Trở lại trang chánh của Website Thiên Lư Bửu Ṭa
|
LÊ
ANH DŨNG 1. Bát quái và Bát
quái đài Bát
quái là tám quẻ, mỗi quẻ là một kư hiệu (phù
hiệu) gồm ba vạch (hào), chồng lên nhau, hoặc toàn
vạch đứt (hào âm – –) như quẻ Khôn,
hoặc toàn vạch liền (hào dương ––) như
quẻ Càn, hoặc kết hợp cả vạch đứt
và vạch liền (sáu quẻ Chấn, Tốn,
Khảm, Ly, Cấn, Đoài). Để dễ nhớ kư
hiệu tám quẻ người xưa bày ra khẩu
quyết: Càn tam liên; Khôn
lục đoạn; Chấn ngưỡng vu; Cấn phúc
uyển; Khảm trung măn; Ly trung hư; Đoài thượng
khuyết; Tốn hạ đoạn, nghĩa là: Càn ba
liền; Khôn sáu khúc; Chấn chén ngửa; Cấn chén úp;
Khảm bụng đầy; Ly ruột rỗng; Đoài
hở trên; Tốn đứt dưới. Tám
quẻ tượng trưng cho tám yếu tố trong thiên
nhiên (Càn: trời; Khôn: đất; Chấn: sấm;
Cấn: núi; Tốn: gió; Khảm: nước; Ly: lửa;
Đoài: đầm nước), và mỗi quẻ c̣n mang
thêm nhiều ư nghĩa tượng trưng riêng liên quan người,
vật, v.v... Chẳng hạn: Càn: cương kiện; Khôn:
nhu thuận; Chấn: động; Cấn: tĩnh; Tốn:
nhập vào; Khảm: sa xuống; Ly: sáng sủa; Đoài:
vui vẻ... Ư
nghĩa tượng trưng của mỗi kư hiệu
(quẻ) trong bát quái có thể mở rộng phù hợp
với ư nghĩa căn bản của biểu tượng.
Như quẻ Càn, từ cái nghĩa là trời, cương
kiện lại được mở rộng thành: vua, cha,
rồng, ngựa, vàng, ngọc, v.v... V́ thế, tám quẻ
mở rộng ra đến cùng cực th́ có thể bao quát
các hiện tượng, trạng thái của vũ trụ
vạn vật; mà vũ trụ vạn vật gom tóm
lại th́ có thể quy về bát quái. Do đó, Nhân
Tử Nguyễn Văn Thọ phát biểu: “Bát
quái có thể dùng tượng trưng cho muôn vật...”
(Dịch kinh đại toàn. California: tác giả xb., 1997,
Tập III. tr. 579.) Ư
nghĩa này của bát quái trong mối tương quan
giữa bát quái và vũ trụ vạn vật đă lư
giải v́ sao khi xây dựng Đền thánh Cao Đài
(1931-1955) tại xă Long Thành Bắc, huyện Ḥa Thành,
thị xă Tây Ninh ngày nay, th́ phần kiến trúc mệnh
danh Bát quái đài chính là nơi tín đồ Cao Đài
thờ Thượng đế theo nghĩa thờ đấng
Tạo hóa đă tạo lập vũ trụ càn khôn. Ngay
khi mới mở đạo Cao Đài, ngày 24-10-1926 thánh giáo
của Cao Đài Tiên ông cũng giảng về mối tương
quan giữa bát quái và vũ trụ như sau: “Nên
Thầy khai bát quái mà tác thành càn khôn thế giái...”
(Thánh ngôn hiệp tuyển.
Bổn thứ nhứt. Sài G̣n: Nhà in Tam Thanh, 1928, tr. 42.) Ở phía bắc huyện Hoài
Dương, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc, có một nơi
gọi là Bát quái đài hay
Bát quái đàn, mà theo
truyền thuyết đấy là nơi Phục Hy bắt
đầu vạch ra bát quái. Nhưng Bát quái đài
của Cao Đài có ư nghĩa khác hẳn. Bát quái đài ở Đền
thánh (có tám cột rồng vàng ở tám góc của bát quái)
là nơi thờ đức Ngọc Hoàng Thượng đế
(Cao Đài Tiên ông) và chư thần thánh, tiên phật. Bát
quái đài gồm mười hai bậc (mỗi bậc cao
10cm, có tám cạnh) bằng đá mài màu vàng xây chồng
lên nhau, nhỏ dần từ dưới lên trên. Bậc chót
hết đặt trên nền cao hơn mặt đất
2,4 mét (bội số của 12), như vậy bậc trên cùng
cách mặt đất 3,6 mét (bội số của 12). Mười hai bậc của
Bát quái đài tượng trưng cho mười hai
tầng trời, gồm có cửu trùng thiên (chín tầng:
tầng 1, tầng 2, Thanh thiên, Huỳnh thiên, Xích thiên, Kim
thiên, Hạo nhiên thiên, Phi tưởng thiên, Tạo hóa thiên)
cộng thêm ba tầng nữa: Hư vô thiên, Hội nguơn
thiên, Hỗn nguơn thiên. Theo
giáo lư Cao Đài, Thượng đế là Đấng
thập nhị khai thiên (lập ra mười hai tầng
trời), số 12 là số riêng của Trời. Cho nên khi
lạy Trời th́ 3 lạy, mỗi lần lạy gật
đầu 4 cái, tương đương 12 lạy. Thánh
giáo Cao Đài: “Thập nhị khai thiên là Thầy, chúa cả càn khôn
thế giới (...). Số mười
hai là số riêng của Thầy.” (Thánh
ngôn hiệp tuyển. Bổn thứ nhứt. Sài G̣n: nhà
in Tam Thanh, 1928, tr. 12.) 2. Bát quái theo
truyền thống kinh Dịch Theo
truyền thuyết, Phục Hy tạo ra bát quái tiên thiên, các
quẻ theo thứ tự: Càn,
Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn. Văn Vương
tạo ra bát quái hậu thiên, các quẻ theo thứ
tự: Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài, Kiền, Khảm,
Cấn. Trong bài Kinh Dịch
với thiền Cao Đài trên tạp chí Thông
tin khoa học và công
nghệ, số 3 (25).1999, phần nào ư nghĩa của
hai bát quái này đối với hành giả đă
được tŕnh bày khái quát. (Hoặc xem Lê Anh Dũng,
Giải mă truyện Tây du.
Nxb Trẻ, 2000, tr. 53, 56 (bài Ngọn gió trong ḷ). 3. Bát quái dân
gian Trong
dân gian, thầy bói có khi dùng loại bát quái này. Nó
gồm tám quẻ xếp đặt như sau (kể theo
chiều kim đồng hồ): Càn, Cấn, Khảm,
Chấn, Khôn, Đoài, Ly, Tốn. Nghiên cứu kinh Dịch,
John Blofeld ngờ rằng có thể do các thầy bói không
nắm chắc về bát quái nên sắp đặt sai
vị trí, hoặc là có một nguyên do hợp lư nào khác
nhưng ta chưa hiểu rơ. (John Blofeld, I
ching (the Book of Change). New York: E.P. Dutton & Co. Inc., 1965, p.
218.) Bát
quái dân gian c̣n thường dùng trong phong thủy, nhằm
thay đổi hướng “tà khí”, chuyển vận
xấu thành vận tốt cho người chủ những
ngôi nhà chẳng may tọa lạc ở những vị
thế mà thuật phong thủy cho là bất lợi. Người
ta thường treo bát quái trừ tà ở truớc nhà, trước
cửa, trên khung cửa, nhằm che chắn hay “hóa
giải” những hướng xấu (tà khí) từ bên
ngoài đi vào nhà. Chẳng hạn, chủ nhà thường
treo bát quái trong các trường hợp như sau: –
cửa chính nhà ḿnh trực diện cửa chính nhà khác; [Trường
hợp này, nếu một nhà đă treo bát quái th́ nhà
đối diện thường cũng phải treo bát quái
để ngăn chặn “tà khí” do nhà hàng xóm tống
khứ vào nhà ḿnh (!).] –
đ̣n dông (đầu hồi) mái nhà khác hoặc kèo
quyết của nhà khác chỉa thẳng vào nhà ḿnh; [Kèo
quyết là hai cây kèo tại góc chịu cả hai mái chái
giáp nhau. Nhiều đền, chùa, miếu... v́ thế thường
tạo dáng cho nơi hai mái chái giáp nhau cong quớt lên
trời, để tránh gây ảnh hưởng xấu cho
nhà khác.] –
góc tường nhà người khác (h́nh chữ L) như mũi
nhọn chỉa vào nhà ḿnh; –
hàng rào nhà người khác tạo h́nh những mũi tên
nhọn chỉa vào nhà ḿnh; –
một con đường, một cầu thang chạy
thẳng vào cửa chính nhà ḿnh; –
trước nhà ḿnh có một chướng ngại vật
án ngữ (cột đèn, cột điện thoại, vách
tường hậu nhà trước mặt, nghĩa địa,
miệng cống, toa-lét, v.v...); –
nhà ḿnh xoay về hướng tây-nam (phong thủy cho là hướng
của... quỷ!), v.v... (Xem
Albert Low, Practical feng shui for the
home. Selangor Darul Ehsan: Pelanduk Publications, 1998, pp. 12, 28, 54,
106, 440, và rải rác trong sách.) 4. Bát quái Cao
Đài
Bát
quái đài của Đền thánh Cao Đài Tây Ninh có
một đặc điểm khác hẳn các thuyết
Dịch lư truyền thống. Như trên đă nói, Bát quái
đài gồm mười hai bậc; ở bậc thứ mười
hai cẩn tám quẻ bát quái, nhưng không theo thứ
tự tiên thiên của Phục Hy (Càn, Đoài, Ly, Chấn,
Tốn, Khảm, Cấn, Khôn), mà cũng không theo thứ
tự hậu thiên của Văn Vương (theo chiều
kim đồng hồ: Càn, Khảm, Cấn, Chấn,
Tốn, Ly, Khôn, Đoài). Bát quái Cao Đài ở Đền
thánh đổi chiều xoay Bát quái hậu thiên, tám
quẻ được đặt ngược chiều kim
đồng hồ tức là cùng chiều với chiều
quay của trái đất quanh mặt trời. Như
vậy, chỉ có hai quẻ Chấn (hướng đông)
và Đoài (hướng tây) giữ nguyên vị trí, sáu
quẻ c̣n lại đều đổi chỗ (ở đây,
h́nh minh họa Bát quái hậu thiên đă không đặt Nam
trên và Bắc dưới theo truyền thống kinh
Dịch Trung Hoa, để dễ đối chiếu
với Bát quái Cao Đài). Tại sao Cao Đài đổi
chiều Bát quái hậu thiên như vậy? Theo sử quan
Cao Đài, lịch sử văn minh, tư tưởng
triết giáo của nhân loại trải qua ba thời
kỳ (xem thêm Lê Anh Dũng, Lịch
sử đạo Cao Đài thời kỳ tiềm ẩn
1920-1926. Huế: Nxb Thuận Hóa, 1996, tr. 15-22): - Nhất kỳ và Nhị
kỳ Phổ độ là chiều văng, chiều đi ra; - Tam kỳ Phổ độ
là chiều lai, chiều đi vào. Con đường của
đạo Cao Đài (cũng gọi Đại đạo
Tam kỳ Phổ độ) là con đường phản
phục hay quy nguyên phản
bản. Nói cách khác: Bát quái hậu thiên của Văn vương
là chiều văng (nhất tán vạn, của Nhất và
Nhị kỳ Phổ độ); c̣n Bát quái Cao Đài là
chiều lai (vạn quy nhất) của Tam kỳ Phổ
độ. Trong
kiến trúc Đền thánh Tây Ninh, Bát quái đài nằm
về hướng đông. Khi đặt ngôi thờ Thượng
đế (cũng là Thái cực Thánh hoàng, Đấng sáng
tạo vũ trụ) ở hướng đông th́ tương
ứng với cung Chấn của Bát quái đài. Chấn là
sấm động, là tiếng nổ. Theo giáo lư Cao Đài,
vũ trụ được tạo thành từ một
tiếng nổ. Thực vậy, dường như đă có
phần nào tương đồng với lư thuyết
“big-bang” khi thánh giáo Cao Đài ngày 23-9 Bính Tư (06-11-1936)
giảng về sự tạo lập vũ trụ như
sau: “... nổ tung ra
một tiếng vang lừng dữ dội phi thường,
làm cho rúng động cả không gian ... Vũ trụ
từ đây mới bắt đầu có ngôi Thái cực
trọn lành trọn tốt, toàn tri toàn năng, thiên
biến vạn hóa, vô tận vô cùng, nắm trọn
quyền hành, thống chưởng cả càn khôn vũ
trụ ... hóa sanh muôn loài vạn vật.” (Đại
thừa chơn giáo. Sài G̣n: Cao Đài Chiếu Minh xb.,
1950, tr. 410.) Ÿ Là
một tôn giáo bản địa, đạo Cao Đài
quả thực đă có những nét rất riêng khi “nói
khác” truyền thống cũ của triết giáo phương
Đông, mà Bát quái Cao Đài là một trường
hợp điển h́nh, nhưng không phải là duy
nhất. Điều ấy cho thấy Cao Đài là một
cái tên thoạt nghe tưởng quen, nhưng hóa ra lại
rất lạ, mà hành tŕnh t́m kiếm bản sắc Cao
Đài vẫn c̣n là một mảnh đất mới cho
nhiều nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam. (26-11-2002) LÊ
ANH DŨNG · Đôi ḍng sơ lược về tác giả Lê Anh Dũng |
Thiên-Lư Bửu-Ṭa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674 Website: www.thienlybuutoa.org Email Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT
|