Trở lại trang chánh của Website Thiên Lư Bửu Ṭa

 

Xuân thái

Dũ Lan LÊ ANH DŨNG

Truyện Tây du, hồi thứ 91, kể việc Đường Tăng bị yêu quái bắt trong khi xem hội hoa đăng ở phủ Kim B́nh vào đêm nguyên tiêu (rằm tháng Giêng). Tề Thiên cỡi mây truy t́m tung tích sư phụ, đến một ḥn núi cao chớn chở, gặp bốn người đuổi ba con dê, miệng quát “Khai thái”. Tề Thiên trợn con mắt lửa tṛng vàng, nhận ra đó là bốn vị thần (tứ trị công tào) quản lư năm, tháng, ngày, giờ (tên là Trị Niên, Trị Nguyệt, Trị Nhật, Trị Thời Công Tào). Tề Thiên hỏi tại sao làm chuyện kỳ lạ vậy th́ bốn vị công tào đáp rằng mượn ba con dê để lấy ư tam dương khai thái ngơ hầu hóa giải tai nạn cho Đường Tăng được thông suốt.

Lời nói của bốn vị công tào trong Tây du thật ra đă phỏng theo ư quẻ thứ 11 trong kinh Dịch (Địa Thiên Thái). Người xưa giảng rằng Thái là thông suốt (Thái giả thông dă). Thoán truyện quẻ Thái lại nói “Thái, tiểu văng, đại lai, cát hanh…” nghĩa là kẻ tiểu nhân tránh xa, bậc đại nhân quân tử đến gần, đó là tốt lành, thông thuận. Đại tượng truyện quẻ Thái nói “thiên địa giao Thái, hậu dĩ tài thành thiên địa chi đạo…” nghĩa là nh́n vào h́nh dáng của quẻ, thấy nội quái Càn (trời, tượng trưng bằng ba vạch liền, ba hào dương) nằm bên dưới hợp với ngoại quái Khôn (đất, tượng trưng bằng ba vạch đứt, ba hào âm) nằm bên trên, tức là khí trời giáng xuống dưới, khí đất xông lên trên, vũ trụ nhờ thế được giao ḥa, những đối nghịch (mâu thuẫn) được điều chỉnh cho vạn vật thành tựu vuông tṛn…

Đại lược như thế để thấy rằng theo kinh Dịch th́ Thái là tốt lành. Do đó, khi qua lúc khốn đốn chuyển sang thời thuận lợi, người ta bảo là “Hết cơn bỉ cực đến hồi thới (thái) lai”. Ư nghĩa tốt lành của Thái là do ba hào dương (ba vạch liền) của nội quái Càn. Tuy nhiên, dương trong khái niệm âm dương của đạo Dịch là một lư trừu tượng; do đó, người xưa đă mượn từ đồng âm (homonym) dương (con dê) để cụ thể hóa. Ba hào dương v́ thế được thể hiện bằng ba con dê.

Thư họa gia Quan Cường (tức Quan Tồn Chí) sinh năm 1932 tại huyện Nam Hải, tỉnh Quảng Đông, và sinh sống tại Việt Nam từ thơ ấu, từng dạy hội họa tại trường Huỳnh Kiến Hoa (Chợ Lớn, 1976), cùng các thư họa gia Lư Tùng Niên, Vương Trung Phu, và Hoàng Hiến B́nh thành lập nhóm Nam Tú Nghệ Uyển (Chợ Lớn, 1989) để duy tŕ và phát huy nghệ thuật thư họa truyền thống. Quan lăo sư có vẽ một bức thủy mặc Tam dương khai thái, trong đó ba con dê tượng trưng cho tam dương, ngoài ra c̣n có cành hoa đỏ (có lẽ là hoa đào) tượng trưng cho mùa xuân.

Tại sao lại kèm thêm ư xuân vào đây? Theo kinh Dịch, tháng 11 âm lịch (tiết đông chí) ứng với quẻ Địa Lôi Phục (chỉ có một hào dương, một vạch liền, ở hào 1 dưới cùng). Sang tháng 12 th́ tăng thêm một hào dương ở hào 2 thành quẻ Địa Trạch Lâm. Sang tháng Giêng (đầu mùa xuân) th́ đủ ba hào dương thành quẻ Địa Thiên Thái. Do đó, người xưa nói đến xuân thường không quên nhắc tới Thái.

Thực vậy, trong ư chúc xuân mong ước muôn dân bốn biển chung hưởng thái b́nh, ca dao Việt Nam có câu:

Nay mừng tứ hải đồng xuân,

Tam dương khai thái, muôn dân ḥa b́nh.

Để bán làm quà tặng dịp Tết, thay lời chúc lành, tranh lụa Trung Quốc (48x38cm) thể hiện đề tài tam dương khai thái như sau:

Thiền sư Hương Hải (1628-1715) sống vào thời Hậu Lê, có lần xúc cảm sáng tác bài thơ xuân thất ngôn bát cú mà hai câu đề là:

Tam dương khai thái chuyển hồng quân,

Cửu thập thiều quang sắc sắc tân.

Có người dịch:

Tiết xuân thông mở chuyển muôn phương,

Ba tháng thiều quang sắc sắc xuân.

 

Trong số mấy bài thơ trên điện Thái Ḥa (kinh thành Huế) tương truyền có bài ngũ ngôn như sau:

Hà xứ xuân sinh tảo,

Xuân sinh chấn th́ phong,

Tam dương khai thái tịnh,

Tứ hải lư tường đồng.

Có người dịch:

Nơi nào xuân đến sớm,

Gió đông xuân về nhanh,

Vận thái b́nh xuân mở,

Dân cùng vui điềm lành.

 

Lại nghe nói ở B́nh Định, tiếng trống chầu nổi lên thúc giục diễn viên ra sân khấu (gọi là trống khai trường) được đánh theo từng mùa. Buổi diễn nhằm mùa xuân th́ đánh ba tiếng, mùa hạ đánh chín tiếng, mùa thu đánh bảy tiếng, mùa đông đánh năm tiếng (xuân tam, hạ cửu, thu thất, đông ngũ). Ba tiếng trống mùa xuân được hiểu là ứng với tam dương khai thái.

Câu đối Tết dán nhà cửa ngày xuân thường có: Ngũ phúc lâm môn,/ Tam dương khai thái. Ngũ phúc gồm năm điều phước là: Thọ (sống lâu); phú (giàu sang); khang ninh (b́nh an, khỏe mạnh); du hiếu đức (ham làm việc phước đức); khảo chung mệnh (sống trọn tuổi Trời cho). Câu đối này được Nguyễn Công Trứ (1778-1858) nhắc trong bài hát nói với giọng tự trào:

Bầu một chiếc lăn chiêng, mặc sức tam dương khai thái,

Nhà hai gian bỏ trống, tha hồ ngũ phúc lâm môn.

Trong các cửa hàng của người Hoa, quà lưu niệm tam dương khai thái (san yang kai tai) rất phong phú. Dưới đây là một tác phẩm bằng ngọc xanh lục, tạc h́nh ba con dê đang nh́n mặt trời, có đế gỗ.

Người ta cũng làm các b́nh sứ tam dương khai thái để trang trí nhà cửa. B́nh c̣n đồng âm với b́nh an. Các b́nh này chỉ trang trí ba màu vàng, đen, đỏ chứ không tạo h́nh ba con dê. Sau đây là vài mẫu b́nh san yang kai tai thông dụng:

1. B́nh kiểu trái nho (19x29cm).

2. Kiểu b́nh này (20x35,5cm) rất thông dụng kể từ đời Càn Long (nhà Thanh), có đế gỗ.

3. Kiểu b́nh này (43x43cm) có hai tay nắm và đế gỗ.

4. Kiểu b́nh này (35,5x38cm) rất thông dụng kể từ đời Càn Long (nhà Thanh), có đế gỗ.

Nhân t́m hiểu ảnh hưởng kinh Dịch trong đời sống, lễ Tết, kính chúc bạn đọc hai chữ XUÂN THÁI. Quư vị có thể viết hai chữ này dán lên chiếc b́nh gốm đẹp trang trí pḥng khách ngày xuân để thể hiện ước vọng tốt đẹp cho gia đ́nh và bằng hữu, thân thích.

Dũ Lan LÊ ANH DŨNG

Cùng một tác giả Lê Anh Dũng

Đôi ḍng sơ lược về tác giả Lê Anh Dũng

 

Thiên-Lư Bửu-Ṭa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674

Website: www.thienlybuutoa.org     Email    Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT

Thông bạch in Kinh