MỘT NGÀY SỐNG ĐẠO

CỦA NGƯỜI TÍN ĐỒ CAO ĐÀI

Lê Anh Dũng

Nghe bài "Một ngày sống Đạo của người tín đồ Cao Đài"

>>> T́m hiểu khái quát "Đạo Nhựt Thường Hành"    >>> Dạng E-book

 

Cơ duyên. Đầu xuân năm Mậu Dần (1938), sau khi đạo Cao Đài ra đời được đúng 12 năm, th́ các đấng trong Tam Giáo vâng chiếu Đức Cao Đài ban truyền Thánh Đức Chơn Kinh tại Ngũ Phụng Kỳ Sơn.([1]) Khi Thánh Đức Chơn Kinh hoàn thành được khoảng ba phần tư, một hôm bộ phận thông công tiếp được vé thi xưng danh sau đây (tr. 124):

chánh tu tâm dưỡng chí thanh,

Giáo khai Đại Đạo chọn nhơn lành.

Tông truyền nhứt bổn kỳ Tam hội,

Giáng dạy tu thân đạo nhựt hành.

Bốn chữ khoán thủ và câu 4 đọc là: “Lư Giáo Tông giáng dạy tu thân đạo nhựt hành”. Nói cách khác, Đức Giáo Tông ban cho môn sanh biết phương pháp thc hành tu thân hàng ngày; người tín đồ Cao Đài cứ noi y theo đó th́ có thể sống đo trn vn mt ngày đúng với chánh pháp Tam Kỳ Phổ Độ.

Theo Phật Giáo Nhị Kỳ Phổ Độ, Đức Thích Ca không tự ư thuyết pháp ban kinh. Mỗi bộ kinh ra đời đều có một vị thỉnh pháp.

Truyền thống này lại thấy trong Tam Kỳ Phổ Độ. Hôm ấy Đức Lư đang ở cung tiên và chạnh ḷng thương xót chúng sanh chịu nhồi quả do nghiệp báo buổi hạ nguơn mạt kiếp. Đức Lư than (tr. 125):

Nghĩ thảm bấy sanh linh nguơn hạ,

Xót xa thay nhơn quả nhập nhồi.

Pho kinh Thánh Đức chưa rồi,

Cầu xin Từ Phụ điểm hồi tâm nhơn.

Đức Lư vừa nghĩ tới đó th́ liền có chiếu của Đức Khương Thái Công do tiên đồng mang đến (tr. 125):

. . . Cạnh tranh nhơn quả thêm nhồi,

Đời tàn xáo lộn đời ôi có tường.

Than thế sự tang thương biến động,

Chưa hết sầu thấy bóng Thái Công,

Quỳ tâu mấy vị tiên đồng,

Rằng nay có chiếu Thái Công đến mời.

Đến mời Lăo xuống chốn Kỳ Sơn,

Dạy phép tu hành đặng cứu nhơn.

Mây tỏa trổi lần chơn giá hạc,

Xuống cơ gầy nhịp mấy dây đờn.

Nói xong về cơ duyên tả kinh, Đức Lư bảo ngay rằng: “Lăo giảng dạy về Đạo Nhựt Thường Hành.”

Trong vé thơ khoán thủ xưng danh khi mới giáng đàn, Đức Đại Tiên Trưởng cho biết “Lư Giáo Tông giáng dạy tu thân đạo nhựt hành”. Giờ đây, Ngài xác định phương pháp tu thân hàng ngày do Ngài ban trao chính là Đạo Nhựt Thường Hành (Đạo thực hành hàng ngày).

Sách Trung Dung có câu Đạo bất khả tu du ly dă... (Không được rời Đạo dù chỉ một khoảnh khắc nhỏ...). Nhưng phải làm sao để cho tâm ḿnh lúc nào cũng gắn liền với Đạo?

Thời hạ nguơn mạt kiếp, đạo đức suy đồi, con người đời sống càng văn minh th́ tâm địa càng tráo trở, gian trá theo chiều ngược lại. Quả thật, muốn Đạo bất khả tu du ly dă khó khăn vô vàn!

Nhưng khó khăn vô vàn không có nghĩa là phải bó tay. Cách nay 26 thế kỷ, giáo chủ đạo Tiên Nhị Kỳ Phổ Độ là Đức Lăo Tử từng bảo: Ngô ngôn thậm dị tri, thậm dị hành. (Lời ta dạy thật dễ hiểu, thật dễ làm theo.)

Sang Tam Kỳ Phổ Độ, đứng đầu Tam Trấn Oai Nghiêm và đại diện cho Tiên Giáo, Đức Lư Thái Bạch khi dạy Đạo Nhựt Thường Hành dùng những vần thơ lục bát, song thất lục bát nhuần nhụy Việt Nam rất dễ nhớ, dễ hiểu và dễ thực hành để cứu độ chúng sanh.

Tuy nhiên, khi dùng lời giản dị, dễ hiểu, dễ làm để dạy Đạo Nhựt Thường Hành th́ dường như Đức Lư e rằng tâm phàm vốn thích sự cầu kỳ lắt léo sẽ xem thường, coi nhẹ, bỏ lơ pho kinh. V́ thế, trước khi ban kinh, Ngài mở ḷng từ bi nhắc nhở rằng Đạo Nhựt Thường Hành chính là chơn truyền của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, rất mầu nhiệm và linh ứng:

“Vậy chơn truyền của Đại Đạo ngày nay đă ban xuống thế. Quư báu thay! Hữu căn hữu hạnh thay cho nhơn sanh nhuần gội [ơn phước]([2]) của Đức Cao Đài!

Từ đây nhơn sanh tu hành đă có phương pháp mà hành theo chơn đạo. Nếu chúng sanh mà cượng lư th́ bị đọa tam đồ bất năng thoát tục.

(…) C̣n kẻ biết tuân theo lời dạy mà làm theo Đạo Nhựt Thường Hành th́ được thần linh bảo giám, hộ mạng hằng ngày, chẳng bao lâu sẽ đặng phát minh mà rơ cơ mầu nhiệm.” (tr. 126)

Nghe được lời dặn ḍ tâm huyết này của Đức Lư Giáo Tông, trộm nghĩ người tín đồ Cao Đài cần nên suy nghĩ thêm về cơ duyên thỉnh kinh và ban kinh Đạo Nhựt Thường Hành.

Suy nghĩ về cơ duyên. Theo lời dạy của Đức Lư Giáo Tông, Ngài ban kinh Đạo Nhựt Thường Hành v́ có chiếu thỉnh của Đức Khương Thái Công.

Trong hằng hà sa số Phật Tiên, Thánh Thần pḥ giúp Đức Chí Tôn thời Tam Kỳ Phổ Độ, tại sao vị thỉnh kinh lại là Đức Thái Công và đấng ban kinh chính là Đức Lư Giáo Tông? Tại sao không phải các vị nào khác?

Trong hệ thống Ngũ Chi thờ trên Thiên Bàn đạo Cao Đài, theo hàng dọc ở giữa, thông suốt từ Trời (Thiên Nhăn) xuống tới người (tín đồ) th́ Đức Thái Công là giáo chủ Thần Đạo. Ngài ở vị trí thấp nhất như để làm trung gian cho con người (Nhân Đạo) và vị trí cao hơn là Thánh Đạo. C̣n Đức Lư Giáo Tông đại diện Tiên Đạo, ở vị trí trung gian cho Thánh Đạo và Phật Đạo.

Phải chăng Đức Thái Công thỉnh kinh Đạo Nhựt Thường Hành là tạo cơ hội, đem phương tiện giúp người phàm noi theo để tu tiến lên phẩm Thánh hay chí ít th́ cũng vào phẩm Thần?

Đạo Nhựt Thường Hành do Đức Lư Giáo Tông ban trao, phải chăng c̣n hàm ư kinh này sẽ mở đường tiến hóa cho người tu vượt lên tới phẩm Tiên, phẩm Phật mà hội hiệp cùng Trời là Đức Chí Tôn tại Bạch Ngọc Kinh?

Có thể suy nghĩ như vậy lắm bởi lẽ trước khi ban kinh Đạo Nhựt Thường Hành Đức Giáo Tông bày tỏ thánh ư của Ngài là (tr. 125):

Những mong tế độ nơi trần,

Noi đường chánh giáo mới gần Ngọc Kinh.

Tới đây không biết có ai trong ḷng băn khoăn, nghi ngờ? Lẽ nào chỉ với 28 bài lục bát, song thất lục bát, tổng cộng 350 câu quốc ngữ rất giản dị mà Đạo Nhựt Thường Hành lại có khả năng huyền nhiệm đủ đưa con người siêu phàm nhập thánh?

Trao đổi chuyện này ngoài xă hội, chắc thiên hạ dễ cười ngất. Cười v́ không tin. Không tin nên chẳng ai thèm học và hành theo Đạo Nhựt Thường Hành. Rốt cuộc chiếc thang siêu phàm thánh nhập thánh tuy Đức Lư Giáo Tông đă bắc sẵn nhưng chẳng ai thèm bước lên mà leo dần cho tới đỉnh thượng.

Nấc thang thứ nhất. Vào thế kỷ thứ VI, Thánh Augustine bảo: “Đức tin tức là tin cái ǵ ḿnh không thấy, và phần thưởng của đức tin là thấy được cái điều ḿnh tin.” (Faith is to believe what we do not see, and the reward of faith is to see what we believe.)

Vậy, kết quả mầu nhiệm của Đạo Nhựt Thường Hành sẽ chỉ hiện bày cho những ai có đức tin v́ họ sẽ thấy và thụ hưởng được những ǵ mà họ vững ḷng tin.

Nếu ví 28 bài kinh Đạo Nhựt Thường Hành như 28 nấc thang nối cơi phàm lên cơi trời th́ nấc thang đầu tiên mà Đức Lư Giáo Tông ban cho môn sanh chính là Đức Tin. Ngài dạy môn sanh phải tin, tin để dẹp ḷng kiêu ngạo, đủ hạnh khiêm tốn thực hành đúng lời lẽ đơn sơ, giản dị do Ngài chỉ giáo.

V́ thế, mở đầu Đạo Nhựt Thường Hành là bài Giới Đức Tin Kinh. Giới là cảnh báo, răn dạy để con người biết giữ ḿnh cho khỏi lầm lạc. Kết thúc bài kinh này, Đức Lư Giáo Tông dạy (tr. 127): Cần đc thường. Đi đứng, nằm ngồi đc đưc.”

Nếu một người học thuộc, nhớ nằm ḷng bài kinh này, th́ bất kỳ lúc nào trong ngày, bất kỳ đang ở nơi đâu, đều có thể đọc hay niệm thầm để tự nhắc ḿnh rằng (tr. 127):

Làm người phải học tánh Trời,

Phải tin Tạo Hóa, phải dồi đạo tâm.

Luân hồi quả báo cao thâm,

Có vay có trả cân cầm chẳng ly.

Nhờ mỗi ngày tự biết nhắc ḿnh biết sợ luật Trời, biết kiêng quả báo chắc chắn con người sẽ biết dằn tà tâm, không dám làm chuyện trái đạo nữa. Như thế đă thánh hóa ḷng ḿnh rồi.

Nấc thang thứ hai. Kinh sách gọi thế giới hai mặt này là nhị nguyên. Do nhị nguyên nên tuy chỉ có một con người mà lúc này tâm hiền đủ hạnh làm thánh, lúc khác tâm không được hiền thừa sức làm ma.

Khi đưa môn sanh bước lên nấc thang thứ hai, vừa mở bài Giới Tâm Kinh Đức Lư Giáo Tông liền dạy rằng tâm phàm mang tính hai mặt (tr. 128):

Chữ tâm sách giải chưa thông,

Nửa ngoài vật dục nửa trong cơ Trời.

Như vậy người tu phải biết trau dồi nửa phần hướng nội là phần Trời để không bị nửa phần hướng ngoại là phần vật dục sai khiến vào chỗ lầm lạc, thậm chí tù tội nơi địa ngục. Đức Giáo Tông dạy (tr. 128):

Để tâm xao lảng lờ lu,

Th́ tâm tạo ác diêm phù khó ra.

Giới tâm trước phải giới ta,

Đừng cho danh lợi hại mà bổn tâm.

Dục t́nh, ái ố, mưu thầm,

Sa mê danh lợi, tham dâm lụy trần.

Nấc thang thứ ba, thứ tư. Hàng ngày, người tín đồ Cao Đài cúng bốn thời thường đọc bài xưng tán Nho Giáo. Trong ấy có hai câu: Khai nhơn tâm tất bổn ư đốc thân chi hiếu; Thọ quốc mạch tất tiên ư trí chúa chi trung.([3]) Như vậy, mỗi ngày cúng thời người tu bốn lần tự nhắc nhở ḿnh phải lo tṛn hai chữ trung, hiếu.

Khi xưa, Đức Chí Tôn có lần dạy môn đệ rằng hăy xem tiểu sử các vị Phật Tiên, Thánh Thần sẽ thấy hồi c̣n sống ở thế gian chẳng một ai từng làm dân bất trung, con bất hiếu. V́ thế, trên chiếc thang dẫn môn sanh về cơi thượng, trong Đạo Nhựt Thường Hành, hai đức cơ bản của con người là Trung, Hiếu đă được Đức Giáo Tông đặt ở nấc thang thứ ba (Khuyến Ái Quốc Gia Kinh) và thứ tư (Khuyến Hiếu Phụ Mẫu Kinh). Khuyến là khuyên bảo, khích lệ cho con người gắng sức hơn lên.

Những nấc thang kế tiếp. Giáo chủ Cao Đài là Cao Đài Tiên Ông, thế nên tu Cao Đài là tu Tiên, và Đức Giáo Tông vô vi của Cao Đài chính là Đại Tiên Trưởng Lư Thái Bạch. Cao Đài là đạo Tiên nhưng dụng công cứu đời th́ chủ trương Nho Tông Chuyển Thế. Trước khi lấy Nho Tông chuyển thế người tu phải lấy Nho Tông chuyển hóa bản thân. Dù chuyển thân hay chuyển thế th́ căn bản Nho Tông nằm trong bốn chữ Tam Cương Ngũ Thường.

Trong Đạo Nhựt Thường Hành Đức Giáo Tông dạy thực hành Ngũ Thường (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín) qua năm bài: Giới Nhơn Kinh (bài 12); Giới Nghĩa Kinh (13); Giới Lễ Kinh (14); Khuyến Trí Kinh (8); Giới Tín Kinh (9). Ngài dạy thực hành Tam Cương qua ba bài: Khuyến Ái Quốc Gia Kinh (bài 3); Khuyến Hiếu Phụ Mẫu Kinh (4); Giới Phu Thê Kinh (15).

Trong đời sống hàng ngày của môn sanh, mối quan hệ bản thân với gia đ́nh, xă hội và quốc gia không chỉ hạn hẹp ở Tam Cương. Để giúp môn sanh hoàn thiện hóa bản thân, Đức Giáo Tông bổ sung thêm quan h thầy tṛ, quyến thuc, bn bè qua ba bài: Khuyến Kỉnh Sư Phụ Kinh (bài 5); Khuyến Kỉnh Công Cô Kinh (6); Khuyến Bằng Hữu Kinh (7).

Trên đây là phương pháp sống đạo về mặt vĩ mô. Qua Đạo Nhựt Thường Hành, Đức Lư chuẩn bị cho môn sanh chu đáo tất cả khía cạnh cần thiết để thực hành một ngày sống đạo đúng theo chơn truyền Cao Đài. Chưa hết, Đức Giáo Tông c̣n dạy cách sống đạo một ngày trong đời thường về mặt vi mô, bằng cách thực hành phương pháp rèn luyện bản thân (luyện kỷ).

Luyện kỷ gồm tám bài: Giới Thân Kinh (bài 10); Giới Ư Kinh (11); Giới Sân Kinh (16); Giới Si Kinh (17); Giới Ái Kinh (18); Giới Ố Kinh (19); Giới Kiên Nhẫn Kinh (20); Giới Buồn Rầu Nhân Quả Kinh (21).

Thử lấy một thí dụ là rèn luyện thân xác. Thân xác con người thường thích sướng hơn khổ, thích làm biếng, hưởng thụ hơn siêng năng, nhọc nhằn. Do đó, mở đầu Giới Thân Kinh, Đức Giáo Tông phê ngay (tr. 132):

Thân phàm biếng nhác lừ đừ,

Nhiều khi dă dượi chẳng từ ngủ ăn.

V́ thân công đức trở ngăn,

Mất điều lễ nghĩa hữu bằng tín trung.

Để trị cái thân làm biếng, Đức Giáo Tông dạy (tr. 132):

Từ đây con nguyện thủy chung,

Lấy tâm làm chủ chẳng tùng theo thân.

Uống ăn, đi đứng có chừng,

Giữ ǵn thể tháo dưỡng thân tu hành.

Một thí dụ khác là rèn luyện t́nh cảm. Người sống đạo phải biết sống vui, thế nhưng tránh sao khỏi những lúc buồn phiền, rầu rĩ do hoàn cảnh đưa đến. Giúp môn sanh giải quyết nỗi niềm này, Đức Giáo Tông ban cho bài Giới Buồn Rầu Nhân Quả Kinh. Ngài dạy rằng trước đây môn sanh đă trót tạo cái nhân buồn rầu do đó hôm nay phải lănh cái quả buồn rầu. Thế th́ thay v́ ngồi than thở, hăy can đảm chấp nhận sự báo ứng, và lập tức lo làm việc phước đức để vừa không rảnh rang nhớ tới nỗi buồn, vừa tích chứa nhiều phước đức ngơ hầu trả dần nợ cũ (tr. 137):

Xét ra muôn sự trần ai,

Đều do tiền kiếp trả vay rơ ràng.

Biết rồi con chẳng buồn than,

Dầu khi tai họa khốn nàn cũng cam.

Dốc ḷng làm chủ tánh phàm,

Nợ xưa xin trả, phước đam [đem] thi hành.

Sống đạo là chủ động ngăn ngừa quả báo xấu. Biết can đảm chấp nhận đau khổ, muộn phiền để sống vui mà lo trả nợ cũ – đó mới là một mặt của sống đạo. Người sống đạo c̣n biết chủ động ngăn ngừa nhân xấu mới để không lănh quả xấu mới. Ngăn ngừa cách nào?

Ngày xưa có người hỏi Đức Khổng Tử rằng tinh hoa của Kinh Thi là ǵ. Đức Vạn Thế Sư Biểu tóm gọn trong ba chữ: Tư vô tà. (Đừng nghĩ bậy.)

Tư tưởng con người có sức mạnh. Khi anh A nghĩ quấy, luồng tư tưởng xấu của anh làm ô nhiễm môi trường chung quanh và tích lại trên không trung (trung giới). Bấy giờ sẽ có ít nhất ba hậu quả:

(1) Nếu tư tưởng xấu của anh A gặp một tư tưởng xấu tương tợ th́ nó được tiếp sức và trở nên mănh liệt hơn, rồi nó phản hồi lại anh A, và xúi giục anh A làm quấy bằng hành vi. Anh A trực tiếp tạo nghiệp.

(2) Tư tưởng xấu của anh A tiếp tục lởn vởn trong không trung. Thế rồi anh B lại có đồng tư tưởng xấu như thế, tư tưởng xấu của anh A tác động anh B làm ra hành vi xấu. Anh A gián tiếp tạo nghiệp, nhưng cả hai anh A và B đều chịu quả xấu.

(3) Càng đông người có tư tưởng xấu giống nhau, chúng tụ lại trên không trung rồi phản hồi cho rất đông người khác làm ác, như thế nghiệp xấu không chỉ giới hạn ở một, hai người mà lan rộng ra thành cộng nghiệp và hậu quả là một vùng, một địa phương sẽ phải chịu chung khổ nạn. Do đó, thời nay Trời Phật dạy môn sanh Cao Đài tọa thiền tập thể, rồi dùng tư tưởng lành của ḿnh xông lên không trung để xóa bớt dần hắc khí do tư tưởng xấu thế gian tạo ra ngơ hầu giảm bớt thiên tai, loạn lạc trên khắp thế giới.

Trở lại với Đạo Nhựt Thường Hành, để dẫn dắt môn sanh sống đạo, Đức Giáo Tông dạy luôn hai bài ngăn ngừa nghiệp ư, nghiệp tư tưởng. Bài Giới Ư Kinh nói rơ (tr. 132):

Ư là ác nghiệt mọi điều,

Trong đời vạn sự, ư nhiều tội hơn.

. . . Những điều sâu hiểm ghét thương,

Đều do ư ác tạo đường nghiệt căn.

Bài Giới Tư Tưởng Kinh xác định tư tưởng xấu không tan ră, nó tụ lại trên không trung (trung giái) để chờ cơ hội tác hại (tr. 138):

Trên trung giái đủ h́nh tư tưởng,

Dưới phàm gian hay vướng kế tà.

Cũng v́ tư tưởng xấu xa,

Gây nên tội lỗi khó qua lưới Trời.

Nắm rơ nguyên tắc vận hành của tư tưởng rồi, người sống đạo Cao Đài hăy chuyển hóa tư tưởng bằng cách tập nghĩ lành, nghĩ tốt. Đức Giáo Tông dạy (tr. 138):

Biết đạo đức, đổi dời lư tưởng,([4])

Trọng tinh thần bổ dưỡng linh quang.

Tưởng lành, tưởng phải, tưởng nhàn,([5])

Cơ Trời máy Tạo mở đàng giao thông.

Tư tưởng rửa sạch trong bợn tục,

Mới dưỡng tâm diệt dục tầm Tiên.

Nếu con c̣n tưởng lợi quyền,

Th́ con khó đặng quy nguyên cùng Thầy.

Sống đạo trong từng sinh hoạt nhỏ nhặt đời thường. Đạo Nhựt Thường Hành c̣n chỉ cặn kẽ cho môn sanh tỉ mỉ từng sinh hoạt nhỏ trong đời thường.

Chẳng hạn, hết một ngày ai cũng cần đi ngủ. Nhưng giấc ngủ người tu phải khác hơn giấc ngủ người chưa biết tu. Trong bài Kinh Cầu Khi Đi Ngủ, Đức Giáo Tông dạy môn sanh khi đặt lưng xuống giường phải kiểm điểm việc làm trong ngày của bản thân và phải biết cầu nguyện đưa hồn lên học đạo trong cơi trung giới (tr. 138-139):

Đêm ngồi suy nghĩ việc ḿnh,

Những điều lầm lỗi giữ ǵn ngày mai.

Nghĩa nhân, hiền đức dồi mài,

Hiếu trung nghĩa vụ dám sai tấc thành.

May làm đặng những điều lành,

Vui ḷng Từ Phụ, phước dành ngày sau.

Rủi thay làm ác hiểm sâu,

Ăn năn tội lỗi khẩn cầu sửa tâm.

Xác phàm yên nghỉ canh thâm,

Hồn lên trung giái học tầm huyền vi.

Cầu xin Thượng Phụ từ bi,

Dạy cho hồn trẻ thông tri đạo mầu.

Đến sáng thức dậy, môn sanh hăy khởi đầu một ngày bằng tư tưởng tốt lành, hứa nguyện với Ơn Trên sẽ sống một ngày có ích cho đời. Kinh Thức Giấc dạy (tr. 139):

Một đêm xác tục nghỉ yên,

Rồi đây đến sáng tinh chuyên việc đời.

Dầu cho hoàn cảnh đổi dời,

Con nguyền giữ lấy luật Trời chẳng sai.

Làm lành, giúp khó, trợ tai,

Thương nhân mến vật, trọn ngày phận tôi.([6])

Trái oan nguyện trả cho rồi,

Làm lành tích phước vun bồi đức ân.

Kế đến là chuyện ăn cơm hàng ngày. Người sống đạo chẳng những biết ăn chay lại c̣n biết cầu nguyện tạ ơn Trời Phật, Thánh Thần giúp ḿnh có được bữa cơm tinh khiết nuôi dưỡng thân xác lành mạnh để làm phương tiện tu hành. Kinh Cầu Khi Ăn Cơm dạy (tr. 141):

Công Thổ Địa dưỡng sanh thảo mộc,

Ơn Thần Nông ngũ cốc chưởng trồng.

Nuôi người thân mạnh, khỏe ḷng,

Khi ăn xưng tụng đức công Cao Đài.

Cuộc sống đ̣i hỏi ai cũng phải di chuyển. Mỗi lúc bước chân ra khỏi nhà, người sống đạo lại tâm niệm rằng ḿnh đang đi đến những nơi không trái với đạo lư. Khi ấy với cơi ḷng thanh thản, môn sanh thầm cầu nguyện Ơn Trên bảo hộ mạng sống để c̣n có thân xác an lành dùng vào việc tu tập. Kinh Cầu Khi Xuất Hành dạy (tr. 141):

Trong ṿng luân chuyển trần gian,

Lại qua lui tới dinh hoàn chuyển luân.

Nay con [ . . . ]([7]) dời chân,

Cầu xin Thượng Phụ, Thánh Thần cảm thương.

Những điều tai nạn khỏi vương,

Thần linh pḥ hộ bước đường b́nh an.

Trong lúc di chuyển, tránh sao khỏi ngộ sát làm thiệt mạng vài chúng sanh nhỏ nhít, thế nên hăy biết sám hối mỗi khi xuất hành (tr. 141):

Đi về đều đặng vững vàng,

Côn trùng thảo mộc vô can phạm nhằm,

Bạch Thầy con thiệt vô tâm,

Cầu xin Thượng Phụ ân thâm độ cùng.

Tĩnh tâm. Sinh hoạt hằng ngày là một chuỗi xáo động. Người sống đạo cần biết thu xếp cho ḿnh những giờ khắc tĩnh tâm để giao cảm, liên thông với Trời Phật. Môn sanh Cao Đài do đó cần thọ pháp để tập làm quen với phương pháp ngồi thiền. Và muốn tọa thiền cho hiệu quả th́ phải răn ḷng đừng gây nên tội lỗi. Kinh Cầu Khi Tham Thiền dạy (tr. 140):

Tham thiền hồn hiệp hư không,

Hầu khi xuất vía non bồng lần lên.

T́m ra lư chánh luật Thiên,

Không làm tội lỗi tham thiền phát minh.

Ngồi yên cửu khiếu trong ḿnh,

Mở mang thấu đáo thông linh cơ mầu.

Chứng nghiệm. Đạo Nhựt Thường Hành ví như bản chương tŕnh hoạch định tỉ mỉ cho từng tư tưởng, hành vi, miếng ăn, giấc ngủ, quan hệ giao tế, v.v… của người tín đồ trong cuộc sống đời thường. Những môn sanh Cao Đài biết kiên nhẫn thực hành đúng theo lời dạy của Đức Lư Giáo Tông chính là người thực hành sống đạo. Khi ấy, giữa cuộc đời thường, mỗi người sẽ chứng nghiệm được lời Đức Giáo Tông dạy cặn kẽ rằng: “C̣n kẻ biết tuân theo lời dạy mà làm theo Đạo Nhựt Thường Hành th́ được thần linh bảo giám, hộ mạng hằng ngày, chẳng bao lâu sẽ đặng phát minh mà rơ cơ mầu nhiệm.”

Lê Anh Dũng


[1] Thánh Đức Chơn Kinh. Quyển thứ Ba. Sài G̣n: ấn quán Công Lư, 1965, 188 trang. (Theo hiền hữu Hà Văn Phủ, hiện nay Ngũ Phụng Kỳ Sơn thuộc xă Ninh Sơn, huyện Ḥa Thành, tỉnh Tây Ninh, nằm trong đất của ông Lê Văn Sở là tín đồ Cao Đài Tây Ninh. Đây là cái động nhỏ (rộng khoảng 2 mét, sâu khoảng 3 mét) nằm trên đỉnh núi Heo, phía sau núi Bà, trông qua núi Phụng. Trước khi lên tới động, phía dưới có khối đá lớn, trên viết sáu chữ bằng sơn: Kỳ Sơn Động, Ngũ Phụng Cung.)

[2] Có lẽ bản kinh in sót chữ. Mạn phép tạm bổ sung là ơn phước.

[3] Đốc thân chi hiếu: hết ḷng hiếu thảo với cha mẹ; trí chúa chi trung: hết ḷng trung thành với đất nước.

[4] Lư tưởng: Suy nghĩ theo sự lư mà thành cái tư tưởng hư không. . . (Đào Duy Anh, Hán-Việt Từ Điển. Sài G̣n: 1957, tr. 501.)

[5] Tưởng nhàn: Không nghĩ tới những việc bận rộn, bon chen thế tục nữa, và hướng ḷng về sự tĩnh lặng để t́m sự thanh thản tâm hồn.

[6] Phận tôi: Phận tôi tớ. Ngụ ư công việc giúp đời dẫu lao khổ hay hèn mọn cũng không sờn, không quản ngại.

[7] Tùy trường hợp cụ thể mà t́m hai chữ điền vào cho đủ. Thí dụ, bắt đầu từ Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lư cất bước ra đi, th́ có thể đọc là: Nay con quận Một dời chân.

 

Cùng một tác giả Lê Anh Dũng

Đôi ḍng sơ lược về tác giả Lê Anh Dũng