấy thần tiên mách bảo bèn lên núi Hoa Cái 華蓋 khai quật một hộp bằng vàng chứa bộ Thiên Tâm Kinh Chính Pháp 心經正法; từ đó lập giáo phái và đặt tên là Thiên Tâm Phái 天心派.

- Các đạo sĩ Vương Văn Khanh 王文卿 và Lâm Linh Tố 林靈素 (cuối đời Bắc Tống) được Uông Quân Hỏa Sư 汪君火師 truyền cho Phi Thần Yết Đế Đạo 飛神謁帝道 và Triệu Thăng 趙升 (đệ tử của Trương Lăng) truyền cho bộ Thần Tiêu Thiên Đàn Ngọc Thư 神霄天壇玉書 nên đặt tên giáo phái là Thần Tiêu Phái 神霄派.

- Đạo sĩ Lưu Đức Nhân 劉德仁 (đầu đời Kim) được Lăo Tử giáng bút dạy cho yếu lĩnh của bộ Đạo Đức Kinh nên lập Đại Đạo Giáo 大道教, sau đổi thành Chân Đại Đạo 真大道道.

2. Lấy khẩu quyết luyện đan để đặt tên giáo phái

Tiêu biểu nhất là Toàn Chân Đạo 全真道 và Thái Nhất Đạo 太一道. Đời Kim, Vương Trung Phu 王中孚 (tự là Duẫn Khanh 允卿) gặp tiên Lă Động Tân 呂洞賓 (Lă Tổ ) tại trấn Cam Hà 甘河, được ngài truyền cho khẩu quyết luyện đan là Toàn chân 全真. Ư nói bảo toàn tam bảo (toàn tinh 全精, toàn khí 全氣, toàn thần 全神) hội tụ trung cung 中宮, kim đan thành tựu. Vương bỏ Nho theo Đạo, tu luyện tại núi Chung Nam 終南, đổi tên là Vương Triết (chữ Triết gồm 3 chữ Cát ), tự là Tri Minh 知明, hiệu là Trùng Dương Tử 重陽子 (người đời hay gọi là Vương Trùng Dương 王重陽). Từ khẩu quyết luyện đan, Vương Trùng Dương chọn tên của giáo phái là Toàn Chân Đạo. Đầu đời Kim, đạo sĩ Tiêu Băo Trân 蕭抱珍 xưng là được thần tiên truyền cho Thái Nhất Tam Nguyên Pháp Lục 太一三元法籙, cho nên sáng lập giáo phái là Thái Nhất Đạo 太一道 hoặc Thái Nhất Giáo 太一教, chuyên về phù lục 符籙.

3. Lấy tên của tổ sư làm tên giáo phái

Trường hợp này có Đông Hoa Phái 東華派, Tử Dương Phái 紫陽派 và Bạch Gia Đạo 帛家道.

Đông Hoa Phái do Ninh Toàn Chân 寧全真 sáng lập. Đông Hoa là Đông Hoa Thiếu Quân 東華少君 (tức Vương Huyền Phủ 王玄甫), đệ tử của Thái Thượng Lăo Quân.

Tử Dương Phái 紫陽派 thuộc Toàn Chân Đạo Nam Tông 全真道南宗, thờ Trương Tử Dương 張紫陽 (Trương Bá Đoan 張伯端) làm tổ sư.

Bạch Gia Đạo 帛家道 xuất hiện đời Ngụy Tấn, lấy tên của vị sáng lập là Bạch Ḥa 帛和 làm tên của giáo phái.

Lư Gia Đạo 李家道 xuất hiện đời Ngụy Tấn, lấy tên của tổ sư là Lư Bát Bách 李八百 (cũng gọi Lư Bát Bá 李八伯) làm tên của giáo phái.

4. Lấy tên của khu vực địa lư làm tên giáo phái

Một số giáo phái lấy một địa danh làm tên (có thể là nguyên quán của tổ sư hoặc khu vực phát khởi giáo phái) thí dụ như: Lâu Quán Đạo 樓觀道, Long Hổ Tông 龍虎宗, Mao Sơn Tông 茅山宗, Các Tạo Tông 閣皂宗 (Cáp Tạo Tông 閤皂宗), Long Môn Phái 龍門派.

Lâu Quán 樓觀 thuộc huyện Chu Chí 周至 tỉnh Thiểm Tây 陝西, tương truyền là nguyên quán của quan lệnh Doăn Hỉ 尹喜. V́ thờ Doăn Hỉ làm tổ sư nên giáo phái lấy tên là Lâu Quán Đạo.

Mao Sơn Tông 茅山宗 lấy Mao Sơn (núi cỏ mao) làm tổ đ́nh. Mao Sơn có tên xưa là Cú Khúc Sơn 句曲山, Địa Phế Sơn 地肺山, Cương Sơn 岡山, Kỷ Sơn 己山. Mao Sơn thuộc hàng động thiên phúc địa rất nổi tiếng, nằm ở giữa hai huyện Kim Đàn 金壇 và Cú Dung 句容 của tỉnh Giang Tô. Mao Sơn Tông kế thừa Thượng Thanh Phái 上清派. Đào Hoằng Cảnh 陶弘景 là tổ sư đời thứ 9 của Thượng Thanh Phái (không chú trọng phù lục). Sau khi quy ẩn 10 năm tại Mao Sơn, ông sáng lập Mao Sơn Tông (coi trọng phù lục), lấy tên núi làm tên giáo phái.

Long Hổ Tông 龍虎宗 là một giáo phái phù lục, do con cháu của Trương Đạo Lăng 張道陵 là Trương Thịnh lấy núi Long Hổ 龍虎 làm trung tâm truyền đạo. Long Hổ Sơn cũng thuộc hàng động thiên phúc địa, có tên gốc là Vân Cẩm Sơn 雲錦山, nằm phía Tây Nam của huyện Quư Khê 貴溪 tỉnh Giang Tây.

Các Tạo Tông 閣皂宗 (cũng gọi Cáp Tạo Tông 閤皂宗) chuyên về phù lục, là giáo phái phát triển từ Linh Bảo Phái. Các Tạo Tông h́nh thành vào đời Bắc Tống, tổ đ́nh là Sùng Chân Vạn Thọ Cung 崇真萬壽宮 trên núi Các Tạo 閣皂 (tức Cáp Tạo 閤皂), nằm phía Đông Nam của huyện Thanh Giang 清江 tỉnh Giang Tây. Do đó giáo phái lấy tên là Các Tạo Tông 閣皂宗.[2]

Long Môn Phái 龍門派 phát triển từ Toàn Chân Đạo. Vào đời Minh Thanh, Toàn Chân suy yếu, nên Triệu Đạo Kiên 趙道堅 (một đệ tử của Khưu Xứ Cơ 邱處機) sáng lập Long Môn Phái, và thờ Khưu Xứ Cơ làm tổ sư. Long Môn là tên núi (nơi Khưu Xứ Cơ tu luyện), tọa lạc ở huyện Lũng tỉnh Thiểm Tây.

III. TÊN GỌI CÁC GIÁO PHÁI

Số lượng các giáo phái rất nhiều, do bởi quá tŕnh hưng-suy-phân-hợp. Người ta có thể kể ra một số giáo phái lớn thôi. Sau đây là 38 giáo phái, phân biệt theo tên gọi (gồm 14 đạo, 16 phái, 7 tông, 1 giáo):

* 14 giáo phái tên gọi có chữ Đạo:

1. Bắc Thiên Sư Đạo 北天師道

2. Bạch Gia Đạo 帛家道

3. Chân Đại Đạo 真大道

4. Chính Nhất Đạo 正一道

5. Lâu Quán Đạo 樓觀道

6. Lư Gia Đạo 李家道

7. Nam Thiên Sư Đạo 南天師道

8. Ngoại Đan Đạo 外丹道

9. Ngũ Đấu Mễ Đạo 五斗米道

10. Nội Đan Đạo 內丹道

11. Thái B́nh Đạo 太平道

12. Thái Nhất Đạo 太一道

13. Toàn Chân Đạo 全真道

14. Tịnh Minh Đạo 淨明道

* 16 giáo phái tên gọi có chữ Phái:

1. Diên Hống Phái 鉛汞派

2. Du Sơn Phái 游山派

3. Đan Đỉnh Phái 丹鼎派

4. Đông Hoa Phái 東華派

5. Kim Sa Phái 金砂派

6. Linh Bảo Phái 靈寶派

7. Long Môn Phái 龍門派

8. Nam Vô Phái 南無派

9. Ngộ Tiên Phái 遇仙派

10. Phù Lục Phái 符籙派

11. Thanh Vi Phái 清微派

12. Thần Tiêu Phái 神霄派

13. Thiên Tâm Phái 天心派

14. Thượng Thanh Phái 派上清

15. Tử Dương Phái 紫陽派

16. Tùy Sơn Phái 隨山派

* 7 giáo phái tên gọi có chữ Tông:

1. Bắc Tông 北宗

2. Các Tạo Tông 閣皂宗

3. Kim Đan Phái Nam Tông 金丹派南宗

4. Long Hổ Tông 龍虎宗

5. Mao Sơn Tông 茅山宗

6. Nam Bắc Tông 南北宗

7. Nam Tông 南宗

* 1 giáo phái tên gọi có chữ Giáo:

- Huyền Giáo 玄教

IV. ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC GIÁO PHÁI

Cho dù các giáo phái đă phát khởi thế nào, tên gọi dị biệt ra sao, nhưng tất cả đều giống nhau ở tín ngưỡng cơ bản và mục đích tu luyện. Tín ngưỡng cơ bản của họ là Đạo (theo quan niệm của Lăo Tử) và mục đích tu luyện là trường sinh bất tử, đắc đạo thành tiên. Từ quan niệm nền tảng là Đạo, các giáo phái đă kế thừa và phát triển để biến nó thành một thứ thế giới quan triết học (hay phương pháp luận) của bản môn, mà từ đó họ thiết kế một phương pháp tu luyện phù hợp. Đó là tính chất chung (cộng tính 共性) của các giáo phái; nhưng ngoài ra, mỗi giáo phái cũng có tính chất riêng (cá tính 個性) của ḿnh.

Cái cá tính đó phát xuất từ cách lư giải tín ngưỡng cơ bản và mục tiêu tu luyện, cũng như các phương pháp thực hành. Ngay giai đoạn phát triển ban đầu của Đạo giáo, các giáo phái đều có chung mục tiêu là trường sinh và thành tiên, nhưng cách thực hành th́ khác nhau: hoặc họ thực hành trai tiêu (tức là thể thức cúng tế), hành khí, đạo dẫn, tồn thần, thủ nhất, v.v... (gọi chung là luyện h́nh 煉形); hoặc họ t́m cách chế biến đan dược bằng các thứ như chu sa, diên (ch́), hống (thủy ngân), các dược thảo, v.v... làm thuốc trường sinh và ăn vào để thành tiên (gọi chung là ngoại đan 外丹); hoặc họ vận nội công hấp khí đại chu thiên và tiểu chu thiên, v.v... (gọi chung là nội đan 內丹; nội ngoại đan gọi chung là đan đỉnh 丹鼎); hoặc họ dùng phù lục, bùa chú, cầu đảo, pháp thuật, v.v... (gọi chung là phù lục 符籙). Dần dần các thứ ngoại đan phù lục bị xem là tà đạo, chỉ c̣n chủ trương nội đan luyện dưỡng là được duy tŕ mà thôi. Cho dù phương pháp dị biệt, nhưng quan niệm thành tiên của các giáo phái trong giai đoạn ban đầu của Đạo giáo là «nhục thể và tinh thần cùng tồn tại» (nhục thể dữ tinh thần cộng tồn 肉體與精神共存), hiểu rằng bất tử tức là nhục thể bất tử. Do đó phép tu luyện là nhắm vào luyện thầnluyện h́nh, để thần (tinh thần) và h́nh (nhục thể) đều huyền diệu (h́nh thần câu diệu 形神俱妙), nhờ đó thân thể bay được lên trời (nhục thể phi thăng 肉體飛升), giống như truyền thuyết «Hoàng Đế bạch nhật thăng thiên» (Hoàng Đế bay lên trời giữa ban ngày). Không những nhục thể, mà điền sản nhà cửa cũng có thể bay theo lên trời. Đến khi Toàn Chân Đạo phát khởi (vào đầu đời Kim), quan niệm nhục thể bất tử bị xem là quan niệm ngu xuẩn, không thấu đạt đạo lư. Trái lại, bất tử phải hiểu là chân tính 真性 hay dương thần 陽神 bất tử, thoát xác để quay về với Đại Đạo; c̣n cái thân huyết nhục giống như cái áo, phải cởi bỏ tại thế gian.

Về mặt tín ngưỡng cơ bản, các giáo phái như Ngũ Đấu Mễ Đạo, Thái B́nh Đạo, Bạch Gia Đạo, Lư Gia Đạo, v.v... cũng có sự dị biệt. Các giáo phái này sáng lập vào giai đoạn ban đầu của Đạo giáo; giáo nghĩa (ư nghĩa của giáo phái) và giáo quy (nội quy của giáo phái) không hoàn bị, mang tính chất mù quáng. Các giáo phái này phát sinh từ quần chúng như một phong trào phản kháng giai cấp thống trị, tức là một h́nh thức nông dân khởi nghĩa, chẳng hạn như Trương Giác 張角 lợi dụng Thái B́nh Đạo để dấy động cuộc đại khởi nghĩa gọi là Hoàng Cân khởi nghĩa 黃巾起義 mà sách sử hay gọi là loạn giặc Khăn Vàng. Giữa đời Hán, Trương Tu 張修 thống lĩnh một cánh quân của Ngũ Đấu Mễ Đạo để hưởng ứng Hoàng Cân. Cuối đời Hán của thời Tam Quốc, Bạch Gia Đạo và Lư Gia Đạo cũng khởi nghĩa. Đến đầu đời Tấn, đệ tử của Lư Thoát 李脫 là Lư Hoằng 李弘 (tự xưng là hoá thân của Lăo Quân) khởi nghĩa ở núi Hoắc Sơn 霍山 thuộc tỉnh An Huy. Ngũ Đấu Mễ Đạo thời Tam Quốc bị Trương Lỗ 張魯 lợi dụng, thiết lập tại Hán Trung 漢中 một chính quyền kết hợp giữa chính trị và tôn giáo kéo dài gần 30 năm. Sau khi chính quyền Trương Lỗ bị diệt, Ngũ Đấu Mễ Đạo do Trần Thụy 陳瑞 lănh đạo tại Thục . Rồi Lư Đặc 李特 và Lư Hùng 李雄 lănh đạo các lưu dân khởi nghĩa. Với sự trợ giúp của một đầu lĩnh của Ngũ Đấu Mễ Đạo là Phạm Trường Sinh 范長生, họ chiếm được Thành Đô, xây dựng một thứ chính quyền nhà Hán, kéo dài hơn 40 năm. Sau khi Ngũ Đấu Mễ Đạo truyền vào Giang Nam, vào cuối đời Đông Tấn, lại bạo phát cuộc khởi nghĩa của Tôn Ân 孫恩 và Lư Tuần 盧循, làm cho nhà Đông Tấn mau chóng bị diệt vong. Cuối đời Hán về sau vẫn không ngừng xảy ra các vụ khởi nghĩa của các giáo phái. Nói chung, trong giai đoạn ban đầu của Đạo giáo, các giáo phái đa số mang tính chất chống triều đ́nh. Đến đời Nam Bắc Triều, các đạo sĩ như Khấu Khiêm Chi 寇謙之, Lục Tu Tĩnh 陸修靜, v.v... đều xuất thân từ giới sĩ tộc. Họ dùng luân lư Nho gia để cải cách tính chất chống lại triều đ́nh này; và giáo lư tăng cường nội dung trung hiếu để các đạo giáo thích ứng bản chất của chế độ phong kiến. Có lẽ đây là một trong các lư do mà các Thiện Thư (sách khuyến thiện) một mực đề cao luân lư tam giáo, nhất là luân lư trung hiếu của Nho giáo.

Các giáo phái một mặt ảnh hưởng qua lại với nhau, một mặt hấp thu tinh túy của Nho và Phật giáo. Kể từ đời Đường và đời Tống, tư tưởng Tam giáo hợp nhất là một trào lưu rất thịnh hành. Như Tịnh Minh Đạo chịu ảnh hưởng sâu đậm Nho giáo; c̣n Toàn Chân Đạo th́ ngay từ lúc lập giáo, lư luận tu luyện đă mang màu sắc Thiền Tông.

Về mặt cơ cấu tổ chức, các giáo phái có cơ cấu hoàn bị và tự trị; nhưng càng về sau th́ chịu sự giám sát, quản lư của triều đ́nh. Thuở đầu khi Trương Lăng 張陵 sáng lập, Ngũ Đấu Mễ Đạo có 24 đơn vị giáo khu gọi là 24 Trị . Sau đó, khi Trương Lỗ cát cứ và thống trị Hán Trung 漢中, cái chế độ chính trị và tôn giáo hợp nhất này ấn định chức Tế Tửu 祭酒 như là một đầu lĩnh chính trị kiêm tôn giáo của mỗi Trị. Chế độ Tế Tửu này suy tàn khi chính quyền Hán Trung bị tiêu diệt. Cuối đời Đông Tấn, các phái Thượng Thanh và Linh Bảo thiết lập chế độ Đạo Quán (viết là 道館 hoặc 道觀) làm nơi quy tụ tín đồ và thực hành lễ nghi cũng như tu tập. Tại mỗi quán, dần dần h́nh thành chế độ quản lư và giới luật. Từ đời Tùy, đời Đường, các quán () nhỏ vẫn gọi là quán, c̣n các quán lớn th́ gọi là cung . Từ Nam Bắc Triều, triều đ́nh ấn định chế độ kiểm soát các giáo phái. Đời Nguyên, chế độ kiểm soát càng nghiêm mật. Triều đ́nh lập Tập Hiền Viện 集賢院 để quản lư các giáo phái. Các giáo phái đều tuân theo khu vực hành chánh của nhà Nguyên: ở mỗi Lộ triều đ́nh lập một Đạo Lục Ty 道錄司, đứng đầu là Đạo Lục 道錄 hay Đạo Phán 道判. Ở mỗi Châu th́ có Đạo Chính Ty 道正司, đứng đầu là Đạo Chính 道正 hay Đạo Phán 道判. Ở mỗi Huyện th́ có Uy Nghi Ty 威儀司, đứng đầu là Uy Nghi 威儀. Người cai quản một cung hay quán gọi là Trụ Tŕ 住持, hay Đề Cử 提舉, hay Đề Điểm 提點. Qua đời Minh, tại Kinh Sư có Đạo Lục Ty 道錄司 tổng quản lư Đạo giáo. Ở mỗi Phủ có Đạo Kỷ Ty 道紀司, mỗi Châu có Đạo Chính Ty 道正司, mỗi Huyện có Đạo Hội Ty 道會司.

V. SƠ LƯỢC 3 GIÁO PHÁI ĐẠO GIÁO THỜI KỲ ĐẦU

Do khuôn khổ một bài viết, thật khó mà tŕnh bày cặn kẽ tất cả giáo phái của Đạo giáo. Nhưng để hiểu cơ cấu và hoạt động của các giáo phái xuất hiện vào thời kỳ ban đầu của Đạo giáo, đồng thời để thấy được ảnh hưởng của Đạo giáo đối với triều đ́nh (giai cấp thống trị) và quần chúng b́nh dân (giai cấp bị trị), chúng ta sẽ xét dưới đây ba giáo phái tiêu biểu: Ngũ Đấu Mễ Đạo, Thái B́nh Đạo, và Bạch Gia Đạo.

NGŨ ĐẤU MỄ ĐẠO 五斗米道

* Trương Lăng: Ngũ Đấu Mễ Đạo (cũng gọi Thiên Sư Đạo) ra đời trong giai đoạn đầu của Đạo giáo tức cuối đời Đông Hán (25-220), do Trương Lăng 張陵 (34-156) sáng lập. Trương Lăng tự là Phụ Hán 輔漢 (giúp nhà Hán), người nước Phái , quê đất Phong (nay là huyện Phong, tỉnh Giang Tô). Ông thuộc hậu duệ của Hán Lưu Hầu Trương Lương 漢留侯張良. Trương Lăng xuất thân là một đại nho. Thuở nhỏ ông đă tinh nghiên Đạo Đức Kinh, thiên văn, địa lư, Hà Đồ, Lạc Thư, thông đạt Ngũ Kinh. Đời Hán Minh Đế (58-75), ông làm quan lệnh ở Giang Châu 江州 thuộc Ba Quận 巴郡 (nay là Trùng Khánh, Tứ Xuyên). Cho rằng Nho học vô ích, ông bèn học đạo trường sinh, ẩn cư trong núi Bắc Mang Sơn 北邙山. Triều đ́nh phong chức bác sĩ cho ông nhưng ông thác bệnh và từ chối. Hán Hoà Đế (tại vị 89-105) ba lần ra chiếu phong ông làm quan Thái Phó nhưng ông vẫn từ chối. Đời Hán Thuận Đế 順帝 (126-144), Trương Lăng vào Ba Thục 巴蜀, tu đạo ở núi Hạc Minh Sơn 鶴鳴山 (cũng gọi Cốc Minh Sơn 鵠鳴山), tự xưng được Thái Thượng Lăo Quân truyền đạo Chính Nhất Minh Uy 正一盟威, nên xưng là Tam Thiên Pháp Sư Chính Nhất Chân Nhân 三天法師正一真人; c̣n nói Lăo Quân phong ông làm Thiên Sư, nên đạo này cũng gọi là Thiên Sư Đạo. Năm 141 ông sáng tác đạo kinh, tôn Lăo Tử làm giáo chủ. Trước tiên ông trị bệnh để thu hút quần chúng và sau đó là truyền đạo. Khi quy tụ được đông đảo quần chúng, Trương Lăng (bấy giờ bắt đầu gọi là Trương Đạo Lăng 張道陵 hay Trương Thiên Sư 張天師) tổ chức 24 điểm truyền đạo gọi là 24 Trị , trong đó ba trung tâm lớn là Dương B́nh Trị 陽平治, Lộc Đường Trị 鹿堂治, và Hạc Minh Trị 鶴鳴治. Người nhập đạo phải nộp 5 đấu gạo (gọi là tín mễ 信米), do đó đạo này gọi tên là Ngũ Đấu Mễ Đạo (đạo 5 đấu gạo), cũng gọi là Mễ Vu 米巫 bởi v́ đạo này chịu ảnh hưởng nặng nề của vu giáo 巫教 của dân tộc thiểu số tại Ba Thục. Một cách giải thích khác: Ngũ Đấu Mễ là Ngũ Đẩu Mẫu 五斗姆, tức là Bắc Đẩu Mẫu 北斗姆 trong Ngũ Phương Tinh Đẩu 五方星斗, đứng đầu trong các sao. Hai cách giải thích này đều thông hành; có thể lúc lập giáo, Trương Lăng đă có chủ ư như vậy. Và cho phù hợp với Nhị Thập Bát Tú (28 sao), sau này 24 Trị phát triển thành 28 Trị.

* 24 Trị & 28 Trị: 24 Trị ban đầu gọi là Chính Trị 正治 (gồm Thượng Bát Trị, Trung Bát Trị, và Hạ Bát Trị); c̣n 4 Trị tăng bổ về sau gọi là Biệt Trị 別治 hay Bị Trị 備治:

- Thượng Bát Trị là: 1- Dương B́nh Trị 陽平治 (tại huyện Cửu Lũng 九隴, châu Bành , quận Thục ); 2- Lộc Đường [Sơn] Trị 鹿堂() (tại huyện Miên Trúc 綿竹, châu Hán ); 3- Hạc Minh [Thần Sơn Thượng] Trị 鶴鳴(神山上) (tại Hạc Minh Sơn, nay là huyện Đại Ấp 大邑, thành phố Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên); 4- Ly Nguyên Sơn Trị 漓沅山治 (tại huyện Cửu Lũng, châu Bành, quận Thục); 5- Cát Quư Sơn Trị 葛瑰山治 (tại huyện Cửu Lũng, châu Bành, quận Thục); 6- Canh Trừ Trị 庚除治 (tại huyện Miên Trúc 綿竹, quận Quảng Hán 廣漢); 7- Tần Trung Trị 秦中治 (tại huyện Đức Dương 德陽, quận Quảng Hán); 8- Chân Đa Trị 真多治 (tại huyện Kim Đường 金堂).

- Trung Bát Trị là: 1- Xương Lợi Trị 昌利治 (tại huyện Kim Đường); 2- Lệ Thượng Trị 隸上治 (tại huyện Đức Dương, quận Quảng Hán); 3- Dũng Tuyền Sơn Thần Trị 涌泉山神治 (tại huyện Tiểu Hán 小漢, quận Toại Ninh 遂寧); 4- Trù Canh Trị 稠稉治 (tại huyện Tân Tân 新津, huyện Kiên Vi 犍為); 5- Bắc B́nh Trị 北平治 (tại huyện Bành Sơn 彭山, châu Mi ); 6- Bản Trúc Trị 本竹治 (tại huyện Tân Tân 新津, châu Thục ); 7- Mông Tần Trị 蒙秦治 (tại huyện Đài Đăng 台登, quận Việt Huề 越巂); 8- B́nh Cái Trị 平蓋治 (tại huyện Tân Tân, châu Thục).

- Hạ Bát Trị là: 1- Vân Đài Sơn Trị 雲台山治 (tại huyện Thương Khê 蒼溪, châu Lương , quận Ba Tây 巴西); 2- Tận Khẩu Trị 濜口治 (tại huyện Giang Dương 江陽, quận Hán Trung 漢中); 3- Hậu Thành Sơn Trị 後城山治 (tại huyện Thập Phương 什邡, châu Hán); 4- Công Mộ Trị 公慕治 (tại huyện Thập Phương 什邡, châu Hán); 5- B́nh Cương Trị 平岡治 (tại huyện Tân Tân, châu Thục); 6- Chủ Bạc Sơn Trị 主簿山治 (tại huyện Bồ Giang 蒲江, châu Cung ); 7- Ngọc Cục Trị 玉局治 (tại cửa Nam của Thành Đô); 8- Bắc Mang Sơn Trị 北邙山治 (tại huyện Lạc Dương 洛陽, Đông Đô 東都).

- 4 Biệt Trị (Bị Trị) đều ở phía đông bắc của Kinh Sư Lạc Dương: 1- Cương Đê Trị 岡氐治 (tại núi Lan Vũ 蘭武); 2- Bạch Thạch Trị 白石治 (tại núi Huyền Cực 玄極); 3- Cụ Sơn Trị 具山治 (tại núi Phạn Dương 飯陽); 4- Chung Mậu Trị 鍾茂治 (tại núi Nguyên Đông 元東).

Khi Trương Lăng mất, con là Trương Hành 張衡 kế thừa việc truyền đạo. Khi Trương Hành qua đời, con của Trương Hành là Trương Lỗ 張魯 kế vị. Cả ba đời ông cháu được người đời gọi là Tam Trương, nhưng trong nội bộ phải gọi là Tam Sư: Trương Lăng là Thiên Sư 天師, Trương Hành là Tự Sư 嗣師, và Trương Lỗ là Hệ Sư 系師.

* Cơ cấu tổ chức: Người mới nhập môn gọi là «quỷ tốt» 鬼卒; tu hành lâu năm lên «tế tửu» 祭酒; khi đủ tŕnh độ cai quản một Trị th́ gọi là «trị đầu đại tế tửu» 治頭大祭酒. Tất cả đều dưới quyền của «sư quân» 師君 là Trương Lỗ. Các tín đồ phải giữ giới và tin cậy nhau. Người lầm lỗi phải nhập «tĩnh thất» 靜室 để sám hối ăn năn. Ngoài ra có chức vụ là «quỷ lại» 鬼吏, chịu trách nhiệm cúng cầu xin cho bệnh nhân mau khỏi bệnh. Khi cúng cầu khỏi bệnh và khỏi tội, cần lập 3 lá sớ viết tên bệnh nhân vào đó (gọi là Tam quan thủ thư 三官手書; tam quan là: Thiên, Địa, Thủy): Một đem lên núi, một chôn xuống đất, và một ném xuống nước. Trương Lỗ c̣n lập ra Đồ thán trai pháp 涂炭齋法 (nghi thức trai giới), tuy giản đơn nhưng được xem là khởi nguyên của nghi thức trai tiêu 齋醮 về sau của Đạo giáo. Các tế tửu c̣n có nhiệm vụ thuyết giảng Lăo Tử Đạo Đức Kinh dựa vào bản chú của Trương Lỗ, gọi là Lăo Tử Tưởng Nhĩ chú 老子想爾注. Ngoài việc dùng phù lục bùa chú để trị bệnh; cúng tế và trai giới để cầu xin giải tội và trừ tai nạn; tín đồ Ngũ Đấu Mễ Đạo c̣n thực hành thủ nhất, hành khí, pḥng trung, v.v... Trong phạm vi 28 Trị, Trương Lỗ thiết lập các nghĩa xá 義舍, cung cấp gạo thịt, thức ăn miễn phí cho người qua đường. Về mặt cai trị dân, Trương Lỗ dùng h́nh phạt khoan dung, cấm dân uống rượu, và thi hành nhiều biện pháp có lợi cho dân. Trong cục diện đại loạn cuối đời Hán, chỉ có khu vực Ba Thục và Hán Trung do Trương Lỗ cai trị là thái b́nh, do đó ảnh hưởng của Trương Lỗ rất lớn.

* Trương Lỗ: Trương Lỗ cai trị khu vực Ba Thục và Hán Trung gần 30 năm với một chính quyền hợp nhất tôn giáo với chính trị. Đến năm Kiến An 建安 20 (tức năm 215 CN) tháng 3, Tào Tháo đánh Hán Trung. Đến tháng 11, Trương Lỗ thua, phải dắt gia quyến và thuộc hạ về Nghiệp Thành 鄴城 quy hàng Tào. Tào Tháo dùng lễ trọng đăi Trương Lỗ để lợi dụng thế lực và ảnh hưởng của Trương Lỗ. Tào Tháo phong Trương Lỗ làm Trấn Nam Tướng Quân 鎮南將軍, Lương Trung Hầu 閬中侯. Năm người con của Trương Lỗ cũng được phong tước hầu. Tào Tháo và Trương Lỗ c̣n kết thông gia với nhau. Chính quyền của Trương Lỗ tại Ba Thục và Hán Trung bị diệt. Tuy nhiên Ngũ Đấu Mễ Đạo vẫn phát triển, dù tổ chức bị hỗn loạn, nhất là sau khi Trương Lỗ bệnh và mất. Tín đồ mạnh ai nấy truyền đạo, không theo phép tắc ǵ cả. Nhiều tế tửu lợi dụng tôn giáo để làm việc bất chính, hoang dâm.

* Trần Thụy khởi nghĩa: Đầu đời Tây Tấn, một người quê ở quận Kiên Vi 犍為 (nay thuộc Tứ Xuyên) tên là Trần Thụy 陳瑞 nổi lên truyền đạo tại Ba Thục. Xưa kia Trần Thụy cũng theo Ngũ Đấu Mễ Đạo, nay tự xưng là Thiên Sư 天師, mô phỏng và cải biên giáo quy. Khu vực truyền đạo cũng gọi là trị (hay đạo trị), người nhập môn phải nộp lễ vật gồm một đấu rượu và một con cá tươi. Các tín đồ nào mà trong nhà có việc tang chế hay thai sản th́ trong ṿng 100 ngày đều không được phép lui tới đạo trị. Trần Thụy cũng lập ra các chức tế tửu. Tế tửu nào có cha, mẹ, hay vợ qua đời th́ không được mang khăn tang. Tế tửu cũng không được phép thăm viếng người bệnh hay người mới sinh con. Tín đồ theo Trần Thụy đông tới mấy ngàn người. Thanh thế càng ngày càng lớn. Năm Hàm Ninh 咸寧 thứ 3 (tức 277 CN) quan trấn nhậm Ích Châu 益州 là thứ sử Vương Tuấn 王浚 quy Trần Thụy vào tội bất hiếu và đem quân đánh dẹp, giết Trần Thụy và nhiều tế tửu cốt cán, đốt cháy các cơ sở truyền đạo (tức đạo trị). Quan thái thú Ba Thục v́ là tín đồ của Trần Thụy nên bị băi chức.

* Lư Đặc và Lư Hùng khởi nghĩa & chính quyền Thành Hán: Không lâu sau khi Trần Thụy bị giết, vào các năm Vĩnh Ninh 永寧 và Thái An 太安 (301-303) đời vua Huệ Đế 惠帝 (Tư Mă Trung 司馬衷) của Tây Tấn, tại Tứ Xuyên nổi lên cuộc khởi nghĩa của các lưu dân ở Quan Lũng 關隴 và tín đồ Ngũ Đấu Mễ Đạo (vốn là dân tộc thiểu số Tung ) do Lư Đặc 李特 và Lư Hùng 李雄 lănh đạo. Lư Đặc là dân thiểu số Tung, theo Ngũ Đấu Mễ Đạo. Năm Vĩnh Ninh (301) Lư Đặc khởi nghĩa. Tháng Giêng năm Thái An (303) Lư Đặc kéo binh tấn công Thành Đô. Tháng 2, Lư Đặc tử trận, nghĩa binh chết thê thảm. Con của Lư Đặc là Lư Hùng dẫn tàn binh rút lui. Sau cùng, một nhánh quân khởi nghĩa do Phạm Trường Sinh 范長生 (của Ngũ Đấu Mễ Đạo) chỉ huy đă trợ giúp lương thảo cho quân của Lư Hùng. Cùng năm này, họ lại tấn công Thành Đô, và lần này thành công. Lư Hùng năm Vĩnh Hưng 永興 nguyên niên (tức 304 CN) xưng là Thành Đô Vương 成都王, tôn Phạm Trường Sinh làm vua, nhưng Phạm từ chối. Thế là tháng 6 năm Vĩnh Hưng thứ 2 (tức 305 CN) Lư Hùng xưng hoàng đế, lấy quốc hiệu là Đại Thành 大成. Ngay khi Phạm Trường Sinh từ chối làm vua, Lư Hùng phong Phạm Trường Sinh làm Thừa tướng, rồi ban hiệu là Thiên Địa Thái Sư 天地太師, và phong làm Tây Sơn Hầu 西山侯. Phạm Trường Sinh mất, con là Phạm Bí 范賁 được kế vị thừa tướng. Lư Hùng cai trị 30 năm, chính sách khoan dung; cả thế cục đại loạn mà vùng Ba Thục vẫn b́nh yên vô sự. Truyền ngôi đến đời thứ 3 là Lư Thọ 李壽 th́ đổi quốc hiệu là Hán, do đó sử sách gọi chính quyền Lư Hùng là Thành Hán 成漢. Chính quyền Thành Hán kéo dài 47 năm, trải 6 đời; đến năm Vĩnh Ḥa thứ 3 đời Đông Tấn (tức 347 CN) th́ bị Hoàn Ôn 桓溫 diệt.

* Tôn Ân khởi nghĩa: Ban đầu Ngũ Đấu Mễ Đạo gồm các tín đồ dân dă, nhưng khi giáo phái phát triển, thu hút rất nhiều hào tộc, thế gia, thậm chí quan lại, thí dụ họ Vương và họ Tôn ở Lang Nha, họ Tạ và họ Ân ở quận Trần, họ Khổng ở Cối Kê, họ Chu ở Nghĩa Hưng, họ Hứa họ Đào và họ Cát ở Đan Dương, v.v... Trong khoảng đời Tấn, các sử gia gọi Ngũ Đấu Mễ Đạo là Thiên Sư Đạo. Tuy nhiên có sử gia cho rằng Ngũ Đấu Mễ Đạo là tên gọi dân dă, c̣n chính nội bộ tín đồ th́ tự xưng giáo phái ḿnh là Thiên Sư Đạo hoặc Chính Nhất Đạo.

Trong giới tín đồ gốc sĩ tộc thế gia có Đỗ Tử Cung 杜子恭 là đầu lĩnh ở Tiền Đường 錢塘. Ông có nhiều đệ tử, xuất thân là thế gia đại tộc ở Giang Nam. Đỗ Tử Cung mất, môn đồ là Tôn Thái 孫泰 và Tôn Ân 孫恩 kế nghiệp. Tôn Ân tự là Linh Tú 靈秀, quê ở Lang Nha, vừa là cháu vừa là đệ tử của Tôn Thái. Tôn Thái tự xưng được chân truyền pháp thuật từ Tử Cung, nên tín đồ mê muội coi như thần nhân. Hiếu Vũ Đế 孝武帝 (tại vị 373-396) đời Đông Tấn phong Tôn Thái làm Phụ Quốc Tướng Quân 輔國將軍 và phong làm thái thú ở Tân An 新安. Tôn Thái lợi dụng tà thuật mê hoặc và quy tụ quần chúng, triều đ́nh sợ Tôn Thái làm loạn nên sai Cối Kê Vương là Tư Mă Đạo Tử 司馬道子 bắt Tôn Thái giết đi. Tôn Ân và dư đảng chạy trốn ra hải đảo, lập chí báo thù cho sư phụ. Rồi Tôn Ân cùng với em rể là Lư Tuần 盧循 lănh đạo khoảng 10 vạn tín đồ của 8 quận đánh Cối Kê (8 quận là: Cối Kê 會稽, Ngô Quận 吳郡, Ngô Hưng 吳興, Nghĩa Hưng 義興, Lâm Hải 臨海, Vĩnh Gia 永嘉, Đông Dương 東陽, và Tân An 新安). Chiếm được Cối Kê, Tôn Ân tự xưng là Chinh Đông Tướng Quân 征東將軍 và gọi quân binh của ḿnh là «trường sinh nhân» 長生人. Triều đ́nh phái quân chinh phạt. Năm Nguyên Hưng nguyên niên (402 CN), thuộc hạ Lưu Lao 劉牢 của Tôn Ân bại trận, bèn nhảy xuống biển tự trầm. Tôn Ân thua trận ở Lâm Hải 臨海 cũng nhảy xuống biển tự trầm. Cho rằng Tôn Ân đă thành thủy tiên 水仙, số tín đồ tự trầm theo hơn trăm người. Lư Tuần kế vị, chiến đấu ngoan cường. Năm Nghĩa Hi 義熙 thứ 7 (tức 411 CN) đời vua An Đế 安帝 của Đông Tấn, Lư Tuần đánh Quảng Châu, nhưng bị đại bại, bèn chạy sang Giao Châu. Thứ sử Giao Châu là Đỗ Huệ Độ 杜慧度 cùng các quan văn vơ đánh tan quân Lư Tuần. Quân của Lư Tuần c̣n khoảng 2000 người. Dư đảng của Lư Tốn 李遜 (thái thú Cửu Chân, nổi loạn) là Lư Thoát 李脫 kết tập 5000 man dân để giúp Lư Tuần đánh ở bến sông phía Nam thành Long Biên 龍編 (tức Hà Nội của Việt Nam ngày nay). Binh của Đỗ Huệ Độ phóng đuốc trĩ vĩ (trĩ vĩ cự 雉尾炬) đốt chiến thuyền Lư Tuần. Lư Tuần nhảy sông tự trầm. Đỗ Huệ Độ cho vớt tử thi Lư Tuần và chặt đầu, gởi về Kiến Khang.[3]

Tôn Ân và tín đồ Ngũ Đấu Mễ Đạo vốn tin tưởng vào Tam Quan (Thiên, Địa, Thủy), đặc biệt tin tưởng vào sự thành thủy tiên 水仙 (tiên nước); cho nên khi khởi nghĩa thất bại họ đều nhảy xuống sông xuống biển. Người đời gọi là tự trầm 自沉 (nhảy xuống nước tự tử) nhưng tín đồ gọi là thủy giải 水解 (giải thoát trong nước) hy vọng đó là cách giải thoát thành tiên.

* Cải cách: Có thể thấy, sau khi chính quyền tôn giáo và chính trị hợp nhất của Trương Lỗ bị diệt, Ngũ Đấu Mễ Đạo không bị diệt theo mà lại phát triển rộng khắp Trung Quốc. Tín đồ ngoài thành phần b́nh dân c̣n có thành phần hào tộc thế gia. Giai đoạn phát triển mạnh của Ngũ Đấu Mễ Đạo là thời Lưỡng Tấn. Quá tŕnh phát triển của Ngũ Đấu Mễ Đạo gợi ra hai vấn đề: (1) Sự xung đột giữa Ngũ Đấu Mễ Đạo với chính quyền phong kiến: Ngũ Đấu Mễ Đạo phát khởi từ dân gian, trước bất công của xă hội phong kiến, họ phất cờ khởi nghĩa, hy vọng thành lập một xă hội thái b́nh và lư tưởng. (2) Tổ chức suy thoái: Kể từ Trương Lỗ hàng Tào Tháo, cơ cấu tổ chức của giáo phái này phát triển về số lượng, lan rộng khắp nơi, vượt ra khỏi phạm vi của Ba Thục và Hán Trung, nhưng về bản chất th́ các giáo nghĩa và giáo qui đă lỏng lẻo và suy thoái. Các tế tửu tự tung tự tác, bừa băi thu nạp tài sản của tín đồ. Từ các vấn đề này, Ngũ Đấu Mễ Đạo đă trải qua hai cuộc cải cách do đạo sĩ Khấu Khiêm Chi 寇謙之 (Bắc Ngụy) và đạo sĩ Lục Tu Tĩnh 陸修靜 (Nam Triều Tống) tiến hành. Khấu Khiêm Chi cải cách Ngũ Đấu Mễ Đạo (tức Thiên Sư Đạo) ở phương bắc nên nhánh này gọi là Bắc Thiên Sư Đạo, c̣n Lục Tu Tĩnh cải cách Ngũ Đấu Mễ Đạo ở phương nam nên nhánh này gọi là Nam Thiên Sư Đạo. Đến đời Tùy, Nam và Bắc Thiên Sư Đạo hợp nhất làm một. Khoảng đời Đường sử sách không chép rơ diễn biến của Thiên Sư Đạo. Sau đời Đường, cháu của Trương Lăng tức là Trương Thịnh 張盛 (con thứ 4 của Trương Lỗ) tiếp tục truyền giáo tại Long Hổ Sơn ở Giang Tây. Núi này dần trở thành một trung tâm truyền bá Thiên Sư Đạo và giáo phái mang tên mới là Long Hổ Tông 龍虎宗 theo tên của nơi truyền đạo là Long Hổ Sơn, và giáo phái này bước qua một giai đoạn lịch sử mới.

* Khấu Khiêm Chi 寇謙之 và Bắc Thiên Sư Đạo: Khấu Khiêm Chi (365-448) nguyên danh là Khiêm , tự là Phụ Chân 輔真, nguyên quán ở Xương B́nh 昌平, Thượng Cốc 上谷 (nay thuộc Bắc Kinh). Ông tự xưng là cháu đời thứ 13 của Ung Nô Hầu 雍奴侯 Khấu Tuần Chi 寇恂之 đời Đông Hán. Cha là Khấu Tu Chi 寇修之, làm thái thú ở Đông Lai 東萊 (thuộc Phù Kiên 苻堅). Anh là Khấu Tán 寇讚, làm thứ sử ở Nam Ung Châu. Khấu Khiêm Chi thuở nhỏ mộ đạo, có ḷng thoát tục, đi tu theo Trương Lỗ. Tu đạo lâu năm nhưng không hiệu quả, về sau ông gặp Thành Công Hưng 成公興 (xưng là tiên) và theo Thành Công Hưng lên Hoa Sơn 華山 học đạo thuật, luyện thuốc, tịch cốc; rồi ông ẩn tu tại Tung Sơn 嵩山. Sau 7 năm, ông dần dần nổi danh.

Ngũ Đấu Mễ Đạo tức Thiên Sư Đạo từ khi Trương Lăng lập giáo đă quy tụ nông dân, phất cờ khởi nghĩa, xung đột với triều đ́nh phong kiến. Do đó triều đ́nh luôn cảnh giác giáo phái này. Năm Thần Thụy 神瑞 thứ 2 (tức năm 415) triều Minh Nguyên Đế 明元帝 (tức Thác Bạt Tự 拓跋嗣, tại vị 409-423) của Bắc Ngụy, Khấu Khiêm Chi tuyên bố Thái Thượng Lăo Quân giáng lâm Tung Sơn, ban cho ông chức vị Thiên Sư, và ban cho bộ kinh «Vân Trung Âm Tụng Tân Khoa Chi Giới» 雲中音誦新科之誡 gồm 20 quyển (gọi tắt là Tân Khoa 新科). Khấu Khiêm Chi cũng nói rằng Lăo Quân ra lệnh cho ông phải phổ truyền bộ Tân Khoa này, đồng thời chỉnh đốn Đạo giáo. Bộ kinh này (tất nhiên là sáng tác của Khấu Khiêm Chi) hiện nay đă mất nguyên bản. Bản Lăo Quân Âm Tụng Giới Kinh 老君音誦誡經 chép trong Chính Thống Đạo Tạng gồm 1 quyển là tàn bản 殘本 (bản c̣n sót lại) của 20 quyển nguyên bản. Nhưng Lăo Quân Âm Tụng Giới Kinh có thể giúp h́nh dung ra nguyên bản. Quyển kinh này có 30 điều, đại khái thừa nhận địa vị Thiên Sư của Khấu Khiêm Chi, bàn về cải cách tổ chức của các trị (băi bỏ ngụy pháp của Tam Trương, băi bỏ chế độ cha truyền con nối của các tế tửu, băi bơ chế độ nhận tài vật, thuế và tô của tín đồ, v.v...), cách truyền phù lục, cách thụ giới, cách tu hành, cách viết tấu chương, cách cầu phúc trị bệnh, v.v... Năm Thái Thường 泰常 thứ 8 (tức năm 423) triều Minh Nguyên Đế của Bắc Ngụy, Khấu Khiêm Chi lại tuyên bố chắt của Lăo Quân là Lư Phổ Văn 李譜文 giáng lâm Tung Sơn và truyền cho ông bộ Lục Đồ Chân Kinh 錄圖真經 (trên 60 quyển), ra lệnh ông phải phụng tŕ kinh này và pḥ tá Bắc phương Thái B́nh Chân Quân 北方太平真君 (sau này là đạo hiệu của Thái Vũ Đế).

Sau khi chuẩn bị các bước như trên, Khấu Khiêm Chi rời núi Tung Sơn và đến kinh đô của Bắc Ngụy là B́nh Thành 平城 (nay là Đại Đồng 大同 ở Sơn Tây 山西). Ông kết giao với một quan đại thần tên là Thôi Hạo 崔浩. Thông qua Thôi Hạo, ông dâng đạo thư lên Thái Vũ Đế 太武帝 (tức Thác Bạt Đào 拓跋燾, tại vị 424-452). Thái Vũ Đế mới lên ngôi, bản thân hâm mộ Đạo giáo, nghe Thôi Hạo tán dương Khấu Khiêm Chi nên trọng đăi và tín nhiệm ông. Năm sau (425), Thái Vũ Đế thiết lập Thiên Sư Đạo Trường 天師道場 ngay tại B́nh Thành, lập đàn cao 5 tầng, tập hợp 120 đạo sĩ cúng tế cầu đảo mỗi ngày 6 lần. Năm 440, Khấu Khiêm Chi nói Thái Thượng Lăo Quân giáng lâm bảo ông rằng Lăo Quân đă ban đạo hiệu cho Thái Vũ Đế là Thái B́nh Chân Quân. Thái Vũ Đế bèn cải niên hiệu là Thái B́nh Chân Quân rồi đích thân đến đạo trường để nhận phù lục, và sau đó phong Khấu Khiêm Chi làm quốc sư 國師. Thiên Sư Đạo từ đó cực thịnh. (Niên hiệu Thái B́nh Chân Quân bắt đầu từ năm 440 đến 451.)

Lợi dụng Thái Vũ Đế hâm mộ Đạo giáo và bài xích Phật giáo, Khấu Khiêm Chi bắt đầu tiến hành cải cách Thiên Sư Đạo (tức Ngũ Đấu Mễ Đạo). Nội dung chủ yếu của cuộc cải cách là:

- Kiên quyết ngăn cấm việc lợi dụng tôn giáo để làm loạn, phản nghịch triều đ́nh. Khấu Khiêm Chi tuyên bố những kẻ đại nghịch bất đạo này là tặc dân 賊民 ngu ác đă coi thường Lăo Quân, do đó sẽ bị trừng phạt. Cốt lơi của sự cải cách của Khấu Khiêm Chi là ông đưa luân lư Nho giáo (đặc biệt nhấn mạnh trung hiếu) vào giới luật của Thiên Sư Đạo. Theo đó, tín đồ tuân thủ giới luật sẽ không làm loạn chống lại triều đ́nh.

- Băi bỏ chế độ ép buộc tín đồ nộp thuế bằng tiền và nộp tô bằng gạo. Khi Trương Lỗ thống trị Hán Trung, thiết lập chính quyền chính-giáo hợp nhất, mỗi giáo khu (tức là trị) vừa là đơn vị hành chánh do các tế tửu cai trị. Họ có quyền trưng thu thuế bằng tiền và tô bằng gạo và xử lư chúng. Khấu Khiêm Chi băi bỏ chế độ này để trút gánh nặng cho tín đồ. Ông phê phán đó là ngụy pháp của Tam Trương, và ông chủ trương dùng Tân Khoa (do Lăo Quân ban truyền) để trừ ngụy pháp.

- Khấu Khiêm Chi chỉnh đốn tổ chức của Thiên Sư Đạo, tăng cường giới luật. Sau khi Trương Lỗ mất, Ngũ Đấu Mễ Đạo (tức Thiên Sư Đạo) phát triển rộng khắp Trung Quốc, nhưng tổ chức hỗn loạn và giới luật lỏng lẻo. Khấu Khiêm Chi phản đối các tế tửu trưng thu tài vật của tín đồ; cấm tuyệt thuật pḥng trung dâm uế giữa nam nữ; các tế tửu phải theo phép xưa của Nho giáo, khi cha mẹ chết th́ phải để tang.

- Khấu Khiêm Chi bổ sung giới luật và trai nghi. Bổ sung các tiêu chuẩn đạo đức của Nho giáo như trung, hiếu, nhân, nghĩa, v.v... Đồng thời ông đề cao nghi thức trai tiêu. Ăn chay, tịch cốc, đạo dẫn chỉ có thể sống lâu, nhưng không thể trường sinh bất tử. Muốn trường sinh bất tử th́ phải chú trọng trai tiêu. Trai là trai giới, tắm gội thanh khiết; tiêu là cúng bái thần linh đề cầu phúc giải tai họa. Trai tiêu (tục gọi là đạo trường 道場) là nghi thức truyền thống của Đạo giáo, tức là lập đàn cúng tế, đọc kinh, cầu đảo.

Cuộc cải cách của Khấu Khiêm Chi giải trừ sự mâu thuẫn xung đột giữa Đạo giáo với triều đ́nh phong kiến v́ nhờ bổ sung luân lư Nho giáo vào giới luật. Do đó một giáo phái ban đầu phát khởi từ dân gian đă phát triển thành tín ngưỡng của thành phần sĩ phu hào tộc, trở thành một công cụ phù hợp với nhu cầu của giai cấp phong kiến thống trị. Năm Thái B́nh Chân Quân thứ 9 (tức năm 448) Khấu Khiêm Chi liễu đạo (83 tuổi).

* Lục Tu Tĩnh và Nam Thiên Sư Đạo: Lục Tu Tĩnh 陸修靜 (406-477) tự là Nguyên Đức 元德, quê ở Đông Thiên 東遷, Ngô Hưng 吳興 (nay là huyện Ngô Hưng của Chiết Giang), là hậu duệ của thừa tướng Lục Khải 陸凱 của nước Ngô thời Tam Quốc. Thuở nhỏ ông theo nghiệp Nho, nhưng hâm mộ Đạo giáo. Khi trưởng thành ông ly gia cát ái, vào núi tu luyện. Ông là tổ sư đời thứ 7 của Thượng Thanh Phái. Ông rất nổi tiếng nên cuối những năm Nguyên Gia 元嘉 (424-452) đời Tống Văn Đế 宋文帝 (Lưu Nghĩa Long 劉義隆) của Nam Triều, ông được mời vào cung giảng đạo thuyết pháp. Thái hậu sùng mộ Hoàng Lăo nên bái Lục Tu Tĩnh làm thầy. Năm 461, ông ẩn tu tại Lư Sơn 廬山. Tống Minh Đế 宋明帝 (Lưu Úc 劉彧) của Nam Triều vốn hâm mộ và muốn hoằng dương Đạo giáo, nên cho xây Sùng Hư quán 崇虛觀 trên núi Thiên Ấn 天印 và mời Lục Tu Tĩnh trụ tŕ. Đạo giáo cực thịnh nhờ sự trọng vọng của triều đ́nh. Năm 477, Lục Tu Tĩnh liễu đạo, các đệ tử đưa ông về Lư Sơn. Ông được ban thụy hiệu là Giản Tịch tiên sinh 簡寂先生, do đó đạo quán tại Lư Sơn đổi tên là Giản Tịch quán 簡寂觀. Sang đời Bắc Tống, vào những năm Tuyên Ḥa 宣和 (1119-1125), vua Tống Huy Tông 宋徽宗 phong cho Lục Tu Tĩnh là Đan Nguyên Chân Nhân 丹元真人. Đệ tử của ông có nhiều người nổi tiếng như Tôn Du Nhạc 孫游岳 (398-489, sau là tổ sư đời thứ 8 của Thượng Thanh Phái), Lư Quả Chi 李果之, v.v...

Lục Tu Tĩnh trứ tác rất nhiều. Tác phẩm hiện tồn của ông và được sưu tập trong Chính Thống Đạo Tạng Thái Thượng Động Huyền Linh Bảo Chúng Giản Văn 太上洞玄靈寶眾簡文, Động Huyền Linh Bảo Ngũ Cảm Văn 洞玄靈寶五感文, Lục Tiên Sinh Đạo Môn Khoa Lược 陸先生道門科略, Thái Thượng Động Huyền Linh Bảo Thụ Độ Nghi 太上洞玄靈寶授度儀, Động Huyền Linh Bảo Trai Thuyết Quang Chúc Giới Phạt Đăng Chúc Cảm Nghi 洞玄靈寶齋說光燭戒罰燈祝感儀, v.v... Nhưng cống hiến quan trọng của ông cho Đạo giáo là cuộc cải cách Thiên Sư Đạo. Trong Lục Tiên Sinh Đạo Môn Khoa Lược, ông đề cập trước tiên việc chỉnh đốn Đạo giáo, bao quát nội dung sau:

- Chỉnh đốn tổ chức, kiện toàn chế độ Tam hội nhật 三會日 (tức là tập thể thực hành ba ngày trai giới: mồng 5 tháng giêng, mồng 7 tháng 7, và mồng 5 tháng 10).

- Chỉnh đốn việc quản lư tín đồ qua chế độ «trạch lục» 宅錄 tức là đăng kư số lượng nhân khẩu trong hộ tín đồ. Trong những ngày Tam hội nhật, tín đồ phải đến sư trị 師治 (trụ sở quản lư của trị) để khai báo số nhân khẩu c̣n hay mất trong hộ.

- Cùng lúc tề tựu ở sư trị vào ngày Tam hội nhật để thực hiện việc trạch lục, tín đồ được nghe thuyết giảng giáo lư, các giới cấm, khảo sát kiểm điểm công đức. Các tế tửu viết tên tín đồ vào sớ để khải báo Thiên Tào, cầu xin chư thần ban ơn và hộ tŕ gia đ́nh tín đồ được an ninh, cầu xin nhương tai giải nạn, v.v...

- Lục Tu Tĩnh hết sức coi trọng việc trai giới. Ông tổng kết các nghi thức trai giới đă có và qui định thêm hệ thống trai tiêu gọi là «cửu trai thập nhị pháp» 九齋十二法. Các nghi thức trai tiêu này chịu ảnh hưởng lễ pháp của Nho giáo và tư tưởng «tam nghiệp thanh tịnh» 三業清淨 của Phật giáo.

- Bên cạnh việc hệ thống nghi thức trai tiêu, Lục Tu Tĩnh c̣n tiến hành chỉnh lư hệ thống kinh điển Đạo giáo và phân loại chúng. Ông được kính trọng như một học giả uyên bác của Đạo giáo, đă chỉnh lư, khảo chứng và lập mục lục cho kinh điển của Linh Bảo phái, của Thượng Thanh phái, hệ thống các phương thuốc của Đạo giáo, bùa chú, v.v... (tổng cộng 1128 quyển). Từ đời Tùy đời Đường về sau, những trứ tác và tổng mục do ông lập trở thành cơ sở để sưu tập Đạo Tạng.

* Hệ thống truyền thừa của Ngũ Đấu Mễ Đạo: Từ đời Đông Tấn trở đi Ngũ Đấu Mễ Đạo được gọi là Thiên Sư Đạo, từ đời Nguyên trở đi gọi là Chính Nhất Đạo. Hệ thống truyền thừa như sau:

- Đời thứ nhất: Tổ Thiên Sư 祖天師 Trương Đạo Lăng 張道陵 (34-156), sáng lập Ngũ Đấu Mễ Đạo, tự là Phụ Hán 輔漢. Đời Nguyên, năm Nguyên Trinh 元貞 nguyên niên (1295) vua Thành Tông 成宗 ban hiệu là Chính Nhất Xung Huyền Thần Hoá Tĩnh Ứng Hiển Hựu Chân Quân 正一沖玄神化靜應顯佑真君.

- Đời 2: Tự Sư 嗣師 Trương Hành 張衡 (?-179), tự là Linh Chân 靈真, con của Trương Đạo Lăng. Đời Nguyên, năm Chí Đại 至大 nguyên niên (1308) vua Vũ Tông 武宗 phong hiệu là Chính Nhất Tự Sư Thái Thanh Diễn Giáo Diệu Đạo Chân Quân 正一嗣師太清演教妙道真君.

- Đời 3: Hệ Sư 系師 Trương Lỗ 張魯 (?-216), tự là Công Kỳ 公祺, con cả của Trương Hành. Nguyên Thành Tông 元成宗 ban hiệu là Chính Nhất Hệ Sư Thái Thanh Chiêu Hoá Quảng Đức Chân Quân 正一系師太清昭化廣德真君.

- Đời 4: Thiên Sư Trương Thịnh 張盛 (?-?), tự là Nguyên Tông 元宗, con thứ 4 của Trương Lỗ. Nguyên Thuận Đế 元順帝, năm Chí Chính 至正 nguyên niên (1341) ban hiệu là Thanh Vi Hiển Giáo Hoằng Đức Chân Quân 清微顯教弘德真君.

- Đời 5: Thiên Sư Trương Chiêu Thành 張昭成 (?-?), tự là Đạo Dung 道融, con cả của Trương Thịnh. Năm Chí Chính 13 (tức 1353) đời Nguyên, vua Thuận Đế ban hiệu là Thanh Vi Quảng Giáo Hoằng Đạo Chân 清微廣教弘道真君.

- Đời 6: Thiên Sư Trương Tiêu 張椒 (?-?), tự là Đức Hinh 德馨, con cả của Trương Chiêu Thành. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên, được vua ban hiệu là Thanh Vi Hoằng Giáo Huyền Diệu Chân Quân 清微弘教玄妙真君.

- Đời 7: Trương Hồi 張回 (?-?), tự là Trọng Xương 仲昌. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu là Ngọc Thanh Phụ Giáo Hoằng Tế Chân Quân 玉清輔教弘濟真君.

- Đời 8: Trương Hồi 張迴 (?-?), tự là Ngạn Siêu 彥超. Thái Tổ (Thác Bạt Khuê 拓跋珪, tại vị 386-409) của Bắc Ngụy thường vời vào cung để hỏi đạo. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Ngọc Thanh Ứng Hoá Xung Tĩnh Chân Quân 玉清應化沖靜真君.

- Đời 9: Trương Phù 張符 (?-?), tự là Đức Tín 德信. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Ngọc Thanh Tán Hoá Sùng Diệu Chân Quân 玉清贊化崇妙真君.

- Đời 10: Trương Tử Tường 張子祥 (?-?), tự là Lân Bá 麟伯. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Thượng Thanh Huyền Diệu Đại Hư Chân Quân 上清玄妙大虛真君.

- Đời 11: Trương Thông Huyền 張通玄 (?-?), tự là Trọng Đạt 仲達. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Thượng Thanh Huyền Ứng Xung Hoà Chân Quân 上清玄應沖和真君.

- Đời 12: Trương Hằng 張恆 (?-?), tự là Đức Nhuận 德潤. Đường Cao Tông 唐高宗 (tại vị 650-683) thường vời ông vào cung để hỏi han đạo trị quốc an dân. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Thượng Thanh Huyền Đức Thái Hoà Chân Quân 上清玄德太和真君.

- Đời 13: Trương Quang 張光 (?-?), tự là Đức Thiệu 德紹. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Thái Huyền Chí Đức Quảng Diệu Chân Quân 太玄至德廣妙真君.

- Đời 14: Trương Từ Chính 張慈正 (?-?), tự là Tử Minh 子明. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Thái Huyền Thượng Đức Tử Hư Chân Quân 太玄上德紫虛真君.

- Đời 15: Trương Cao 張高 (?-?), tự là Sĩ Long 士龍. Đời Đường, vua Huyền Tông 玄宗 (tại vị 712-756) thường triều kiến, và vua Túc Tông 肅宗 (tại vị 756-762) rất trọng đăi. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Thái Huyền Sùng Đức Huyền Hoá Chân Quân 太玄崇德玄化真君.

- Đời 16: Trương Ứng Thiều 張應韶 (?-?), tự là Trị Phượng 治鳳. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Động Hư Diễn Đạo Xung Tố Chân Quân 洞虛演道沖素真君.

- Đời 17: Trương Thuận 張順 (?-?), tự là Trung Phù 中孚. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Động Hư Xiển Giáo Phù Hựu Chân Quân 洞虛闡教孚佑真君.

- Đời 18: Trương Sĩ Nguyên 張士元 (?-?), tự là Trọng Lương 仲良. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Động Hư Minh Đạo Tán vận Chân Quân 洞虛明道贊運真君.

- Đời 19: Trương Tu 張脩 (?-?), tự là Đức Chân 德真. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Xung Huyền Dực Hoá Chiêu Khánh Chân Quân 沖玄翊化昭慶真君.

- Đời 20: Trương Kham 張諶 (?-?), tự là Tử Kiên 子堅. Đường Vũ Tông 武宗 (tại vị 841-860) và Đường Ư Tông 懿宗 (tại vị 860-874) trọng đăi. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Xung Huyền Động Chân Phù Đức Chân Quân 沖玄洞真孚德真君.

- Đời 21: Trương Bỉnh Nhất 張秉一 (?-?), tự là Ôn Phủ 溫甫. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Thủ Huyền Tử Cực Chiêu Hoá Chân Quân 守玄紫極昭化真君.

- Đời 22: Trương Thiện 張善 (?-?), tự là Nguyên Trường 元長. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Thanh Hư Sùng Ứng Phù Huệ Chân Quân 清虛崇應孚惠真君.

- Đời 23: Trương Quư Văn 張季文 (?-?), tự là Trọng Khuê 仲珪. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Thanh Hư Diệu Đạo Phụ Quốc Chân Quân 清虛妙道輔國真君.

- Đời 24: Trương Chính Tuỳ 張正隋 (?-?), tự là Bảo Thần 寶神. Tống Chân Tông 真宗 năm 1016 mời vào cung và lập Thụ lục viện 授籙院 và ban hiệu là Chân Tĩnh tiên sinh 真靜先生. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Thanh Hư Quảng Giáo Diệu Tế Chân Quân 清虛廣教妙濟真君.

- Đời 25: Trương Càn Diệu 張乾曜 (?-?), tự là Nguyên Quang 元光. Tống Nhân Tông 仁宗 (tại vị 1023-1063) năm 1030 mời vào cung hỏi đạo và ban hiệu Trừng Tố tiên sinh 澄素先生. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Sùng Huyền Phổ Tế Trạm Tịch Chân Quân 崇玄普濟湛寂真君.

- Đời 26: Trương Tự Tông 張嗣宗 (?-?), tự là Vinh Tổ 榮祖. Tống Nhân Tông năm 1055 mời vào ông cung lập đàn cầu đảo, và ban cho hiệu Xung Tĩnh tiên sinh 沖靜先生. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Sùng Chân Phổ Hoá Diệu Ngộ Chân Quân 崇真普化妙悟真君.

- Đời 27: Trương Tượng Trung 張象中 (?-?), tự là Củng Thần 拱宸. Tống Nhân Tông thường mời vào cung hỏi đạo và trọng đăi. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Sùng Chân Thông Huệ Tử Huyền Chân Quân 崇真通惠紫玄真君.

- Đời 28: Trương Đôn Phục 張敦復 (?-?), tự là Diên Chi 延之. Tống Thần Tông 神宗 những năm Hi Ninh 熙寧 (1068-1077) thường mời ông vào cung lập đàn, và ban tặng hiệu Bảo Quang tiên sinh 葆光先生. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Thái Cực Vô Vi Diễn Đạo Chân Quân 太極無為演道真君.

- Đời 29: Trương Cảnh Đoan 張景端 (?-?), tự là Tử Nhân 子仁. năm 1108, Tống Huy Tông 徽宗 (tại vị 1101-1125) ban hiệu Bảo Chân tiên sinh 葆真先生. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Thái Cực Thanh Hư Từ Diệu Chân Quân 太極清虛慈妙真君.

- Đời 30: Trương Kế Tiên 張繼先 (1092-1128), tự là Gia Văn 嘉聞. Tống Huy Tông nhiều lần mời vào cung hỏi thuật luyện đan, ban hiệu Hư Tĩnh tiên sinh 虛靖先生. Nguyên Vũ Tông 武宗 (tại vị 1308-1311) ban hiệu Hư Tĩnh Huyền Thông Hoằng Ngộ Chân Quân 虛靖玄通弘悟真君.

- Đời 31: Trương Thời Tu 張時脩 (?-?), tự là Triêu Anh 朝英. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Chính Nhất Hoằng Hoá Minh Ngộ Chân Quân 正一弘化明悟真君.

- Đời 32: Trương Thủ Chân 張守真 (?-?), tự là Tuân Nhất 遵一. Tống Cao Tông 高宗 (tại vị 1127-1162) thường mời vào cung giảng đạo. Tống Hiếu Tông 孝宗 (tại vị 1163-1189) mời vào cung thiết đàn và ban hiệu Chính Ứng tiên sinh 正應先生. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Sùng Hư Quang Diệu Chính Ứng Chân Quân 崇虛光妙正應真君.

- Đời 33: Trương Cảnh Uyên 張景淵 (?-1190), tự là Đức Oanh 德瑩. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Sùng Chân Thái Tố Xung Đạo Chân Quân 崇真太素沖道真君. Năm 1173, Trương Cảnh Uyên nhận em út Trương Tự Tiên 張嗣先 (1171-?) làm con. Khi Cảnh Uyên mất, Tự Tiên 19 tuổi tạm nắm quyền (gọi là Nhiếp Thiên Sư 攝天師) trong 11 năm th́ trao ấn kiếm lại cho cháu là Trương Khánh Tiên 張慶先.

- Đời 34: Trương Khánh Tiên 張慶先 (?-1209), tự là Thiệu Tổ 紹祖, là con của Trương Cảnh Uyên. Đời Tống Ninh Tông 寧宗 năm 1201, Trương Khánh Tiên nhận ấn kiếm từ Nhiếp Thiên Sư. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Sùng Hư Chân Diệu Quang Hoá Chân Quân 崇虛真妙光化真君.

- Đời 35: Trương Khả Đại 張可大 (1217-1263), tự là Tử Hiền 子賢. Trương Khánh Tiên mất sớm, con là Trương Thành Đại 張成大 c̣n nhỏ, nên cha của Trương Khả Đại là Trương Thiên Lân 張天麟 (tức Nhân Tĩnh tiên sinh 仁靜先生) tạm chưởng giáo. Nhưng Thành Đại chết yểu và Thiên Lân cũng qua đời (1230) nên Trương Khả Đại được xem là truyền nhân của Trương Khánh Tiên. Tống Lư Tông 理宗 năm 1236 mời Trương Khả Đại vào cung để xem xét việc trùng san Đạo Tạng. Năm 1239, Tống Lư Tông ban cho hiệu Quán Diệu tiên sinh 觀妙先生. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Thông Huyền Ứng Hoá Quán Diệu Chân Quân 通玄應化觀妙真君.

- Đời 36: Trương Tông Diễn 張宗演 (khoảng 1244-1291), tự là Thế Truyền 世傳. Nguyên Thế Tổ 世祖 (Hốt Tất Liệt 忽必烈, tại vị 1260-1294) nhiều lần mời ông vào cung thiết đàn, ban cho ấn triện bằng bạc thuộc hàng nhị phẩm, thống lĩnh Đạo giáo ở Giang Nam. Nguyên Thành Tông 成宗 (tại vị 1295-1307) ban hiệu Diễn Đạo Linh Ứng Xung Hoà Huyền Tĩnh Chân Quân 演道靈應沖和玄靜真君.

- Đời 37: Trương Dữ Đệ 張與棣 (?-1294), tự là Quốc Hoa 國華, là con cả của Trương Tông Diễn. Nguyên Thế Tổ thường mời vào cung và ban hiệu Thể Huyền Hoằng Đạo Quảng Giáo Chân Nhân 體玄弘道廣教真人.

- Đời 38: Trương Dữ Tài 張與材 (?-1316), tự là Quốc Lương 國梁, là con thứ của Trương Tông Diễn. Nguyên Thành Tông 成宗 năm 1296 ban cho ông hiệu Thái Tố Ngưng Thần Quảng Đạo Chân Nhân 太素凝神廣道真人 và ban cho mẹ của ông (Chu thị 周氏) hiệu Huyền Chân Diệu Ứng tiên cô 玄真妙應仙姑. Nguyên Vũ Tông lên ngôi (1308), ban cho ông chức Kim Tử Quang Lộc Đại Phu 金紫光祿大夫, phong làm Lưu Quốc Công 留國公, ban cho ấn triện bằng vàng hàng nhất phẩm, và ban hiệu Thái Tố Ngưng Thần Quảng Đạo Minh Đức Đại Chân Nhân 太素凝神廣道明德大真人.

- Đời 39: Trương Tự Thành 張嗣成 (?-1344), tự là Thứ Vọng 次望. Nguyên Nhân Tông 仁宗 năm 1317 ban hiệu Thái Huyền Phụ Hoá Thể Nhân Ứng Đạo Đại Chân Nhân 太玄輔化體仁應道大真人 và ban cho mẹ ông (Dịch thị) hiệu Diệu Minh Huệ Ứng Thường Tĩnh Chân Nhân 妙明慧應常靜真人. Minh Thái Tổ 太祖 năm 1370 ban hiệu Thái Huyền Hoằng Hoá Minh Thành Sùng Đạo Đại Chân Nhân 太玄弘化明誠崇道大真人.

- Đời 40: Trương Tự Đức 張嗣德 (?-1352), tự là Thái Ất 太乙, là em của Trương Tự Thành. Nguyên Thuận Đế ban hiệu Thái Ất Minh Giáo Quảng Huyền Thể Đạo Đại Chân Nhân 太乙明教廣玄體道大真人.

- Đời 41: Trương Chính Ngôn 張正言 (?-1359), tự là Đông Hoa 東華, là con cả của Trương Tự Đức. Nguyên Thuận Đế ban hiệu Minh Thành Ngưng Đạo Hoằng Văn Quảng Giáo Đại Chân Nhân 明誠凝道弘文廣教大真人,  chưởng quản Đạo giáo ở Giang Nam.

- Đời 42: Trương Chính Thường 張正常 (?-1378), tự là Trọng Kỷ 仲紀, là con của Trương Tự Thành. Minh Thái Tổ năm 1368 ban hiệu Chính Nhất Tự Giáo Hộ Quốc Xiển Tổ Thông Thành Sùng Đạo Hoằng Đức Đại Chân Nhân 正一嗣教護國闡祖通誠崇道弘德大真人.

- Đời 43: Trương Vũ Sơ 張宇初 (?-1410), tự là Tử Tuyền 子璿. Minh Thái Tổ năm 1380 ban cho ông hiệu Chính Nhất Tự Giáo Đạo Hợp Vô Vi Xiển Tổ Quang Phạm Đại Chân Nhân 正一嗣教道合無為闡祖光范大 真人và ban cho mẹ ông (Bao thị 包氏) hiệu Thanh Hư Xung Tố Diệu Thiện Huyền Quân 清虛沖素妙善玄君.

- Đời 44: Trương Vũ Thanh 張宇清 (?-1427), tự là Ngạn Ky 彥璣, em của Trương Vũ Sơ, kế vị năm 1410. Minh Thành Tổ 成祖 vời vào cung ban hiệu Chính Nhất Tự Giáo Thanh Hư Xung Tố Quang Tổ Diễn Đạo Đại Chân Nhân 正一嗣教清虛沖素光祖演道大真人 và năm 1419 phong cho vợ của ông (Tôn thị 孫氏) là Đoan Tĩnh Trinh Thục Diệu Huệ Huyền Quân 端靜貞淑妙惠玄君. Minh Nhân Tông 仁宗 lên ngôi (1425) phong cho ông là Chính Nhất Tự Giáo Thanh Hư Xung Tố Quang Tổ Diễn Đạo Sùng Khiêm Thủ Tĩnh Động Huyền Đại Chân Nhân 正一嗣教清虛沖素光祖演道崇謙守靜洞玄大真人.

- Đời 45: Trương Mậu Thừa 張懋丞 (1387-1444), tự là Văn Khai 文開. Minh Tuyên Tông 宣宗 năm 1429 ban hiệu Chính Nhất Tự Giáo Sùng Tu Chí Đạo Bao Tố Diễn Pháp Chân Nhân 正一嗣教崇修至道葆素演法真人 và năm 1430 phong cho vợ của ông (Tôn thị 孫氏) là Nhu Huệ Chân Tĩnh Huyền Quân 柔惠真靜玄君. Minh Anh Tông 英宗 phong cho vợ kế của ông (Đổng thị 董氏) là Ôn Tĩnh Nhu Thuận Huyền Quân 溫靜柔順玄君.

- Đời 46: Trương Nguyên Cát 張元吉 (1435-?), tự là Mạnh Dương 孟陽, là cháu của Trương Mậu Thừa. Năm 1445, Minh Anh Tông ban hiệu Chính Nhất Tự Giáo Xung Hư Thủ Tố Thiệu Tổ Sùng Pháp Chân Nhân 正一嗣教沖虛守素紹祖崇法真人 và năm 1446 phong cho cha ông (Trương Lưu Cương 張留綱) là Chính Nhất Tự Giáo Sùng Huyền Dưỡng Tố Tịch Tĩnh Chân Nhân 正一嗣教崇玄養素寂靜真人, phong cho mẹ ông (Cao thị 高氏) là Từ Huệ Tĩnh Thục Huyền Quân 慈惠靜淑玄君. Năm 1467, Minh Hiến Tông 憲宗 gia phong cho ông là Chính Nhất Tự Giáo Thể Huyền Sùng Mặc Ngộ Pháp Thông Chân Xiển Đạo Hoằng Hoá Phụ Đức Hựu Thánh Diệu Ứng Đại Chân Nhân 正一嗣教體玄崇默悟法通真闡道弘化輔德佑聖妙應大真人.

- Đời 47: Trương Huyền Khánh 張玄慶 (?-1509), tự là Thiên Tích 天錫, là em họ của Trương Nguyên Cát. Minh Hiến Tông ban hiệu Chính Nhất Tự Giáo Bảo Hoà Dưỡng Tố Kế Tổ Thủ Đạo Đại Chân Nhân 正一嗣教葆和養素繼祖守道大真人 và phong cho mẹ ông (Ngô thị) là Chí Thuận Thục Tĩnh Huyền Quân 志順淑靜玄君.

- Đời 48: Trương Ngạn Phiến 張諺頨 (1490-1550), tự là Sĩ Chiêm 士瞻, là con của Trương Huyền Khánh. Năm 1501, Minh Hiếu Tông 孝宗 ban hiệu Chính Nhất Tự Giáo Trí Hư Xung Tĩnh Thừa Tiên Hoằng Hoá Đại Chân Nhân 正一嗣教致虛沖靜承先弘化大真人. Năm 1526, Minh Thế Tông gia phong là Chính Nhất Tự Giáo Hoài Huyền Băo Chân Dưỡng Tố Thủ Mặc Bảo Quang Lư Hoà Trí Hư Xung Tĩnh Thừa Tiên Hoằng Hoá Đại Chân Nhân 正一嗣教懷玄抱真養素守默葆光履和致虛沖靜承先弘化大真人.

- Đời 49: Trương Vĩnh Tự 張永緒 (?-1565), tự là Doăn Thừa 允承, là con của Trương Ngạn Phiến. Năm 1549, Minh Thế Tông phong là Chính Nhất Tự Giáo Thủ Huyền Dưỡng Tố Tuân Phạm Sùng Đạo Đại Chân Nhân 正一嗣教守玄養素遵范崇道大真人.

- Đời 50: Trương Quốc Tường 張國祥 (?-1611), tự là Văn Chinh 文征, là con của Trương Vĩnh Tự, được ban hiệu Chính Nhất Tự Giáo Ngưng Thành Chí Đạo Xiển Huyền Hoằng Giáo Đại Chân Nhân 正一嗣教凝誠志道闡玄弘教大真人. Năm 1607, ông vâng sắc chỉ của Minh Thần Tông hiệu chính Tục Đạo Tạng.

- Đời 51: Trương Hiển Tổ 張顯祖 (?-?), tự là Cửu Công 九功, là con của Trương Quốc Tường. Minh Thần Tông sắc chỉ bảo đổi tên Hiển Tổ thành Hiển Dung 顯庸. Ông mất năm 81 tuổi, được ban hiệu Chính Nhất Tự Giáo Quang Dương Tổ Phạm Xung Hoà Thanh Tố Đại Chân Nhân 正一嗣教光揚祖范沖和清素大真人.

- Đời 52: Trương Ứng Kinh 張應京 (?-1651), tự là Dực Thần 翊宸, chưởng giáo năm 1636. Đời Thanh, năm Khang Hi 42 (1703), vua Thánh Tổ phong là Quang Lộc đại phu 光祿大夫.

- Đời 53: Trương Hồng Nhậm 張洪任 (1624-1667), tự là Hán Cơ 漢基, là con thứ của Trương Ứng Kinh, chưởng giáo năm 1651. Năm Khang Hi 42, vua Thánh Tổ phong là Quang Lộc đại phu 光祿大夫.

- Đời 54: Trương Kế Tông 張繼宗 (1666-1715), tự là Thiện Thuật 善述, là con Trương Hồng Nhậm. Khi 8 tháng tuổi cha mất, chú là Trương Hồng Hài 張洪偕 tạm thời chưởng giáo đến khi Kế Tông lên 14 tuổi mới trao lại ấn kiếm. Năm Khang Hi 42, vua Thánh Tổ phong là Quang Lộc đại phu 光祿大夫.

- Đời 55: Trương Tích Lân 張錫麟 (?-1727), tự là Nhân Chỉ 仁祉. Đời Thanh, Thế Tông lên ngôi, phong là Quang Lộc đại phu 光祿大夫.

- Đời 56: Trương Ngộ Long 張遇隆 (?-?), tự là Phụ Thiên 輔天, c̣n bé th́ cha là Trương Tích Lân mất, hai chú là Trương Khánh Lân 張慶麟 và Trương Chiêu Lân 張昭麟 tạm nắm quyền. Năm Càn Long thứ 7 (1742) ông phụng sắc chỉ mà chưởng giáo. Năm 1771, ông được phong là Thông Nghị đại phu 通議大夫.

- Đời 57: Trương Tồn Nghĩa 張存義 (1752-1779), tự là Phương Trực 方直, chưởng giáo năm 1766.

- Đời 58: Trương Khởi Long 張起隆 (?-1798), tự là Thiệu Vũ 紹武. Năm 1780, ông phụng chỉ vua mà chưởng giáo.

- Đời 59: Trương Ngọc 張鈺 (?-?), tự là Bội Tương 佩相, là con thứ của Trương Khởi Long, chưởng giáo năm 1800. Năm Quang Tự 30 (1904), vua Đức Tông phong là Quang Lộc đại phu 光祿大夫.

- Đời 60: Trương Bồi Nguyên 張培源 (?-1859), tự là Dục Thành 育成, chưởng giáo năm 1829. Năm Quang Tự 30, vua Đức Tông phong là Quang Lộc đại phu 光祿大夫.

- Đời 61: Trương Nhân Trinh 張仁晸 (?-?), tự là Bính Tường 炳祥, chưởng giáo năm 1862, mất năm 63 tuổi. Năm Quang Tự 30, vua Đức Tông phong là Quang Lộc đại phu 光祿大夫.

- Đời 62: Trương Nguyên Húc 張元旭 (?-1824), tự là Hiểu Sơ 曉初, chưởng giáo năm 1904. Đầu năm Dân Quốc việc phong hiệu bị phế bỏ. Khi Viên Thế Khải xưng đế, lại phong cho ông là Chính Nhất Tự Giáo Đại Chân Nhân 正一嗣教大真人.

- Đời 63: Trương Ân Phổ 張恩溥 (1904-1969), tự là Hạc Cầm 鶴琴, là con của Trương Nguyên Húc, chưởng giáo năm 1924. Năm 1949 ông di cư sang Đài Loan, và năm 1950 sáng lập Đạo giáo hội 道教會 của Đài Loan. năm 1957 ông thiết lập Đạo giáo cư sĩ hội 道教居士會 Đạo giáo đại pháp sư hội 道教大法師會. Năm 1969 ông liễu đạo tại Đài Bắc. Sau đó cháu họ của ông là Trương Uyên Tiên 張淵先 lên kế vị.

THÁI B̀NH ĐẠO 太平道

Thái B́nh Đạo cũng là giáo phái thành lập trong giai đoạn đầu của Đạo giáo, xuất hiện từ đời Đông Hán triều vua Thuận Đế (tại vị 126-144) về sau, như là kết quả tự nhiên của học thuyết Hoàng Lăo và thần tiên phương thuật thịnh hành bấy giờ. Tổ chức Đạo giáo đời Đông Hán thoạt tiên phát khởi từ dân gian, chủ yếu là Thái B́nh Đạo ở phương Đông và Ngũ Đấu Mễ Đạo ở phương Tây Nam. Theo truyện Tương Khải trong Hậu Hán Thư đă chép, Vu Cát 于吉 là một phương sĩ ở Lang Nha 琅琊 (nay ở phía Bắc của Lâm Cân 臨沂 tỉnh Sơn Đông) sáng tác một quyển Thần Thư 神書 (tức Thái B́nh Thanh Lĩnh Kinh 太平青領經, gọi tắt là Thái B́nh Kinh 太平經, gồm 170 quyển) và một đệ tử của Vu Cát đă dâng sách này cho vua Hán Thuận Đế (tại vị 126-144). Được xem là kinh điển tối yếu trong giai đoạn ban đầu h́nh thành Đạo giáo, quyển đạo kinh này bàn về phụng thờ trời đất, thuận theo âm dương ngũ hành, tảo trừ đại loạn, giúp thiên hạ thái b́nh, sách c̣n bàn sự hưng phế của quốc gia, phương pháp dưỡng sinh, cách tu luyện thành thần tiên, bùa chú, v.v... Triều đ́nh cho rằng đây là sách tà đạo nên tịch thu. Theo Tam Quốc Chí, Vu Cát đến đất Cối và Ngô (nay là huyện Cối Kê của Chiết Giang và huyện Ngô của Giang Tô) lập tịnh xá, đốt hương tụng đọc đạo thư, tế tạo phù lục bùa chú, lấy nước trị bệnh, thu hút đông đảo quần chúng. Tôn Sách cho là tà đạo nên giết Vu Cát. Tuy nhiên, Thái B́nh Kinh lại lưu truyền trong dân gian. Bấy giờ là cuối đời Đông Hán, bọn ngoại thích và hoạn quan lũng đoạn triều chính, cường hào và địa chủ nắm giữ đất đai, lại thêm bệnh dịch lưu hành, nên nông dân điêu linh thống khổ đến nỗi đă nổi loạn. Nhân dịp này, Trương Giác đă lợi dụng Thái B́nh Kinh để lập giáo, tên gọi là Thái B́nh Đạo, qua đó quy tụ nông dân để khởi nghĩa gọi là «Hoàng Cân nông dân khởi nghĩa».

Năm Kiến Ninh 建寧 (168-172) đời Hán Linh Đế 漢靈帝, Trương Giác bắt đầu truyền đạo, tự xưng là Đại Hiền Lương Sư 大賢良師. Giáo pháp chủ yếu sử dụng tư tưởng Hoàng Lăo, thuyết âm dương ngũ hành, các loại bùa chú phù lục, và kính thờ thần Trung Hoàng Thái Nhất 中黃太一. Trương Giác lấy nước bùa (phù thủy) trị bệnh, bệnh nhân phải cúi đầu sám hối th́ bệnh mau khỏi. Nhiều người lành bệnh, c̣n ai không khỏi bệnh th́ Trương Giác giải thích là v́ thiếu đức tin. Số người tin và theo đạo dần dần gia tăng, nên Trương Giác thu nhận đệ tử, rồi cắt cử 8 đại đệ tử đến các địa phương khác để truyền đạo. Sau 10 năm, tín đồ của Trương Giác tăng lên đến 10 vạn, trải khắp 8 châu như: Thanh , Từ , U , Kư , Kinh , Dương , Duyện , Dự .

Khoảng năm Quang Ḥa 光和 (179-181), Trương Giác tổ chức tín đồ theo biên chế quân đội: Tín đồ phân làm 36 đơn vị gọi là phương (dùng thông với chữ phường ); đại phương th́ có trên một vạn người, tiểu phương th́ có 6 hay 7 ngàn người. Người thống lĩnh mỗi phương gọi là cừ soái 渠帥. Ba anh em Trương Giác noi theo quan niệm tam tài (thiên-địa-nhân) mà xưng hiệu: Trương Giác là Thiên Công tướng quân 天公將軍, Trương Bảo 張寶 là Địa Công tướng quân 地公將軍, và Trương Lương 張梁 là Nhân Công tướng quân 人公將軍. Đồng thời, Trương Giác lợi dụng sấm ngữ để tuyên truyền khắp nơi: «Trời Xanh [tức nhà Hán] đă chết, Trời Vàng phải lập, vào năm Giáp Tư, thiên hạ thái b́nh.» (Thương Thiên dĩ tử, Hoàng Thiên đương lập, tuế tại Giáp Tư, thiên hạ thái b́nh 蒼天已死黃天當立歲在甲子天下太平). Sau đó ông sai đệ tử dùng đất sét trắng viết chữ Giáp Tư trên các cổng thành, trên tường vách khắp các phủ, huyện, quận, châu. Trương Giác chọn ngày 5 tháng 3 năm Giáp Tư (năm 184) để khởi nghĩa. Sự ấn định này căn cứ vào Thái B́nh Kinh, quyển 39: «Năm Giáp Tư, ngày Đông Chí, trời đất bắt đầu trỗi dậy. […] Vạn vật sinh ra, đều lấy Giáp làm đầu, Tư làm gốc. Vậy, lấy Giáp Tư làm thứ tự phát xuất.» (Giáp Tư tuế dă, Đông Chí chi nhật dă, thiên địa chính thủy khởi vu thị dă. […] Phàm vật sinh giả, giai dĩ Giáp vi thủ, Tư vi bản. Cố dĩ thượng Giáp Tư tự xuất chi dă 甲子歲也冬至之日也天地正始起于是也凡物生者皆以甲為首子為本故以上甲子序出之也). Kinh lại nói: «Tam ngũ khí ḥa, nhật nguyệt thường chiếu sáng, chính là thái b́nh.» (Tam ngũ khí ḥa, nhật nguyệt thường quang minh, năi vi thái b́nh 三五氣和日月常光明乃為太平).

Trương Giác mua chuộc một hoạn quan tên Phong Tư 封諝 làm nội ứng, và ra lệnh đại phương của Mă Nguyên Nghĩa 馬元義 hợp với vài vạn dân ở Kinh Châu 荊州 và Dương Châu 揚州 kéo binh đánh Nghiệp Thành 鄴城, ở Kư Châu 冀州, vào ngày giờ đă định. Nhưng chưa đến ngày khởi nghĩa th́ một đệ tử của Trương Giác tên là Đường Chu 唐周 ở Tế Nam 濟南 đi tố giác với triều đ́nh. Triều đ́nh sai Hà Tiến đánh dẹp Mă Nguyên Nghĩa, đồng thời bắt giam bọn hoạn quan Phong Tư. Sự việc bại lộ, Trương Giác bèn khởi binh trước thời hạn một tháng (tức vào tháng 2). Triều đ́nh phái thêm Lô Thực 廬植, Hoàng Phủ Tung 皇甫嵩, và Chu Tuấn 朱俊 đánh dẹp quân Hoàng Cân. Ngoại trừ Thanh Châu và Từ Châu, tín đồ Thái B́nh Đạo khắp 6 châu hưởng ứng cuộc khởi nghĩa, sự kiện này gây chấn động kinh đô. Đánh nhau suốt 10 tháng, quân Hoàng Cân bị đại bại. Trương Giác bị bệnh chết. Đến năm 188, tàn binh của quân Hoàng Cân lại tái khởi nghĩa tại Thanh Châu và Từ Châu, nhưng cũng bại trận. Thành phần cốt cán của Thái B́nh Đạo tử trận rất nhiều. Giáo phái này tan ră, và các tín đồ c̣n lại đành gia nhập Ngũ Đấu Mễ Đạo.

Tuy đă suy vong nhưng Thái B́nh Đạo vẫn c̣n ảnh hưởng mạnh mẽ các giáo phái về sau. Những quan niệm về thuật số, gậy 9 khúc (cửu tiết trượng 九節杖) mà Trương Giác từng dùng, áo vàng mũ vàng của đạo sĩ, cách dùng phù thủy và bùa chú trị bệnh, v.v... của Thái B́nh Đạo đều được các giáo phái về sau kế thừa. Minh Giáo 明教 đời Đường và đời Tống đă tôn Trương Giác làm giáo chủ. Bạch Liên Giáo 白蓮教 đời Thanh khởi nghĩa tại Tứ Xuyên và Thiểm Tây đă cải biên câu sấm ngữ của Trương Giác: «Hoàng Thiên tương tử, Thương Thiên đương sinh, đại kiếp tại nhĩ, nhân dân hữu nạn.» 黃天將死蒼天當生大劫在邇人民有難 (Trời vàng sắp chết, Trời xanh phải sinh, kiếp lớn đến gần, nhân dân gặp nạn.)

BẠCH GIA ĐẠO 帛家道

Bạch Gia Đạo là một giáo phái xuất hiện vào thời kỳ ban đầu của Đạo giáo, hoạt động vào đời Ngụy-Tấn (220-420) ở phương bắc và phương nam (vùng Giang Tô và Chiết Giang). Nguồn gốc của giáo phái này đến nay vẫn chưa rơ. Tương truyền tổ sư của giáo phái này là Bạch Ḥa 帛和, và tên giáo phái đặt theo họ của tổ sư. Theo Thần Tiên Truyện của Cát Hồng, Bạch Ḥa tự là Trọng Lư 仲理, quê ở Liêu Đông 遼東. Thầy của Bạch Ḥa là Đổng Phụng 董奉,[4] vốn là một thần nhân sống thời Tôn Quyền 孫權 (nước Ngô, thời Tam Quốc). Nhiều thuyết nói rằng Vu Cát truyền Thái B́nh Kinh cho Bạch Ḥa, điều này cho thấy sự liên hệ giữa Bạch Gia Đạo và Thái B́nh Đạo.

Về sau, Bạch Ḥa đến Tây Thành Sơn 西城山 phục vụ Vương Phương B́nh 王方平 rồi ông được phép nhập thạch thất, diện bích (ngó vách) 3 năm. Nơi đây ông xem được các bản văn khắc vào vách của cổ nhân như: Thái Thanh Trung Kinh Thần Đan Phương 太清中經神丹方, Tam Hoàng Thiên Văn Đại Tự 三皇天文大字, Ngũ Nhạc Chân H́nh Đồ 五岳真形圖. Sau đó ông lên núi Lâm Lự Sơn 林慮山 (c̣n gọi Long Lự Sơn 隆慮山), thành địa tiên 地仙. Về Bạch Ḥa, Thần Tiên Truyện chép: «Bạch Ḥa tự là Trọng Lư. Ông được Đổng tiên sinh [tức Đổng Phụng] dạy hành khí và tịch cốc. Rồi ông đến Tây Thành Sơn bái Vương Quân [tức Vương Phương B́nh] làm thầy. Vương Quân nói: ‘Yếu quyết của đại đạo không thể nhất thời mà đạt được. Ta tạm đến đảo tiên Doanh Châu, ngươi hăy vào thạch thất này, nh́n chăm chú vào vách đá, lâu ngày trên vách sẽ hiện ra chữ, thấy chữ th́ phải đọc hiểu, rồi ngươi sẽ đắc đạo.’ Do đó Bạch Ḥa bắt đầu nh́n vách, sau một năm ông không thấy ǵ, nhưng sau 2 năm th́ thấy vách đá hiện chữ lờ mờ, sau 3 năm th́ vách đá hiện rơ chữ. Đó là các bộ Thái Thanh Trung Kinh 太清中經, Thần Đan Phương 神丹方, Tam Hoàng Trượng Ngũ Nhạc Đồ 三皇丈五岳圖. Ông tụng niệm vang vang. Vương Quân trở về nói: ‘Ngươi đắc đạo rồi.’ Sau đó Bạch Ḥa luyện thần đan, uống nửa tễ th́ trường sinh bất tử.» (Bạch Ḥa tự Trọng Lư, sư Đổng tiên sinh hành khí đoạn cốc thuật, hựu nghệ Tây Thành Sơn Vương Quân. Quân vị viết: ‘Đại đạo chi quyết, phi khả tốt đắc. Ngô tạm văng Doanh Châu, nhữ ư thử thạch thất trung, khả thục thị thạch bích, cửu cửu đương kiến văn tự, kiến tắc độc chi, đắc đạo hĩ. Ḥa năi thị chi, nhất niên liễu vô sở kiến, nhị niên tự hữu văn tự, tam niên liễu nhiên kiến Thái Thanh Trung Kinh, Thần Đan Phương, Tam Hoàng Trượng Ngũ Nhạc Đồ. Ḥa tụng chi, thượng khẩu. Vương Quân hồi viết: ‘Tử đắc chi hĩ.’ Năi tác thần đan, phục bán tễ, diên niên vô cực. 帛和字仲理,師董先生行氣斷谷術,又詣西城山王君.君謂曰:大道之訣非可卒得.吾暫往瀛州,汝於此石室中可熟視石壁久久當見文字,見則讀之,得道矣.和乃視之,一年了無所見二年似有文字,三年了然見太清中經,神丹方,三皇丈五岳圖.和誦之上口,王君回曰:子得之矣.乃作神丹,服半劑,延年無極).

Theo đó, Bạch Ḥa là đạo sĩ thời Tam Quốc. Nhưng Thủy Kinh chú 水經注, quyển 15, chép: «Phía tây nam sông Triền có ngôi mộ của Bạch Trọng Lư, mộ bia khắc ‘Chân nhân Bạch quân chi biểu’. Trọng Lư tên là Hộ, người Ba Quận, Ích Châu. Lập mộ tháng 11, năm Vĩnh Gia thứ 2 (tức 309), đời Tấn Hoài Đế.» (Triền thủy tây nam hữu Bạch Trọng Lư mộ, mộ tiền hữu bi vân: ‘chân nhân Bạch quân chi biểu’. Trọng Lư danh Hộ, Ích châu Ba quận nhân. Tấn Hoài Đế Vĩnh Gia nhị niên thập nhất nguyệt lập. 瀍水西南有帛仲理墓,墓前有碑云:真人帛君之表.仲理名護,益州巴郡人.晉懷帝永嘉二年十一月立). Tức là Bạch Ḥa sống vào thời Tây Tấn.

V́ Bạch Ḥa quá nổi tiếng, đời Tây Tấn có nhiều đạo sĩ mượn danh Bạch Ḥa truyền giáo cho giới quần chúng b́nh dân ở phía bắc và ở phía nam (vùng Giang Tô và Chiết Giang). Chương ‘Khư hoặc’ 袪惑 trong Băo Phác Tử 抱朴子 chép: «Lại có kẻ giả mạo đạo sĩ nổi danh đời trước, thí dụ như Bạch Ḥa nghe nói là đến tám ngàn bảy trăm (8700) tuổi, lúc th́ xuất hiện chốn thế gian, lúc th́ đột nhiên biến mất, không ai biết ông ở đâu. Tại Lạc Dương có đạo sĩ nọ, thông thạo mọi việc, tu luyện các loại thuật số. Ông ta nêu những vấn đề hóc búa để chất vấn Bạch Ḥa. Ḥa nghe đến đâu trả lời đến đấy không chút ngập ngừng. Quả là biết rộng. […] Sau Ḥa bỗng đi mất, không ai biết chỗ của ông. Có người ở Hà Bắc tự xưng là Bạch Ḥa, nên mọi người xa gần cũng đến phục vụ ông, ông ta trở nên thật giàu có. Đệ tử Bạch Ḥa nghe Thầy tái xuất, rất mừng, bèn đến xem thực hư ra sao. Kẻ kia v́ thế mà bỏ chạy mất.» (Năi phục hữu giả thác tác tiền thế hữu danh chi đạo sĩ giả, như Bạch Ḥa giả, truyền ngôn dĩ bát thiên thất bách tuế, thời xuất tục gian, hốt nhiên tự khứ, bất tri kỳ tại. Kỳ Lạc trung hữu đạo sĩ, dĩ bác thiệp chúng sự, hiệp luyện thuật số giả, dĩ chư nghi nan tư vấn Ḥa, Ḥa giai tầm thanh vi luận thích, giai vô nghi ngại, cố vi viễn thức. […] hậu hốt khứ, bất tri sở tại. Hữu nhất nhân ư Hà Bắc tự xưng vi Bạch Ḥa, ư thị viễn cận cánh văng phụng sự chi, đại đắc trí di chí phú. Nhi Bạch Ḥa tử đệ, văn Hoà tái xuất, đại hỉ, cố văng kiến chi, năi định phi dă. Thử nhân nhân vong tẩu hĩ.) 乃復有假托作前世有名之道士者,如帛和者,傳言已八千七百歲,時出俗間,忽然自去,不知其在.其洛中有道士,已博涉眾事,洽煉術數者,以諸疑難咨問和,和皆尋聲為論釋,皆無疑礙,故為遠識[...]後忽去,不知所在.有一人於河北自稱為帛和,於是遠近竟往奉事之,大得致遺至富.而帛和子弟,聞和再出,大喜,故往見之,乃定非也.此人因亡走矣.

Qua đoạn văn trên, ta thấy vào đời Tây Tấn đă có đạo sĩ giả danh Bạch Ḥa và lập giáo. Hơn nữa, tại Hà Bắc là Lạc Dương đă có đệ tử của Bạch Ḥa, nhưng bấy giờ tổ chức và quy mô chưa lớn. Họ lấy các bộ kinh mà Bạch Ḥa sở đắc (như Thái Thanh Trung Kinh Thần Đan Phương, Tam Hoàng Thiên Văn Đại Tự, Ngũ Nhạc Chân H́nh Đồ) để truyền thừa.

Bạch Gia Đạo, Thái B́nh Đạo (Thiên Sư Đạo), và Thượng Thanh Phái có liên quan với nhau về mặt kinh điển. Theo truyền thuyết, Thái Thượng Lăo Quân truyền Thái B́nh Kinh cho Vu Cát, rồi Vu Cát truyền lại cho Bạch Ḥa. Cũng theo truyền thuyết, Kim Khuyết Hậu Thánh Đế Quân 金闕後聖帝君 truyền Tố Thư 素書 (tức Thái B́nh Kinh Phục Văn 太平經復文) cho Thanh Đồng Quân 青童君, Thanh Đồng Quân truyền lại cho Vương Phương B́nh 王方平 (ở Tây Thành 西城), Vương Phương B́nh truyền lại cho Bạch Ḥa.

Bạch Gia Đạo thoạt đầu là tín ngưỡng b́nh dân, cũng gọi là «tục thần đảo» 俗神禱 v́ thờ các tục thần và dâng cúng các thứ huyết thực. Đến đời Đông Tấn (317-420), Bạch Gia Đạo phát triển ở Giang Tô và Chiết Giang, không ít tín đồ thuộc giai cấp sĩ tộc thế gia. Từ đời Đông Tấn trở đi, sử sách không ghi chép về Bạch Gia Đạo, nhưng do mối quan hệ giữa giáo phái này với Thượng Thanh Phái và Thiên Sư Đạo, có lẽ Bạch Gia Đạo đă sáp nhập vào hai giáo phái đó.

LÊ ANH MINH

CHÚ THÍCH

[1] Tổ kinh là bộ kinh điển quan trọng nhất của giáo phái, tương truyền thần tiên đă trao cho vị đạo sĩ sáng lập.

[2] Ba ngọn núi Mao Sơn, Các Tạo, và Long Hổ này quan trọng, là ba trung tâm truyền đạo của ba tông phái lớn chuyên về phù lục, cho nên phù lục này gọi là Tam Sơn Phù lục.

[3] Đại Việt Sử Kư Toàn Thư (Ngoại Kỷ), [bản dịch của Tạ Quang Phát: 275-277, ccix/9a].

[4] Theo Đại Việt Sử Kư Toàn Thư, Đổng Phụng đă cứu tử Sĩ Nhiếp (Sĩ Tiếp), bấy giờ là thái thú Giao Chỉ.

 

SÁCH THAM KHẢO

Cát Nguyên Chiêu Trị 吉元昭治, Đạo Giáo Dữ Bất Lăo Trường Thọ Y Học 道教與不老長壽醫學 (nguyên tựa: 道教と不老長壽の醫學), bản dịch Hán văn của Dương Vũ 楊宇, Thành Đô xuất bản xă (=xbx), 1992.

Chu Việt Lợi 朱越利, Đạo Kinh Tổng Luận 道經總論, Liêu Ninh Giáo Dục xbx, 1992.

Đại Việt Sử Kư Toàn Thư, Tạ Quang Phát dịch, Saigon, 1974.

Đại Việt Sử Kư Toàn Thư, 4 quyển, nxb Khoa Học Xă Hội, Hà Nội, 1993.

Điền Thành Dương 田誠陽, Đạo Kinh Tri Thức Bảo Điển 道經知識寶典, Tứ Xuyên Nhân Dân xbx, 1996.

Hứa Địa Sơn 許地山, Đạo Giáo Sử 道教史, Thượng Hải Cổ Tịch xbx, 1999.

Isabelle Robinet, Taoist Meditation - The Maoshan Tradition of Great Purity (Thượng Thanh Mao Sơn Tông 上清茅山宗), Julian F. Pas và Norman J. Giradot dịch Pháp Anh, State University of New York Press, 1993.

Khanh Hy Thái 卿希泰 chủ biên, Trung Quốc Đạo Giáo 中國道教, Đông Phương xbx Trung Tâm, Thượng Hải, 1996, 4 quyển.

Khanh Hy Thái 卿希泰, Trung Quốc Đạo Giáo Tư Tưởng Sử Cương 中國道教思想史綱, Tứ Xuyên Nhân Dân xbx, 1999.

Khanh Hy Thái 卿希泰 chủ biên, Trung Quốc Đạo Giáo Sử 中國道教史, Tứ Xuyên Nhân Dân xbx, 1992.

Khanh Hy Thái 卿希泰 & Chiêm Thạch Song 詹石窗 chủ biên, Đạo Giáo Văn Hoá Tân Điển  道教文化新典, Thượng Hải, 1999.

Khanh Hy Thái 卿希泰, Vương Chí Trung 王志忠, Đường Đại Triều 唐大潮, Đạo Giáo Thường Thức Vấn Đáp 道教常識問答, Giang Tô Cổ Tịch xbx, 1996.

Khâu Hạc Đ́nh 邱鶴亭 chú dịch, Liệt Tiên Truyện-Thần Tiên Truyện kim dịch 列仙傳神仙傳今譯, Bắc Kinh, 1996.

Lư Cương 李綱, Hán Đại Đạo Giáo Triết Học 漢代道教哲學, Ba Thục Thư Xă, Tứ Xuyên, 1995.

Lư Dưỡng Chính 李養正, Đạo Giáo Khái Thuyết 道教概說, Trung Hoa Thư Cục, Bắc Kinh, 1996.

Lư Viễn Quốc 李遠國, Đạo Giáo Khí Công Dưỡng Sinh Học 道教氣功養生學, Tứ Xuyên Xă hội Khoa học viện xbx, 1988.

Ngô Phong  吳楓 chủ biên, Trung Hoa Đạo Học Thông Điển 中華道學通典, Nam Hải Xuất Bản Công Ty, Trung Quốc, 1994.

Phó Cần Gia 傅勤家, Trung Quốc Đạo Giáo Sử 中國道教史, Thương Vụ Ấn Thư Quán, Bắc Kinh, 1998.

Trần Quốc Phù 陳國符, Đạo Tạng Nguyên Lưu Khảo 道藏源流考, 2 quyển, Trung Hoa Thư Cục, Bắc Kinh, 1989.

Vương Hữu Tam 王友三 chủ biên, Trung Quốc Tôn Giáo Sử 中國宗教史, 2 quyển, Tề Lỗ xbx, 1991.

Hanosoft R&D

Chú thích về font Arial Unicode MS

Cùng một tác giả Lê Anh Minh

Thiên-Lư Bửu-Ṭa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674

Website: www.thienlybuutoa.org     Email    Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT

Thông bạch in Kinh