Trở lại trang chánh của Website Thiên Lý Bửu Tòa

 

 

VĂN XƯƠNG ĐẾ QUÂN ÂM CHẤT VĂN

文 昌帝 君 陰 騭 文

* Lê Anh Minh khảo & dịch chú

 

 

I. KHÁI QUÁT THIỆN THƯ TRONG THƯ TỊCH ĐẠO GIÁO

Kinh sách thuần túy khuyến thiện thì phải kể Cảm Ứng Thiên là tối cổ, sau đó là Âm Chất Văn 陰騭文 Công Quá Cách 功過格. Cát Nguyên Chiêu Trị [1] – sau khi đi khảo sát một vòng Đông Nam Á (trừ Việt Nam), lấy Đài Loan làm trung tâm của khu vực thực địa, năm 1988 – đã tổng hợp 259 chủng loại thiện thư và phân nhóm. Xin kể vài nhóm chính như sau:

  • Thái Thượng Cảm Ứng Thiên 太上感應篇, 6 chủng loại.

  • Quan Thánh Đế Quân Giác Chính Chân Kinh 關聖帝君覺正真經, 6 chủng loại.

  • Thánh Nguyên Giác Chân Kinh 聖源覺真經, 2 chủng loại.

  • Quan Thánh Đế Quân Thân Giáng Tế Thế Linh Nghiệm Cứu Kiếp Kinh Văn 關聖帝君親降濟世靈驗救劫經文, 6 chủng loại.

  • Quan Thánh Đế Quân Giới Dâm Kinh 關聖帝君戒淫經, 4 chủng loại.

  • Văn Xương Đế Quân Tích Tự Công Quá Luật 文昌帝君惜字功過律, 2 chủng loại.

  • Vô Cực Thánh Đế Đại Đỗng Chân Kinh 無極聖帝大洞真經, 2 chủng loại.

  • Liễu Phàm Tứ Huấn 了凡四訓, Liễu Phàm Tứ Huấn Bạch Thoại Giải 了凡四訓白話解, Liễu Phàm Tứ Huấn Ngữ Giải Tinh Biên 了凡四訓語解精編, nội dung lấy Âm Chất Văn của Viên Liễu Phàm 袁了凡 đời Minh sáng tác (?) làm chủ, tổng cộng 3 chủng loại.

  • Quan Âm Đại Sĩ Cứu Kiếp Tiên Phương 觀音大士救劫仙方, Dược Vương Bồ Tát Bản Sự Phẩm 藥王菩薩本事品, Dược Sư Pha Lê Quang Như Lai Bản Nguyện Công Đức Kinh 藥師玻璃光如來本愿功德經, nhóm này dung hợp Phật và Đạo, tổng cộng 44 loại.

  • Thái Dương Thái Âm Chân Kinh 太陽太陰真經, Thái Dương Kinh 太陽經, 6 chủng loại

  • Vô số thiện thư do cơ bút mà ra, gồm Thiên Đường Du Ký 天堂游記, Địa Ngục Du Ký 地獄游記, các toa thuốc trị bệnh, v.v. có 47 chủng loại.

  • Lưu Bá Ôn Sấm 劉伯溫讖, 2 chủng loại, và Vi Thiện Tối Lạc 為善最樂, 1 chủng loại.

Nội dung của các thiện thư này bao gồm:

  • Mối liên quan mật thiết giữa hành thiện và trường sinh.

  • Thiện ác báo ứng.

  • Phương pháp hành thiện.

  • Phương pháp trị bệnh (ở một số quyển).

  • Chấn hưng tôn giáo.

Văn Xương Đế Quân 文昌帝君 với thần Chu Y 朱衣 (bên trái) và thần Khôi Tinh 魁星 (bên phải).
Nguồn: Henri Doré, vol.6, tr.56

Ba thiện thư quan trọng và tối cổ của Đạo giáo vẫn là Cảm Ứng Thiên, Âm Chất Văn, và Công Quá Cách. Bài viết này chủ yếu tìm hiểu Âm Chất Văn.

 

II. ÂM CHẤT VĂN

Nguyên danh của thiện thư này là Văn Xương Đế Quân Âm Chất Văn 文 昌 帝 君 陰 騭 文. Âm chất là gì? Nơi thiên Hồng Phạm 洪範 của Thư Kinh 書經 (quyển 4: Chu Thư 周書) có ghi lời Vũ Vương 武王 hỏi ông Cơ Tử rằng: «Ô hô Cơ Tử ! Duy thiên âm chất hạ dân, tương hiệp quyết cư. Ngã bất tri kỳ di luân du tự.» 嗚 呼 箕 子 惟 天 陰騭 下 民 相 協 厥 居 我 不 知 其 开 倫 攸 敘 (Ôi, Cơ Tử ! Trời sắp đặt âm thầm cho kẻ hạ dân, giúp đỡ để được nên người có đức tốt.Ta không biết bậc thường có thứ tự thế nào). [2] Từ điển Từ Hải giải: chất là ấn định, âm là âm thầm (chất, định dã; âm, mặc dã 騭定也陰默也). Thiên âm chất hạ dân là ý nói trời âm thầm ấn định và sắp đặt cho dân chúng. Người đời dùng từ âm chất như từ âm đức 陰德 [3] Như vậy từ cổ đại đã có quan niệm Thiên Mệnh và trong Âm Chất Văn, từ âm chất cũng hàm ý Thiên nhân cảm ứng nữa.

Âm Chất Văn được hình thành vào thời gian nào? Có nhiều thuyết khác nhau. Đạo Tạng Tập Yếu 道藏輯要 (Tinh tập 星集) thu thập bản Âm Chất Văn Chú 陰騭文注 của Chu Khuê 朱珪 đời Thanh; trong đó ghi rằng: «Âm Chất Văn hữu Tống Giao chi sự, đương tác ư Tống đại.» 陰 騭 文 有 宋 郊 之 事 當 作 於 宋 代 (Âm Chất Văn có chép truyện Tống Giao, nên phải được trứ tác vào đời Tống). Cách suy luận của Chu Khuê là nội chứng pháp khảo chứng 內證法考證, nghĩa là khảo chứng dựa vào tình tiết trong văn bản. Trong Âm Chất Văn có ghi điển cố «Cứu nghĩ trúng trạng nguyên chi tuyển» 救蟻中狀元之選 (cứu bầy kiến mà trúng tuyển trạng nguyên) nói về đời Tống có hai anh em Tống Giao 宋郊 và Tống Kỳ 宋祁 [4] đi thi. Một nhà sư xem tướng bảo rằng Tống Kỳ (em) sẽ đỗ đầu còn Tống Giao (anh) sẽ đỗ thấp hơn. Về sau, nhà sư xem lại diện tướng của Tống Giao lại thì kinh hãi vì thấy phúc tướng đại tăng, hỏi ra mới biết Tống Giao vừa cứu sống một bầy kiến trong cơn mưa bão. Quả nhiên, sau đó Tống Giao đỗ trạng nguyên còn Tống Kỳ đỗ thứ 10. Vì chuyện xảy ra vào đời Tống nên Chu Khuê cho rằng Âm Chất Văn được viết vào đời Tống. Nhiều tác giả đời Thanh cũng chấp nhận thuyết này. Trong danh mục những thiện thư mà Cát Nguyên Chiêu Trị khảo sát trong vùng Đông Nam Á ta thấy có nhóm thiện thư Liễu Phàm Tứ Huấn lấy tác phẩm Âm Chất Văn do Viên Liễu Phàm đời Minh sáng tác làm chủ. [5] Vậy là thêm một thuyết cho rằng Viên Liễu Phàm sáng tác Âm Chất Văn.

Viên Liễu Phàm 袁了凡 tên thật là Viên Hoàng 袁黃, tự là Khôn Nghi 坤儀, hiệu là Liễu Phàm, sống vào đời Minh, quê ở Gia Thiện 嘉善 thuộc tỉnh Chiết Giang 浙江. Ông tinh thông Phật giáo và Đạo giáo, chú trọng phép tĩnh tọa dưỡng sinh. Trứ tác nổi tiếng của ông là Nhiếp Sinh Tam Yếu 攝生三要 Viên Liễu Phàm Tiên Sinh Tĩnh Tọa Yếu Quyết 袁了凡先生靜坐要訣. Quyển Tĩnh Tọa Yếu Quyết có 3 thiên: Dự Hành 豫行, Tu Chứng 修證, và Điều Tức 調息. Thiên Dự Hành giới thiệu những điều cần yếu của người luyện tĩnh tọa, trọng điểm là điều tâm 調心, hệ duyên thu tâm 系緣收心, tá sự luyện tâm 借事煉心, tĩnh xứ dưỡng khí 靜處養氣, náo xứ luyện thần 鬧處煉神. Thiên Tu Chứng thảo luận sự tự thể nghiệm của việc tọa thiền. Thiên Điều Tức giới thiệu 3 phương pháp điều tức của Phật Giáo Thiên Thai Tông 天台宗 (tức là Lục Diệu Môn 六妙門, Thập Lục Đặc Thắng 十六特勝, Thông Minh Quán 通明觀). [6] Như vậy có lẽ là Viên Liễu Phàm đã chú giải Âm Chất Văn chăng?

Holmes Welch chỉ nói về Âm Chất Văn như sau: «Âm Chất Văn thậm chí ít tính chất Đạo giáo hơn [Cảm Ứng Thiên]. Sách khuyên người tụng đọc phải xem xét Tam giáo một cách không thiên vị. Bảng liệt kê những việc thiện ác trong sách đọc lên thấy như thể trích lược từ Cảm Ứng Thiên như: thương xót cô nhi, chú ý đi không dẫm lên con sâu cái kiến, tránh vọng ngữ, v.v. Nếu ta âm thầm gắng làm những việc ấy và chẳng mong cầu được đáp đền gì hết thì ta hoặc con cháu ta sẽ được phúc lộc.» (The Yin Chih Wen is even less specifically Taoist. It urges that the reader «impartially observe the Three Doctrines» [Buddhism, Taoism, and Confucianism]. Its list of virtues and vices reads like little more than an extract from the Kan Ying P’ien: compassion for orphans, care not to walk on worms and ants, avoidance of improper language, and so on). [7] Như vậy H. Welch cũng chẳng nói chi đến tác giả của Âm Chất Văn, nhưng trong bảng niên biểu phụ lục cuối sách ông dè dặt với dấu (?) ghi Cảm Ứng Thiên xuất hiện khoảng năm 1100 (Nam Tống), sau Ngộ Chân Thiên 悟真篇 của Trương Bá Đoan 張伯端, [8]Âm Chất Văn được ghi khoảng năm 1200 (Bắc Tống). Tửu Tỉnh Trung Phu 酒井忠夫, học giả Nhật Bản, cho rằng Âm Chất Văn do một sĩ nhân nào đó sáng tác vào cuối đời Minh. [9] Lý Cương thấy nội dung của Âm Chất Văn rõ ràng là phóng tác và bổ sung cho Cảm Ứng Thiên, nên bảo rằng Âm Chất Văn phải xuất hiện sau Cảm Ứng Thiên không lâu, có thể là cuối đời Nguyên, và tác giả là một đạo sĩ nào đó thác danh Văn Xương Đế Quân. Văn Xương Đế Quân là sao Văn Khúc (Văn Khúc Tinh 文曲星) chủ quản văn chương, phúc lộc, công danh, phú quý của con người, nên đối tượng chủ yếu mà Âm Chất Văn muốn khuyến thiện chính là giới sĩ đại phu (tức là nho sĩ). [10] Còn đối tượng mà Cảm Ứng Thiên muốn khuyến thiện là mọi giai tầng trong xã hội. Như vậy Âm Chất Văn bổ sung cho Cảm Ứng Thiên là tăng gia yêu cầu tu dưỡng đạo đức của giới sĩ phu, phản ánh khát vọng của dân chúng. [11]

Khai kinh là lời của Văn Xương Đế Quân: «Ngô nhất thập thất thế vi sĩ đại phu thân, vị thường ngược dân khốc lại, tế nhân chi nan, cứu nhân chi cấp, mẫn nhân chi cô, dung nhân chi quá, quảng hành âm chất, thượng cách thương khung. Nhân năng như ngã tồn tâm, Thiên tắc tứ nhữ dĩ phúc.» 吾 一 十 七 世 為 士大 夫 身 未 嘗 虐 民 酷 吏 , 濟 人 之 難 , 救 人 之 急 , 憫 人 之 孤 , 容 人 之 過 , 廣 行 陰 騭 , 上 格 蒼 穹 . 人 能 如 我 存 心 , 天 則 賜 汝 以 福 (Ta 17 kiếp hóa thân làm sĩ đại phu, chưa hề ngược đãi dân chúng và nha lại; ta giúp người lúc khốn khó, cứu người khi khẩn cấp, xót thương trẻ côi cút, khoan dung lầm lỗi của người, thi hành âm chất khắp nơi, nên được đặc cách lên cõi trời. Ai biết giữ lòng gìn tâm như ta, Trời sẽ ban phúc cho). Lời này đánh trúng vào tâm lý khát vọng phúc lộc công danh của giới nhân sĩ. Để noi gương của Văn Xương Đế Quân làm sĩ đại phu, trạng nguyên, tễ tướng đời đời họ phải tích lũy vun bồi âm đức. Khi Trời ban phúc, chẳng những bản thân mình cũng hưởng mà con cháu cũng được cậy nhờ, như lời kinh bảo: «Cận báo tắc tại tự kỷ, viễn báo tắc tại nhi tôn.» 近 報 則 在 自己 , 遠 報 則 在 兒 孫 (Báo ứng gần thì ngay nơi bản thân mình, báo ứng xa thì nơi con cháu). Tích lũy âm đức thì phải hành thiện âm thầm chẳng để ai hay biết, chỉ có Trời biết mà thôi. Thiện là phúc, vì thiện triệu vời phúc, sinh sôi bất tuyệt, thiện vô lượng thì phúc vô lượng, nên kinh bảo: «Bách phúc biền trăn, thiên tường vân tập, khởi bất tùng âm chất trung đắc lai giả tai!» 百 福 駢 臻 , 千 祥 雲 集 , 豈 不 從 陰 騭 中 得來 者 哉 (Trăm phúc cùng đến, ngàn may mắn tụ về, đó chẳng phải là từ âm chất mà có được hay sao?)

Sự báo ứng, thiện báo và ác báo, theo Cảm Ứng Thiênnhư bóng theo hình, tức là báo ứng nhãn tiền. Nhưng trong đời sống hằng ngày nhiều người vẫn chưa bị lý lẽ ấy thuyết phục vì vẫn thấy nhiều kẻ gian ác mà ngày càng vinh thân phì gia hoặc lắm người hiền lương mà vẫn bị đọa đầy lầm than khốn khổ. Âm Chất Văn đã bổ sung cho lý lẽ trên rằng: «Cận báo tắc tại tự kỷ, viễn báo tắc tại nhi tôn» 近 報 則 在 自 己 , 遠 報 則 在 兒 孫 (Báo ứng gần thì ngay nơi bản thân mình, báo ứng xa thì nơi con cháu). Nghĩa là sự báo ứng là hiển nhiên, hành thiện thì thiện báo, tác ác thì ác báo, nhưng còn một yếu tố thời gian xen vào dẫn đến hai loại báo ứng là cận báo và viễn báo. Tương truyền đời Tống có ông Trình Nhất Đức 程一德 chữ nghĩa chẳng mấy làu thông nhưng tu nhân tích đức, ấn tống kinh khuyến thiện. Đêm nằm mộng thấy Văn Xương Đế Quân bảo ông rằng Thượng Đế cảm lòng lành của ông nên ban vinh hiển cho con cháu của ông. Quả nhiên hậu duệ của Trình Nhất Đức là Trình Minh Đạo 程明道 và Trình Y Xuyên 程伊川 là hai nhà Lý học lừng danh của Trung Quốc. Những cố sự như vậy thì nhiều vô kể. Có người còn đem thuyết định mệnh của Nho gia để giải thích thêm tại sao làm thiện mà gặp họa và làm ác thì được phúc. Nếu bản mệnh đã mỏng, làm thiện chỉ giảm bớt cái họa dầy sẵn có, nên người ta ngỡ làm thiện mà gặp họa. Nếu bản mệnh đã dầy, làm ác chỉ giảm bớt phúc dầy sẵn có, nên người ta ngỡ làm ác mà gặp phúc là vậy. Thực chất thiện ác báo ứng cũng như phóng ảnh: phóng rọi càng xa thì ảnh càng lớn, hoặc như nợ nần: để càng lâu thì nợ chồng chất càng nhiều.

Dường như Âm Chất Văn ra đời trong thời tao loạn, nhân tâm điên đảo, đồi phong bại tục. Người đời miệng đọc tứ thư ngũ kinh mà lòng chẳng tin, mồm nói lời đạo đức mà không chùn tay gây ác. Cho nên kinh bảo: «Đế Quân mẫn chi, cố thần đạo thiết giáo, phi loan hành hóa, sử nhân tri thần minh chiêu bố, sâm liệt ư thượng, thiện ác cát hung chi báo, xác nhiên bất sảng, ký kỳ tín úy hối ngộ, dĩ tự bạt ư hãm tỉnh dã» 帝 君 憫 之 , 故 神 道 設 教 , 飛 鸞 行 化 , 使 人 知 神 明 昭 布 , 森 列 於 上 , 善 惡 吉 凶 之 報 , 確 然 不 爽 , 冀 其 信 畏 悔 悟 , 以 自 拔 於 陷 井 也 (Đế Quân xót thương [người đời] nên đem thần đạo ra giảng dạy, cỡi chim loan đi hóa độ người đời, khiến cho họ biết rằng thần linh minh hiển khắp nơi, dầy đặc trên trời; rằng lẽ báo ứng thiện ác lành dữ luôn đúng, cho nên họ chớ vi phạm; và mong họ tin, sợ, sám hối, giác ngộ để tự cứu vớt mình lên khỏi giếng sâu lấp vùi vậy).

Dường như có sự khủng hoảng đạo đức của giới thống trị nên tác giả Âm Chất Văn đứng về phía người hiền khốn cùng (cùng khốn thiện nhân) mà nhắn nhủ kẻ cai trị: «Chính trực đại Thiên hành hóa, từ tường vị quốc cứu dân» 正 直 代 天 行 化 慈祥 為 國 救 民 (Hãy ngay thẳng thay Trời hành đạo và giáo hóa dân, thương xót bao dung vì nước cứu dân), «vật ỷ quyền thế nhi nhục thiện lương» 勿 依 權 勢 而 辱 善 良 (chớ cậy quyền thế mà làm nhục người lương thiện). Và cũng dạy bảo kẻ phú hào: «Gia phú đề huề thân thích, tuế cơ chẩn tế lân bằng, đấu xứng tu yếu công bình, bất khả khinh xuất trọng nhập, nô bộc đãi chi khoan thứ, khởi nghi bị trách hà cầu» 家 富 提 攜 親 戚 , 歲 饑 賑 濟 鄰 朋 , 斗 稱 須 要 公 平 , 可 輕 出 重 入 , 奴 僕 待 之 寬 恕 , 豈 宜 備 責 荷 求 (Nhà giàu thì cùng chia sớt với người thân thích, năm đói kém phải cứu giúp hàng xóm và bạn bè, cái đấu cây cân phải cho công bằng, không thể cân đo cho người thì nhẹ mà cân đo cho mình thì nặng, đối đãi tôi tớ khoan dung, sao lại phải trách móc và đòi hỏi khe khắt nơi họ), và «vật thị phú hào nhi khi cùng khốn» 勿 恃 富 豪 而 欺 窮 困 (chớ cậy mình là giàu có mà khinh rẻ kẻ khốn cùng ).

Âm Chất Văn cũng nhấn mạnh trung hiếu như những thiện thư khác. Thời của Khổng Tử, chữ hiếu đã ngầm chứa chữ trung, bởi ngay trong chương một của Hiếu Kinh, [12] Khổng Tử dạy Tăng Sâm rằng: «Ngô ngứ nhữ thân thể phát phu thụ chi phụ mẫu, bất cảm hủy thương, hiếu chi thủy dã. Lập thân hành đạo dương danh ư hậu thế dĩ hiển phụ mẫu, hiếu chi chung dã. Phù hiếu thủy ư sự thân, trung ư sự quân, chung ư lập thân.» 吾 語 汝 身 體 髮 膚受 之 父 母 , 不 敢 毀 傷 , 孝 之 始 也 . 立 身 行 道 揚 名 於後 世 以 顯 父 母 , 孝 之 終 也 . 夫 孝 始 於 事 親 , 中 於 事 君 , 終 於 立 身 (Ta bảo ngươi cái thân thể da tóc này là nhận lãnh của cha mẹ, không dám hủy hoại cho thương tổn, ấy là bắt đầu của đạo hiếu. Lập thân hành đạo nêu danh đời sau để làm rạng rỡ mẹ cha, ấy là điều chót của đạo hiếu. Nói chung, hiếu bắt đầu là phụng sự cha mẹ, giữa là phục vụ vua, sau chót là lập thân). [13] Tuy không nói thẳng, nhưng sự quân 事君 (phục vụ vua) chính là trung vậy. Âm Chất Văn giải nghĩa thêm: «Trung chủ hiếu thân, kính huynh tín hữu, báo đáp tứ ân, vật nhân tư cừu sử nhân huynh đệ bất hòa, vật nhân tiểu lợi sử nhân phụ tử bất mục» 忠 主 孝 親 , 敬 兄 信 友 , 報 答 四 恩 , 勿 因 私 仇 使 人 兄弟 不 和 , 勿 因 小 利 使 人 父 子 不 睦 (Trung với vua, hiếu với cha mẹ, kính trọng anh, tin cậy bạn bè, báo đáp bốn ân, [14] chớ vì cừu hận riêng mà làm cho anh em người khác bất hoà, chớ vì mối lợi vặt mà làm cha con người khác nghịch nhau). Kinh bảo: «Đế Quân dĩ trung hiếu vi bản.» 帝 君 以 忠 孝 為 本 ([Văn Xương] Đế Quân lấy trung hiếu làm gốc). Trung hiếu là căn bản đạo đức của Nho gia nhưng cũng được Đạo gia coi trọng. Lý Thúc Hoàn 李叔還 nói: «Đạo giáo thị dĩ trung hiếu vi bản, dĩ kính thiên pháp tổ lợi vật tế nhân vi vụ.» 道 教 是 以 忠 孝 為 本 , 以 敬 天 法 祖 利 物濟 人 為 務 (Đạo giáo lấy trung hiếu làm gốc, lấy kính trọng Trời- noi theo pháp tắc tổ tiên- gây lợi cho vật- cứu giúp người mà làm nhiệm vụ). [15]

Âm Chất Văn cũng dạy con người bảo vệ môi trường sinh thái, đặc biệt không giết canh ngưu 耕牛 là trâu bò giúp ta cày ruộng: «Cấm hoả mạc thiêu sơn lâm, vật đăng sơn nhi võng cầm điểu, vật lâm thủy nhi độc ngư hà, vật tể canh ngưu.» 禁 火 莫 燒 山 林 , 勿 登 山 而 网 禽 鳥 , 勿 臨 水 而 毒 魚 蝦 , 勿 宰 耕 牛 (Cấm lấy lửa đốt núi rừng, chớ lên núi giăng lưới bắt chim chóc, chớ xuống nước dùng thuốc độc bắt cá tôm, chớ giết trâu cày). Đó là lòng từ bi giới sát của Phật gia. Kinh dạy thêm: «Hoặc mãi vật nhi phóng sinh, hoặc trì trai nhi giới sát, cử bộ thường khán trùng nghĩ.» 或 買 物 而 放 生, 或 持 齋 而 戒 殺 , 舉 步 常 看 蟲 蟻 (Hoặc là mua loài vật để phóng sinh, hoặc ăn chay để tròn giới cấm sát sanh, bước chân đi thường xem kỹ kẻo đạp nhầm con sâu cái kiến). Cảm Ứng Thiên chỉ dạy thương yêu loài vật, Âm Chất Văn tích cực cụ thể hóa lòng từ bi ấy là khuyên ta phải ăn chay. Không trực tiếp sát sanh mà còn ăn mặn khác nào bỏ tiền thuê người sát sanh, tức là gián tiếp sát sanh đó thôi. Trì trai chính là giữ trọn vẹn giới cấm sát sanh vậy.

Âm Chất Văn cũng dung hợp tam giáo, trung hiếu lập thân cứu nhân tế chúng là bổn phận con nhà Nho, nhưng cũng cần quan tâm tu dưỡng theo Tiên đạo hoặc tu hành theo đạo Phật, hay là in kinh, xây dựng, tu bổ chùa chiền: «Hoặc phụng chân triều đẩu, hoặc bái phật niệm kinh, ấn tạo kinh văn, sáng tu tự viện.» 或 奉 真 朝 斗 , 或 拜 佛 念 經 , 印 造 經 文 , 創 修 寺 院 (Hoặc thờ phụng tiên gia và triều kiến sao Bắc Đẩu, hoặc lạy Phật niệm kinh, in ấn kinh sách, sáng lập và tu bổ chùa chiền).

Kinh còn dạy phải có những hành động thiết thực giúp ích giao thông công cộng: «Tiển ngại đạo chi kinh trăn, trừ đương đồ chi ngõa thạch, tu sổ bách niên kỳ khu chi lộ, tạo thiên niên lai vãng chi kiều, điểm dạ đăng dĩ chiếu nhân hành, tạo hà thuyền dĩ tế nhân độ, tu kiều thông đạo vi thiện hữu thịnh danh.» 剪 礙 道 之 荊 榛 , 除 當 途 之 瓦 石 , 修 數 百 年崎 嶇 之路 , 造 千 年 來 往 之 橋 , 點 夜 燈 以 照 人 行 , 造 河 船 以 濟 人 渡 , 修 橋 通 道 為 善 有盛 名 (Chặt bớt cây cối gai góc cản trở đường đi, dẹp bỏ gạch ngói nằm giữa đường, tu sửa đường gập ghềnh khúc khuỷu mấy trăm năm, xây cầu kiều cho muôn vạn người qua lại, đốt đèn soi đường cho người đi đêm tối, làm tàu thuyền trợ giúp người vượt sông, sửa cầu thông đường làm việc thiện thì nổi tiếng nhiều).

Âm Chất Văn Cảm Ứng Thiên cùng nói đến việc thiện việc ác, nhưng Âm Chất Văn nhấn mạnh chúng thiện phụng hành, còn Cảm Ứng Thiên nhấn mạnh chư ác mạc tác. Âm Chất Văn tuy ảnh hưởng kém hơn Cảm Ứng Thiên nhưng cả hai cũng tác động nhất định đến đời sống tâm lý của nhân dân Trung Quốc. Những thoại bản tiểu thuyết thời Minh Thanh thường lấy chủ đề là nhân quả báo ứng thiện ác đáo đầu cũng là nhằm thõa mãn tâm lý khát vọng của quần chúng đương thời.

Tại Việt Nam, không rõ giới nho sĩ đã biết đến tác phẩm Âm Chất Văn tự bao giờ. Nhưng trong kho sách Hán Nôm còn lưu giữ được, chúng ta thấy có tác phẩm Âm Chất Văn Chú 陰騭文註 của Lê Quý Đôn (1726-1784) trọn bộ hai quyển. Theo Trần Văn Giáp, [16] bài đề từ của Phan Huy Chú trong tác phẩm này cho biết Lê Quý Đôn chú giải Âm Chất Văn dựa theo hai bộ sách: (1) Đan Quế Tịch 丹桂藉 của Hoàng Chính Nguyên 黃正元 vào năm Càn Long 乾隆 26 (1761) và (2) Âm Chất Văn Chú 陰騭文註 (hai quyển) của Tống Tư Nhân 宋思仁 năm Càn Long 41 (1776). Hai bản Âm Chất Văn Chú của Lê Quý Đôn mà hiện nay còn giữ được đã khắc in năm Minh Mạng 20 (1839) và năm Tự Đức 16 (1863); in và trữ tại đền Ngọc Sơn (Hà Nội). Ngoài ra còn có Âm Chất Văn Diễn Ca 陰騭文演歌 của Lê Quý Thận 黎貴慎 (cháu của Lê Quý Đôn, rể của Phan Huy Ích).

 

III. DỊCH VÀ CHÚ ÂM CHẤT VĂN [17]

1. 帝 君 曰 : 吾 一 十 七 世 為 士 大 夫〪身 未 嘗 虐 民 酷 吏〪濟 人 之 難〪救 人 之 急〪憫 人 之 孤〪容 人 之 過〪廣 行 陰 騭〪上 格 蒼 穹〪人 能 如 我存 心〪天 必 賜 汝 以 福〪

Đế Quân viết: Ngô nhất thập thất thế vi sĩ đại phu, thân vị thường ngược dân khốc lại, tế nhân chi nan, cứu nhân chi cấp, mẫn nhân chi cô, dung nhân chi quá, quảng hành âm chất, thượng cách thương khung. Nhân năng như ngã tồn tâm, Thiên tất tứ nhữ dĩ phúc. (Ta 17 kiếp hóa thân làm sĩ đại phu, chưa hề ngược đãi dân chúng và nha lại; ta giúp người lúc khốn khó, cứu người khi khẩn cấp, khoan dung lầm lỗi của người, thi hành âm chất khắp nơi, nên được đặc cách lên cõi trời. Ai biết giữ lòng gìn tâm như ta, Trời sẽ ban phúc cho.) = The Lord says: For seventeen generations I have been incarnated as a high official, and I have never oppressed the people or my subordinates. I have saved people from misfortune, helped people in need, shown pity to orphans, and forgiven people’s mistakes. I have extensively practiced the Silent Way of Recompense and have penetrated Heaven above. If you can set your minds on things as I have set mine, Heaven will surely bestow blessings upon you.

2. 於 是 訓 於 人 曰 : 昔 于 公 治 獄〪大 興 駟 馬 之 門〪竇 氏 濟 人〪高 折 五 枝 之 桂〪救 蟻 中 狀 元 之 選〪埋 蛇 享 宰 相 之 榮〪

Ư thị huấn ư nhân viết: Tích Vu công trị ngục đại hưng tứ mã chi môn; Đậu thị tế nhân cao chiết ngũ chi chi quế; cứu nghĩ trúng trạng nguyên chi tuyển; mai xà hưởng tể tướng chi vinh. (Thế nên ta dạy người đời rằng: Ngày xưa có Vu công [hiền từ] giữ ngục, về sau con [là Vu Định Quốc] nên thừa tướng; [18] [đời Tống có Tống Giao] [19] cứu bầy kiến khỏi chết đuối mà đỗ trạng nguyên; người họ Đậu [tức Đậu Yên Sơn] do cứu người mà sau thành văn quan cao tột; [20] có kẻ chôn xác rắn mà sau nên tể tướng vẻ vang.) [21] = Therefore, I pronounce these instructions to mankind, saying ... [22]

3. 欲 廣 福 田〪須 憑 心 地〪行 時 時 之 方 便〪作 種 種 之 陰 功〪利 物 利 人〪修 善 修 福〪

Dục quảng phúc điền, tu bằng tâm địa, hành thời thời chi phương tiện, tác chủng chủng chi âm công, lợi vật lợi nhân, tu thiện tu phúc. (Muốn rộng mở ruộng phước phải cậy trông tấm lòng của mình, luôn thi hành những tiện ích cho đời, tạo muôn việc âm đức, lợi cho muôn vật và con người, làm thiện làm phước.) = Whoever wants to expand his field of happiness, let him rely on his moral nature. Do good work at all times, and practice in secret meritorious deeds of all kinds. Benefit living creatures and human beings. Cultivate goodness and happiness.

4. 正 直 代 天 行 化〪慈 祥 為 國 救 民〪

Chính trực đại Thiên hành hóa, từ tường vị quốc cứu dân. (Hãy ngay thẳng thay Trời hành đạo và giáo hóa dân, thương xót bao dung vì nước cứu dân.) = Be honest and straight, and, on behalf of Heaven, promote moral reform. Be compassionate and merciful and, for the sake of the country, save the people.

5. 忠 主 孝 親〪敬 兄 信 友〪或 奉 真 朝 斗〪或 拜 佛 念 經〪報 答 四 恩〪廣 行 三 教〪

Trung chủ hiếu thân, kính huynh tín hữu, hoặc phụng chân triều đẩu, hoặc bái phật niệm kinh, báo đáp tứ ân, quảng hành Tam giáo. (Trung với vua, hiếu với cha mẹ, kính trọng anh, tin cậy bạn bè, hoặc thờ phụng tiên gia và triều kiến sao Bắc Đẩu, hoặc lạy Phật niệm kinh, báo đáp bốn ân, [23] thi hành rộng khắp giáo lý của Tam giáo là Nho-Thích-Đạo.) = Be loyal to your ruler and filial to your parents. Be respectful toward elders and truthful to friends. Obey the purity [of Taoism] and worship the Northern Constellation; or revere the scriptures and recite the holy name of the Buddha. Repay the four kindnesses [done to us by Heaven, earth, the sovereign, and parents]. Extensively practice the three religions.

6. 濟 急 如 濟 涸 轍 之 魚〪救 危 如 救 密 羅 之雀〪

Tế cấp như tế hạc triệt chi ngư, [24] cứu nguy như cứu mật la chi tước. (Giúp kẻ nguy cấp như thể [giúp] con cá nằm trong vết xe khô cạn nước, cứu kẻ lâm nguy như thể [giúp] con chim sẻ đang vướng lưới dầy.) = Help people in distress as you would help a fish in a dried-up rut. Free people from danger as you would free a sparrow from a fine net.

7. 矜 孤 恤 寡〪敬 老 憐 貧〪措 衣 食 周 道 路 之 饑 寒〪施 棺 槨 免 屍 骸 之 暴 露〪

Căng cô tuất quả, kính lão lân bần, thố y thực chu đạo lộ chi cơ hàn, thi quan quách miễn thi hài chi bộc lộ. (Thương xót cô nhi và quả phụ, kính trọng người già, thương người nghèo khó, xếp đặt y phục và lương thực để chu cấp kẻ lỡ đường đói lạnh, bố thí quan tài để tránh cho kẻ chết khỏi bị phơi bày thi thể.) = Be compassionate to orphans and kind to widows. Respect the aged and have pity on the poor. Collect food and clothing and relieve those who are hungry and cold long the road. Give away coffins lest the dead of the poor be exposed.

8. 家 富 提 攜 親 戚〪歲 饑 賑 濟 鄰 朋〪斗 稱 須 要 公 平〪可 輕 出 重 入〪奴 僕 待 之 寬 恕〪豈 宜 備 責 荷 求〪

Gia phú đề huề thân thích, tuế cơ chẩn tế lân bằng, đấu xứng tu yếu công bình, bất khả khinh xuất trọng nhập, nô bộc đãi chi khoan thứ, khởi nghi bị trách hà cầu. (Nhà giàu thì cùng chia sớt với người thân thích, năm đói kém phải cứu giúp hàng xóm và bạn bè, cái đấu cây cân phải cho công bằng, không thể cân đo cho người thì nhẹ mà cân đo cho mình thì nặng, đối đãi tôi tớ khoan dung, sao lại phải trách móc và đòi hỏi khe khắt nơi họ?) = If your own family is well provided for, extend a helping hand to your relatives. If the harvest fails, relieve and help your neighbors and friends. Let measures and scales be accurate, and do not give less in selling or take more in buying. Treat your servants with generosity and consideration; why should you be severe in condemnation and harsh in your demands?

9. 印 造 經 文〪創 修 寺 院〪捨 藥 材 以 拯 疾 苦〪施 茶 水 以 解 渴 煩〪

Ấn tạo kinh văn, sáng tu tự viện, xả dược tài dĩ chửng tật khổ, thí trà thủy dĩ giải khát phiền. (In ấn kinh sách, sáng lập và tu bổ chùa chiền, đem tiền bạc và thuốc men cứu vớt kẻ khổ đau bệnh tật, bố thí nước trà giúp người giải cơn khát.) = Write and publish holy scriptures and tracts. Build and repair temples and shrines. Distribute medicine to alleviate the suffering of the sick. Offer tea and water to relieve the distress of the thirsty.

10. 或 買 物 而 放 生〪或 持 齋 而 戒 殺〪舉 步 常 看 蟲 蟻〪

Hoặc mãi vật nhi phóng sinh, hoặc trì trai nhi giới sát, cử bộ thường khán trùng nghĩ. (Hoặc là mua loài vật để phóng sinh, hoặc ăn chay để tròn giới cấm sát sanh, bước chân đi thường xem kỹ kẻo đạp nhầm con sâu cái kiến.) = Buy captive creatures and set them free, or hold fast to vegetarianism and abstain from taking life. Whenever taking a step, always watch for ants and insects.

11. 禁 火 莫 燒 山 林〪點 夜 燈 以 照 人 行〪造 河 船 以 濟 人 渡〪勿 登 山 而 网 禽 鳥〪勿 臨 水 而 毒 魚 蝦〪勿 宰 耕 牛〪

Cấm hoả mạc thiêu sơn lâm; điểm dạ đăng dĩ chiếu nhân hành, tạo hà thuyền dĩ tế nhân độ, vật đăng sơn nhi võng cầm điểu, vật lâm thủy nhi độc ngư hà, vật tể canh ngưu (Cấm lấy lửa đốt núi rừng; hãy đốt đèn soi đường cho người đi đêm tối, làm tàu thuyền trợ giúp người vượt sông, chớ lên núi giăng lưới bắt chim chóc, chớ xuống nước dùng thuốc độc bắt cá tôm, chớ giết trâu cày.) = Prohibit the building of fires outside [lest insects be killed] and do not set mountain woods or forests ablaze. Light lanterns at night to illuminate where people walk. Build river boats to ferry people across. Do not go into the mountain to catch birds in nets, nor to the water to poison fish and shrimps. Do not butcher the ox that plows the field.

12. 勿 棄 字 紙〪勿 謀 人 之 財 產〪勿 妒 人 之 技 能〪勿 淫 人 之 妻 女〪勿 唆 人 之 爭 訟〪勿 壞 人 之 名 利〪勿 破 人 之 婚 姻〪勿 因 私 讎 使 人 兄 弟 不 和 〪勿 因 小 利 使 人 父 子 不 睦〪勿 依 權 勢 而 辱 善 良〪勿 恃 富 豪 而 欺 窮 困 〪

Vật khí tự chỉ, [25] vật mưu nhân chi tài sản, vật đố nhân chi kỹ năng, vật dâm nhân chi thê nữ, vật toa nhân chi tranh tụng, vật hoại nhân chi danh lợi, vật phá nhân chi hôn nhân, vật nhân tư thù sử nhân huynh đệ bất hòa, vật nhân tiểu lợi sử nhân phụ tử bất mục, vật ỷ quyền thế nhi nhục thiện lương, vật thị phú hào nhi khi cùng khốn. (Chớ vất bỏ giấy có chữ, chớ mưu chiếm tài sản của người, chớ ganh tỵ tài năng của người khác, chớ gian dâm với vợ và con gái của người, chớ xúi dục người khác tranh chấp và kiện tụng, chớ phá hoại thanh danh và quyền lợi người khác, chớ phá hoại hôn nhân của người, chớ vì tư thù mà làm cho anh em người khác bất hoà, chớ vì mối lợi vặt mà làm cha con người khác nghịch nhau, chớ cậy quyền thế mà làm nhục người lương thiện, chớ cậy mình là phú hào mà khi rẻ kẻ khốn cùng.) = Do not throw away paper with writing on it. Do not scheme for others’ property. Do not envy others’ skill or ability. Do not violate people’s wives or daughters. Do not stir up litigation others. Do not injure others’ reputation or interest. Do not destroy people’s marriages. Do not, on account of personal enmity, create disharmony between brothers. Do not, because of a small profit, cause father and son to quarrel. Do not misuse your power to disgrace the good and the law-abiding. Do not presume upon your wealth to oppress the poor and needy.

13. 善 人 則 親 近 之〪助 德 行 於 身 心〪惡 人 則 遠 避 之〪杜 災 殃 於 眉 睫〪常 須 隱 惡 揚 善〪不 可 口 是 心 非〪

Thiện nhân tắc thân cận chi, trợ đức hạnh ư thân tâm; ác nhân tắc viễn tỵ chi, đỗ tai ương ư mi tiệp; [26] thường tu ẩn ác dương thiện, [27] bất khả khẩu thị tâm phi. (Hãy thân cận người hiền đức, họ sẽ trợ giúp thêm đức hạnh cho ta; hãy lánh xa kẻ ác, nhờ đó ta tránh được tai ương trước mắt; hãy luôn tuyên dương điều thiện và ngăn trừ điều ác của người; chớ có bằng mặt mà chẳng bằng lòng.) [28] = Be close to and friendly with the good; this will improve your moral character in body and mind. Keep at a distance from the wicked; this will prevent imminent danger. Always conceal people’s vices but proclaim their virtue. Do not say «yes» with your mouth and «no» in your heart.

14. 剪 礙 道 之 荊 榛〪除 當 途 之 瓦 石〪修 數 百 年 崎 嶇 之 路〪造千 萬 人 往 來 之 橋〪垂 訓 以 格 人 非〪損 資 以 成 人 美〪作 事 須 循 天 理〪出 言 要 順 人 心〪

Tiển ngại đạo chi kinh trăn, [29] trừ đương đồ chi ngõa thạch, tu sổ bách niên kỳ khu chi lộ,[30] tạo thiên vạn nhân vãng lai chi kiều, [31] thùy huấn dĩ cách nhân phi, tổn tư dĩ thành nhân mỹ, [32] tác sự tu tuần thiên lý, xuất ngôn yếu thuận nhân tâm. (Chặt bớt cây cối gai góc cản trở đường đi, dẹp bỏ gạch ngói nằm giữa đường, tu sửa đường gập ghềnh khúc khuỷu mấy trăm năm, xây cầu kiều cho muôn vạn người qua lại, để lời khuyên nhủ nhằm sửa lầm lỗi của người, chịu hao tốn tài của để người khác được tốt đẹp, làm việc gì cũng noi theo lẽ trời, lời nói thì phải hợp lòng người.)= Cut brambles and thorns that obstruct the road. Remove bricks and stones that lie in the path. Put in good condition roads that have been rough for several hundred years. Build bridges over which thousands and tens of thousands of people may travel. Leave behind you moral instructions to correct people’s faults. Donate money to bring to completion the good deeds of others. Follow the principle of Heaven in your work. Obey the dictates of the human heart in your words.

15. 見 先 哲 於 羹 牆〪慎 獨 知 於 衾 影〪諸 惡 莫 作〪眾 善 奉 行〪永 無 惡 曜 加 臨〪常 有 吉 神 擁 護〪

Kiến tiên triết ư canh tường, [33] thận độc tri ư khâm ảnh, [34] chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, [35] vĩnh vô ác diệu gia lâm, thường hữu cát thần ủng hộ. (Ngưỡng mộ các bậc hiền triết thuở xưa dường như các ngài luôn hiển hiện trước mắt, thận trọng khi ở một mình và không hổ thẹn với chính mình; chớ làm các điều ác, hãy làm mọi điều thiện, vĩnh viễn sao xấu không chiếu vào vận mệnh [của mình], các thiện thần thường ở bên cạnh và bảo vệ cho.) = [Admire the ancient sages so much that you] see them while eating soup or looking at the wall. [Be so clear in conscience that] when you sleep alone, you are not ashamed before your bedding, and when you walk alone, you are not ashamed before your own shadow. Refrain from doing any evil, but earnestly do all good deeds. Then there will never be any influence or evil stars upon you,but you will always be protected by good and auspicious spirits.

16. 近 報 則 在 自己〪遠 報 則 在 兒 孫〪百 福 駢 臻〪千 祥 雲 集〪豈 不 從 陰 騭 中 得 來者 哉〪

Cận báo tắc tại tự kỷ, viễn báo tắc tại nhi tôn, bách phúc biền trăn, thiên tường vân tập, khởi bất tùøng âm chất trung đắc lai giả tai! (Báo ứng gần thì nơi bản thân mình, báo ứng xa thì nơi con cháu, trăm phúc cùng đến, ngàn may mắn tụ về, đó chẳng phải là từ âm chất mà có được hay sao?) = Immediate rewards will come to your own person, and later rewards will reach your posterity. A hundred blessings will come as if drawn by horses, and a thousand fortunes will gather about you like clouds. Do not all these things come through the Silent Way of Recompense?

GHI CHÚ: Vì Âm Chất Văn có nhiều dị bản, những câu sau đây [36] không có trong bản mà tôi dùng, có thể nằm trong một bản khác, nhưng tôi không dám tự tiện chèn các câu này vào bản đang dùng, hy vọng sẽ bổ sung sau khi tìm được bản đầy đủ hơn:

1. 帝 君 憫 之〪故 神 道 設 教〪飛 鸞 行 化〪使 人 知 神 明 昭 布〪森 列 於 上〪善 惡 吉 凶 之 報〪確 然 不 爽〪冀 其 信 畏 悔 悟〪以 自 拔 於 陷 井 也〪

Đế Quân mẫn chi, cố thần đạo thiết giáo, phi loan hành hóa, sử nhân tri thần minh chiêu bố, sâm liệt ư thượng, thiện ác cát hung chi báo, xác nhiên bất sảng, ký kỳ tín úy hối ngộ, dĩ tự bạt ư hãm tỉnh dã. (Đế Quân xót thương [người đời] nên đem thần đạo ra giảng dạy, cỡi chim loan đi hóa độ người đời, khiến cho họ biết rằng thần linh minh hiển khắp nơi, dầy đặc trên trời; rằng lẽ báo ứng thiện ác lành dữ luôn đúng, cho nên họ chớ vi phạm; và mong họ tin, sợ, sám hối, giác ngộ để tự cứu vớt mình lên khỏi giếng sâu lấp vùi vậy).

2. 帝 君 以 忠 孝 為 本〪

Đế Quân dĩ trung hiếu vi bản. ([Văn Xương] Đế Quân lấy trung hiếu làm gốc).

3. 修 橋 通 道 為 善 有 盛 名〪

Tu kiều thông đạo vi thiện hữu thịnh danh. (Sửa cầu thông đường làm việc thiện thì nổi tiếng nhiều).

LÊ ANH MINH

 

         CHÚ THÍCH

[1] Cát Nguyên Chiêu Trị 吉元昭治, Đạo Giáo Dữ Bất Lão Trường Thọ Y Học 道教與不老長壽醫學 (nguyên tựa: 道教と不老長壽の醫學), bản dịch Hán văn của Dương Vũ 楊宇, Thành Đô Xuất Bản Xã, 1992, tr. 81.

[2] Kinh Thư 書經, Thẩm Quỳnh dịch, Trung Tâm Học Liệu Bộ Giáo Dục Saigon xb., 1973, tr. 220.

[3] Từ điển Từ Hải 辭海, Trung Hoa Thư Cục, 1948, tr. 1414.

[4] Tống Giao tức Tống Tường 宋庠 (996-1066) cùng với em là Tống Kỳ [998-1061] là hai văn nhân nổi tiếng đời Tống, đời gọi là Nhị Tống 二宋 (anh là Đại Tống, em là Tiểu Tống). Hai anh em cùng đỗ tiến sĩ, Tống Kỳ hạng nhất, Tống Giao hạng ba. Chương Hiến Thái Hậu 章獻太后 không muốn em đứng trên anh, nên đặt Giao thứ nhất, Kỳ thứ mười. Hai anh em cùng nắm chức vụ cao trong triều. Giao không ưa thanh sắc, đọc sách không mệt; trứ tác gồm: Văn Tập 文集 (40 quyển), Quốc Ngữ Bổ Âm 國語補音 (3 quyển), Kỷ Niên Thông Phổ 紀年通譜 (12 quyển), v.v. Kỳ giỏi về nghị luận, cùng Âu Dương Tu 歐陽修 tu chỉnh Đường Thư 唐書 trên 10 năm; trứ tác gồm: Văn Tập 文集 (100 quyển), Đại Lạc Đồ 大樂圖 (2 quyển), Bút Ký 筆記, v.v. (Xem Dương Ấm Thâm 楊蔭深, Trung Quốc Văn Học Gia Liệt Truyện 中國文學家列傳, Hongkong, 1962, tr. 243, và Đàm Gia Định 譚嘉定, Trung Quốc Văn Học Gia Đại Tự Điển 中國文學家大辭典, quyển thượng, mục từ 2008 và 2017).

[5] Nguyên văn: «Kỳ nội dung quân dĩ Minh đại Viên Liễu Phàm sở trứ đích Âm Chất Văn vi chủ.» 其 內 容 均 以 明 代袁 了 凡 所 著 的 陰 騭 文 為 主 (Sđd. tr. 84).

[6] Ngô Gia Tuấn 吳家駿, Giản Minh Khí Công Từ Điển 簡明氣功辭典, Bắc Kinh, 1993, tr. 109-111.

[7] H. Welch, Taoism: The Parting of the Way, Boston, 1967, tr.141.

[8] Trương Bá Đoan (987-1082) là một đạo sĩ đời Bắc Tống, quê ở Thiên Thai 天台 (nay là Lâm Hải 臨海 thuộc Chiết Giang 浙江), tự là Bình Thúc 平叔 và Dụng Thành 用誠, hiệu là Tử Dương 紫陽. Ông học rộng, nơi Tứ Xuyên gặp chân nhân (Lưu Hải Thiềm 劉海蟾?) truyền dạy đan đạo.Trương Bá Đoan là một trong 5 tổ sư của Nam Tông (Trương Bá Đoan, Thạch Thái 石泰, Tiết Đạo Quang 薛道光, Trần Nam 陳楠, Bạch Ngọc Thiềm 白玉蟾). Ngộ Chân Thiên được viết năm 1075, gồm trên 100 bài thi, từ, ca khúc, lời lẽ ẩn áo giảng về phép luyện nội đan, được xem là tổ kinh 祖經 (kinh gốc) của Nam Tông. Đến nay có trên 30 nhà chú giải Ngộ Chân Thiên. Ngộ Chân Thiên cùng Chu Dịch Tham Đồng Khế 周易參同契 (của Ngụy Bá Dương魏伯陽 đời Đông Hán) được xem là kinh điển chính tông của phép tu nội đan.

[9] Khanh Hy Thái 卿希泰 chủ biên, Trung Quốc Đạo Giáo 中國道教, Thượng Hải, 1996, quyển 2, tr. 126.

[10] Holmes Welch nhận xét rất đúng về Âm Chất Văn rằng: Âm Chất Văn có ít tính chất Đạo giáo hơn Cảm Ứng Thiên.

[11] Lý Cương 李剛Đạo Giáo Sinh Mệnh Luân Lý 道教生命倫理, Tứ Xuyên Nhân Dân xbx, 1994, tr. 151.

[12] E.R. Hughes cho rằng Hiếu Kinh do môn đệ của Tăng Tử viết vào khoảng thế kỷ III tcn. Xem E.R. Hughes, Chinese Philosophy in the Classical Times, Oxford, 1960, tr. 112.

[13] Hiếu Kinh 孝經, thư pháp Hạ Tri Chương 賀知章 (659-744) đời Đường, Nhân Dân Mỹ Thuật xb., Bắc Kinh, 1986. Xem thêm Trung Quốc Hiếu Văn Hóa Mạn Đàm 中國孝文化漫談 của Ninh Nghiệp Cao 寧業高, Ninh Nghiệp Tuyền 寧業泉, và Ninh Nghiệp Long 寧業龍 hợp trứ, Trung Ương Dân Tộc Đại Học xbx, Bắc Kinh, 1995, tr. 231.

[14] Tứ ân: ân trời đất, ân vua, ân cha mẹ, và ân thầy dạy 天地君親師之恩典 (Thiên địa, quân, thân, sư chi ân điển)

[15] Lý Thúc Hoàn 李叔還, Đạo Giáo Yếu Nghĩa Vấn Đáp Tập Thành 道教要義問答集成, Hong Kong,1971, tr.2.

[16] Trần Văn Giáp, Tìm Hiểu Kho Sách Hán Nôm, tập 2, Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1990, tr.235-236). Rất tiếc tôi chưa có dịp tham khảo được hai bản nói trên của Lê Quý Đôn.

[17] Bản Âm Chất Văn tôi dùng được in trong quyển Văn Xương Đế Quân Đại Đỗng Chân Kinh 文昌帝君大洞真經, khắc in năm Hàm Phong 函豐, Đinh Tỵ, tức là năm 1857 dưới triều vua Văn Tông 文宗 nhà Thanh. Bản Âm Chất Văn này gồm ba trang không chú giải và không phân đoạn. Để tiện theo dõi, tôi chia riêng thành từng câu. Phần tiếng Anh là trích từ bản dịch “The Silent Way of Recompense” trong Sources of Chinese Tradition, Vol. II, của WM. Theodore de Bary, Wing-tsit Chan, và Chester Tan, tr. 290-293.

[18] Điển cố Tứ mã môn 駟馬門 hay Tứ mã chi môn 駟馬之門: Hán Thư chép truyện Vu Định Quốc: Cha của Vu Định Quốc 于定國 là Vu Công 于公 giữ ngục nhân từ. Ông nói: «Thiếu cao đại môn lư, lịnh dung tứ mã cao cái xa; ngã trị ngục đa âm đức, tử tôn tất hữu hưng giả.» 少 高 大 門 閭 , 令 容 駟 馬 高 蓋 車 ; 我 治 獄 多 陰 德 , 子 孫 必 有 興 者 (Thuở nhỏ công nhà cao rộng, xe bốn ngựa mui cao qua lọt; ta giữ ngục làm được nhiều âm đức, con cháu ắt có đứa nên danh phận lớn). Về sau con là Vu Định Quốc làm thừa tướng, còn cháu là Vĩnh làm ngự sử đại phu. Xem Từ Hải, tr. 1506.

[19] Xem cước chú 4.

[20] Điển cố chiết quế: Theo Tấn Thư, truyện về Khích Sân 郤詵: «Sân thi đỗ, Vũ Đế hỏi Sân tự đánh giá bản thân ra rao. Sân trả lời tuy mình đỗ đầu nhưng cũng chỉ là cành quế trong rừng quế, là phiến ngọc ở Côn Sơn mà thôi (Do quế lâm chi nhất quế, côn sơn chi phiến ngọc 猶 桂 林 之 一 桂 , 昆 山 之 片 玉). Vua cười.» Từ đó có điển cố chiết quế là thi đỗ cao, các biến thể của điển này là: chiết quế chi 折桂枝, phàn quế 攀桂, quế chiết nhất chi 桂折一枝, quế lâm nhất chi 桂林一枝, tiên quế 仙桂, đắc quế 得桂, Khích chi 郤枝, Sân chi 詵枝, Khích Sân vinh 郤詵榮, Khích Sân lộ 郤詵路. Thường Dụng Điển Cố Từ Điển 常用典故詞典, Thượng Hải Từ Thư xbx, 1985, tr. 358, cho rằng đây là nguồn gốc của điển cố chiết quế, tức là có từ đời Tấn. Từ điển Từ Hải, tr. 564, bảo điển cố chiết quế thông dụng từ đời Đường cho đến nay. Nếu đúng như vậy, tôi nghĩ rằng tác phẩm Văn Xương Đế Quân (vì dùng điển cố này nên) không thể xuất hiện trước đời Đường (618-907).

[21] Chôn xác rắn (mai xà) 埋蛇: Tôn Thúc Ngao 孫叔敖 thuở nhỏ đi chơi gặp hai xác rắn, bèn chôn cất tử tế. Sau ông làm quan lệnh doãn của nước Sở, được dân coi trọng là người nhân đức. Xem điển cố này trong Từ Hải, tr. 320.

[22] Bản tiếng Anh trích dịch câu «Ư thị huấn ư nhân viết...» 於是訓於人曰. Phần điển cố thì bỏ qua.

[23] Tứ ân: Xem chú thích 14.

[24] Điển cố lấy trong Trang Tử Nam Hoa Chân Kinh 莊子南華真經, bài Phụ Ngư 鮒魚 (trong Ngoại Vật 外物). Trang Tử vay lúa Giám Hà Hầu 監河侯, Giám từ chối khéo. Trang giận nói mát: Trước khi đến vay nợ, Trang đã trông thấy một con cá nhỏ (tự xưng là thủy thần biển Đông) đang vùng vẫy trong vết bánh xe xin một ít nước để thoát chết. Trang hứa sau khi ông sang chơi với các vua Ngô Việt, rồi sẽ ngăn nước sông mà giúp con cá. Cá bảo đợi đến lúc đó Trang sẽ gặp nó ở hàng bán cá khô. Nguyên văn trong Nam Hoa Chân Kinh là: Xa triệt trung hữu phụ ngư 車轍中有鮒魚 (con cá nhỏ trong vết xe lún đất). Âm Chất Văn trích điển này, ý nói cứu người ngay lúc hoạn nạn mới là cứu giúp thiết thực.

[25] Đức Văn Tuyên Thánh Sư dạy phải coi trọng giấy có chữ: «Chính Thánh Sư lãnh sứ mạng thiêng liêng khai hóa văn tự trên khắp nước trên địa cầu này. Bởi thế chẳng những Hán tự, chí những chữ nào trên mặt địa cầu này cũng là do Thánh Sư hóa kiếp để chỉ giáo mở mang dân trí. Bởi thế người biết tu hành cần phải trọng giấy chữ, bất cứ là chữ nước nào, không nên làm những điều ô uế trong chữ mà phạm tội, đến những kiếp sau khó mà thông minh trí huệ được.» Xem Thánh Huấn Hiệp Tuyển, quyển I, Tòa Thánh Tiên Thiên Châu Minh xb, Saigon 1961, tr. 143.

[26] Đỗ : ngăn trở, đồng nghĩa với trở tắc 阻塞. Mi là lông mày, tiệp là lông mi. Mi tiệp thường được dùng tỉ dụ con mắt; ở đây chỉ sự kề cận trước mắt. Hàn Phi Tử 韓非子, chương Dụng Nhân 用人, nói: «Bất khử mi tiệp chi họa nhi mộ Bôn-Dục chi tử.» 不去眉睫之禍而慕賁育之死 (Không dẹp trừ cái họa trước mắt mà lại đi hâm mộ cái chết của những kẻ dũng sĩ như Mạnh Bôn và Hạ Dục).

[27] Có hai nhóm từ hay dùng lẫn trong các thiện thư như Cảm Ứng ThiênÂm Chất Văn: Ẩn ác dương thiện 隱惡揚善 (che giấu điều ác, phô bày điều thiện; như người đời hay nói: Tốt khoe xấu che) và Át ác dương thiện 遏惡揚善 (ngăn trở điều ác, tuyên dương điều thiện). Chủ trương của tôi là nên chọn nhóm từ sau, ý nói việc ác phải bị ngăn trừ chứ không nên che giấu. Tôi cũng chú giải điểm này trong Cảm Ứng Thiên y như vậy.

[28] «Khẩu thị tâm phi» 口是心非 cũng có thể dịch: “Miệng thì nói điều hay điều phải, mà lòng thì toan tính điều sái quấy.”

[29] Kinh trăn: phiếm chỉ bụi cây gai rậm rạp.

[30] Kỳ khu: đường núi mấp mô khó đi.

[31] Ý «Làm cầu kiều cho người qua lại» này được trích dẫn vào văn bia ở chùa Cầu (Hội An), bài bi văn: Trùng Tu Lai Viễn Kiều được khắc năm Gia Long 16 (tức 1817). Tác giả là Khê Đình Bá Đinh Tường (Đốc học dinh Trực Lệ, Quảng Nam).

[32] Luận Ngữ 論語 (Nhan Uyên 顏淵, câu 16): «Quân tử thành nhân chi mỹ, bất thành nhân chi ác. Tiểu nhân phản thị.» 君 子 成 人 之 美 , 不 成 人 之 惡 . 小 人 反 是 (Bậc quân tử thành tựu những điều tốt đẹp cho người chứ không gieo điều ác cho người. Kẻ tiểu nhân thì ngược lại).

[33] Canh tường 羹牆: Hậu Hán Thư chép truyện về Lý Cố 李固: «Tích Nghiêu tồ chi hậu, Thuấn ngưỡng mộ tam niên, tọa tắc kiến Nghiêu ư tường, thực tắc đổ Nghiêu ư canh.» 昔 堯 殂 之 後 , 舜 仰 慕 三 年 , 坐 則 見 堯 於 牆 , 食 則 睹 堯 於 羹 (Xưa, suốt ba năm sau khi vua Nghiêu mất, vua Thuấn luôn ngưỡng mộ ngài; khi ngồi thì thấy hình ảnh ngài trên tường vách; khi ăn cơm thì thấy hình ảnh ngài trong tô canh). Ý câu này trong Âm Chất Văn: Ta cần thật lòng ngưỡng mộ các vị thánh hiền thuở xưa như luôn thấy hình ảnh các ngài trước mắt. Xem Từ Hải, tr. 1073.

[34] Khâm ảnh: Tống sử chép truyện về Thái Nguyên Định 蔡元定: «Độc hành bất quý ảnh, độc tẩm bất quý khâm.» 獨 行 不 愧 影 , 獨 寢 不 愧 衾 (Đi một mình không thẹn với cái bóng của mình, ngủ một mình không thẹn với cái chăn của mình). Xem Từ Hải, tr. 1211.

[35] Câu «Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành» này trích dẫn từ Cảm Ứng Thiên.

[36] Được Lý Cương trích dẫn trong: Lý Cương 李剛 Đạo Giáo Sinh Mệnh Lý Luận 道教生命理論, Tứ Xuyên Nhân Dân xbx, 1994.

HANOSOFT R&D

Chú thích về font Arial Unicode MS

Cùng một tác giả Lê Anh Minh

 

Thiên-Lý Bửu-Tòa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674

Website: www.thienlybuutoa.org     Email    Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT

Thông bạch in Kinh