Trở lại trang chánh của Website Thiên Lư Bửu Ṭa

 

KINH
Thiện ác nhân quả 

         Thích Trung Quán dịch   
          

                                                                                                           

 Khi nói đến nhân quả nghiệp báo th́ không ít người trề môi cười nhạt, họ quan niệm những điều đó như là chuyện cổ tích, luân lư khuyên người, chớ chẳng thực tế, không dính dáng ǵ với đời sống văn minh tiến bộ ngày nay. Đâu biết rằng khắp cả cuộc sống nhân gian, ngay chính bản thân đời sống của họ, cũng như mọi người không thoát ngoài nhân quả. Đến cả khoa học phát minh ngày nay cũng được xây dựng từ nhân quả. B́nh tâm suy nghĩ chín chắn, ta thấy thành quả của khoa học khởi đi từ nhân quả thực nghiệm. Sự thăng trầm của kiếp sống chúng sanh nhân loại liên quan mật thiết với nhân quả thiện ác.

            Chúng ta thử lắng động tâm tư nghĩ kỹ về đời sống con người cho đến sự h́nh thành hành hoạt của vạn vật có ǵ vượt ngoài luật nhân quả đâu? Từ đứa bé chăn trâu, người nông phu cày sâu cuốc bẫm, kẻ buôn bán cho đến vị thẫm phán nắm luật thế gian cũng không thể vượt ngoài nhân quả thiện ác nghiệp báo. Chẳng khác nào nhân loại vạn vật không thể thoát ra ngoài không gian mà sinh hoạt, vượt ra ngoài lớp không khí mà sanh tồn. Giống như thế đó, nhân quả thiện ác nghiệp báo tuy vô h́nh vô tướng, nhưng trùm khắp chi phối toàn diện tất cả mọi sinh hoạt thịnh suy thăng trầm vinh nhục hạnh phúc khổ đau của muôn loài. Dù đó là thánh nhân, là trời, là thần linh, Thượng đế (nếu có thật) cũng không thể thoát ngoài luật nhân quả thiện ác nghiệp báo chi phối. Có hạng người hoặc nông nổi tự hào, hoặc cuồng tín Thượng đế, hoặc si mê chủ thuyết vô thần chẳng tin nhân quả, từ đó tạo ra vô vàn tội ác khổ đau cho ḿnh và người, gây cho đời nhiều cảnh huống thảm khốc, để rồi đời đời chuốc lấy sự nguyền rủa oán hờn, tiếp theo bị luật nhân quả nghiệp báo mà phải rơi vào cảnh khổ, thọ lấy đời sống tối tăm.
Thế gian lắm cảnh sai biệt giàu nghèo, tốt xấu, vinh nhục, thịnh suy tất cả đều do nhân quả chi phối.Tạo nhân nào nhất định chịu quả đó, không sai sót. Cổ đức nói: “Thiên vơng khôi khôi sơ nhi bất lậu”. Nghĩa là lưới trời lồng lộng, sợi lông xíu cũng không xót lọt. Thế nên, người tin sâu nhân quả là người tỉnh thức biết sống tiến bộ hướng lên quang lộ thánh diện, biết nh́n rơ sự thật, biết nhận lấy trách nhiệm của ḿnh.

            Muốn rơ nhân quả thiện ác nghiệp báo như thế nào, xin mời quí vị dù là Phật tử, dù là tin Phật hay không tin Phật, thử lần lượt lật từng trang kinh với cơi ḷng vô tư tĩnh lặng từ từ đọc kỹ, hy vọng giúp cho quí vị nh́n rơ hành hoạt và thân phận của muôn loà́ chúng sanh, rồi lắng ḷng suy gẫm, để từ đó xây dựng chánh kiến hướng về nẻo thiện sống hiền ḥa sáng sủa hơn, ngơ hầu phản tỉnh quán chiếu để tự cứu ḿnh thăng hoa thánh thiện trong ánh sáng giác ngộ, rồi ra c̣n có cơ giúp độ gia đ́nh, quyến thuộc bằng hữu và đồng thời đem lại an lạc cho chúng sanh.

            Nhân quả thiện ác nghiệp báo không phải dành riêng cho người tu theo đạo Phật mà cho khắp tất cả những ai muốn có        được đời sống hạnh phúc tiến bộ, tránh khỏi trầm luân khổ lụy đọa đày. Nhân quả là một sự thật, là định luật muôn đời, chi phối khắp cả trời người chúng sanh muôn loại, được tuệ giác đạt đạo của đức Thích-Ca-Mâu-Ni thấu suốt chơn lư vũ trụ vạn hữu nói ra một cách rành rẽ, để cho muôn loại chúng sanh hiểu rơ, ngơ hầu tự giác tránh gây nhân ác để hưởng quả lành, thăng hoa đời ḿnh trong ánh sáng hiền lương thánh thiện, tiến lên đời sống giác ngộ giải thoát của chư Phật Thánh Hiền.

            Để kết thiện duyên Bồ Đề cho những ai có tâm ư hướng thiện, có chí nguyện tiến lên quả vị giác ngộ giải thoát ṿng luân hồi sanh tử, nay Phật-học-viện quốc tế phát nguyện in quyển kinh Thiện Ác Nhân Quả này, với sự phát tâm hiến cúng tịnh tài của quư vị Phật tử gần xa để cho ai nấy thấy rơ thân phận nghiệp báo của mỗi chúng sanh.

            Xin thành tâm hồi hướng công đức đến dịch giả và tán thán công đức quí Phật tử đă phát tâm hiến cúng tịnh tài làm trợ duyên cho kinh này tái bản. Tôi thành tâm tùy hỷ công đức và khắp nguyện pháp giới chúng sanh đều được an lành lợi lạc với tâm thức tỏ ngộ khi đọc kinh này.

                                                            Hoa Kỳ, mùa Phật-Đản 2540-1996.

                                                                       

                                                                  THÍCH ĐỨC NIỆM.

           

Niệm hương

 (Cầm ba cây hương quỳ trước bàn thờ Phật niệm hương)

 

Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo Chứng Minh (3lần)

Nguyện thử diệu hương vân,

Biến măn thập phương giới,

Cúng dường nhứt thiết Phật,

Tôn pháp chư Bồ Tát,

Vô biên Thanh Văn chúng,

Cập nhứt thiết thánh hiền,

Duyên khởi quang minh đài,

Xứng tánh tác Phật sự,

Phổ huân chư chúng sanh,

Giai phát Bồ Đề tâm,

Viễn ly chư vọng nghiệp,

Viên thành vô lượng đạo.

Nam-Mô-Hương-Cúng-Dường-Bồ-Tát (3lần)

 

Tán Phật

(Đứng dây chắp tay ngang ngực, nh́n Phật thành kính tụng)

Pháp-vương vô thượng tôn,

Tam giới vô luân thất,

Thiên nhơn chi đạo sư,

Tứ sanh chi từ phụ,

Ư nhứt niệm quy y,

Năng diệt tam kỳ nghiệp,

Xưng dương nhược tán thán,

Ức kiếp mạc năng tận.

 

Quán tưởng

Năng lễ sở lễ tánh không tịch,

Cảm ứng đạo giao nan tư ngh́,

Ngă thử đạo tràng như đế châu,

Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,

Ngă thân ảnh hiện chư Phật tiền,

Đầu diện tiếp xúc quy mạng lễ.

                                   

Lễ Phật

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai, thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trụ Tam Bảo. (1 lạy)

­Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương cực lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (1 lạy)

 

 

Kệ Tán Hương

Lư hương vừa ngún chiên đàn,

Khói thơm ngào ngạt muôn ngàn cơi xa,

Ḷng con tín ngưỡng thiết tha,

Ngưỡng mong chư Phật thương mà chứng minh.

 

Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát (3 lần)

 

Chú Đại Bi

 

Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần)

Thiên thủ thiên nhăn vô ngại đại bi tâm đà ra ni.

 

Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da.Nam mô a rị da. Bà lô kiết đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lât đỏa y mông a rị da. Bà lô kiết đế Thất Phật ra lăng đà bà.

 Nam mô na ra cẩn tŕ. Hê rị ma ha bàn đa sa mế. Tát bàn đa tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đa, na ma bà dà. Ma phạt đạt đậu. Đát điệt tha. Án a bà lô hê. Lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha bồ đề tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị đà dựng. Cu lô cu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da, giá ra giá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê. Thất na thất na. A ra sâm Phật ra xá lợi. Phạt ra phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê rị. Ta ra ta ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn tŕ. Địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na. Ta bà ha. Tất đà dạ. Ta bà ha. Ma ha tất đà dạ. Ta bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ. Ta bà ha. Na ra cẩn tŕ .Ta bà ha. Ma ra na ra. Ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da. Ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ. Ta bà ha. Giă kiết ra a tất đà dạ. Ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ. Ta bà ha. Na ra cẩn tŕ bàn dà ra dạ. Ta bà ha. Ma bà lợi thắng yết ra dạ. Ta bà ha.

 Nam mô hắt ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô yết đế. Thước bàn ra dạ. Ta bà ha.

 Án tất điện đô. Mạn đa ra. Bạt đà rạ. Bạt đà da, ta bà ha.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)

 

KHAI KINH KỆ

Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,

Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ,

Ngă kim kiến văn đắc thọ tŕ,

Nguyện giải như lai chơn thiệt nghĩa.

Nam Mô Thập Thương Thường Trụ Tam Bảo(3 lần)

                                                           

PHẬT NÓI KINH THIỆN ÁC NHÂN QUẢ

 

Chính tôi được nghe một thời đức Phật ở nước Xá Vệ, tại vườn ông Cấp Cô Độc, rặng cây Thái tử Kỳ Đà.

Khi bấy giờ đức Thế Tôn thuyết pháp, có vô lượng Bồ Tát, trời, người đại chúng vây quanh, yên lặng một ḷng nghe nhận. Lúc ấy A Nan tôi v́ chúng sanh nên bạch Phật rằng: “Kính lạy đức Thế Tôn! Nay thấy thế gian cùng một giống sanh trong đạo người, có kẻ đẹp, kẻ xấu, người mạnh, kẻ yếu, kẻ nghèo, người giàu, kẻ khổ, người vui, kẻ sang, người hèn, âm thanh bất đồng, ngôn ngữ khác nhau, có người sống lâu trăm năm chẳng chết, người ba mươi tuổi đă tử vong, kẻ mười lăm tuổi chết yểu, cho đến trẻ nhỏ bị bào thai đọa lạc. Có người đoan chánh, có kẻ bần hàn, có người xấu xí mà giàu sang, kẻ rất mạnh khoẻ mà thấp kém, Có người nhu nhược mà lên ngôi cao, có người khổ mà sống lâu, kẻ vui mà chết sớm, có người làm lành mà hay gặp nhiều điều khốn quẫn; kẻ làm ác lại gặp phước lợi, kẻ béo trắng lại mắt lác, kẻ xanh đen mà lại tươi đẹp, có người tuy lùn bé mà đủ ư chí cao thượng, có người tuy cao lớn mà phải làm đứa ở đê hèn, có người nhiều con trai con gái, có kẻ cô đơn một ḿnh, có kẻ ly gia hương đói rét lang thang, có kẻ được vào cung vua ăn mặc tha hồ, có ngườ́ lúc trẻ th́ nghèo hèn đến lúc già lại giàu sang, có người thực là vô tội lại bị bắt bớ giam hăm trong tù ngục, có nhà cha từ con hiếu, luận kinh giảng nghĩa, có nhà anh em bất ḥa đấu tranh ngang trái, có người nhà cửa đàng hoàng gia sản đầy đủ, có kẻ không cửa không nhà nay đây mai đó, gửi thân nơi đất khách quê người, sống một cách phiêu lưu khốn cực, có người ở như ổ quạ hang hưu giống loài ly thú, cũng có hạng người ăn thịt sống uống máu tươi, mặc áo da lông không biết văn tự, có người an nhàn hưởng phước báo, có kẻ đi làm mướn không ai thuê, có người thông minh cao sáng, có kẻ dốt nát ngu si, có người kinh doanh mới được, có kẻ chẳng cầu tiền của tự đem lại, có kẻ giàu mà tham xẻn, có người nghèo lại rộng ḷng bố thí.

            Có người lời nói ngọt ngào, có kẻ tiếng nói ra như gai góc, có kẻ được nhiều người ái kính, có kẻ bị mọi người xa lánh, có người từ tâm nuôi mạng chúng sanh, có kẻ sát sanh không nương tay, có người khoan dung đại lộ, lại đắc nhân tâm, có kẻ bị dân chúng bỏ rơi.

            Có nhà nàng dâu mẹ chồng ghét nhau, có nhà chị em dâu vui vẻ ḥa hợp. Có người ham nghe pháp ngữ, có kẻ nghe kinh buồn ngủ, có hạng vũ phu vô lễ, có người hiếu học văn chương, có kẻ hay bắt chước dáng điệu những loài súc sanh. Cuối xin đức thế tôn nói rộng nhân quả cho đại chúng đây nghe mà nhất tâm hành thiện!

 Khi bấy giờ đức thế tôn bảo A Nan tôi rằng: Như ngươi hỏi ta chúng sanh thọ báo bất đồng là do đời trước dụng tâm khác nhau, v́ thế cho nên muôn sai vạn biệt. Người đời nay được than tâm đoan chánh, là do đời trước ở trong đạo người tu hành nhẫn nhục mà được.

            Kẻ bị thân h́nh xấu xí, là do đời trước ở trong đạo người có tánh giận tức.

            Người đời nay bị nghèo cùng, là do đời trước ở trong đạo người có tánh tham xẻn.

            Người đời nay được cao quư, là đời trước hay lễ bái chư Phật mà được.

            Người đời nay bị hạ tiện là do đời trước hay có tánh kiêu mạn.

            Người to lớn là do đời trước có tâm cung kính.

            Kẻ bị lùn thấp là do đời trước mạn pháp.

            Kẻ ngang tàn ương ngạnh, là do đờ́ trước làm kiếp dê.

            Kẻ đen xấu là do đời trước che ánh sáng của Phật.

            Kẻ bị cứng lưỡi là do đời trước nếm trai thực cúng dường.

            Kẻ bị đỏ mắt là do đời trước sẻn tiếc ánh sáng.

            Người đui mắt là do đời trước hay khâu mắt chim ưng.

            Người đời nay câm ngọng, là do đời trước hủy báng chánh pháp.

            Người đời nay điếc lác là do đời trước chẳng vui nghe pháp.

            Người khuyết răng đời nay là do đời trước hay ăn xương thịt.

            Người tắc mũi đời nay là do đời trước đốt hương bất hảo cúng dường Phật.

            Người sứt môi đời nay là do đời trước hay đâm thọc sâu thủng mang hoặc môi cá.

            Người vàng da là do đời trước hay cạo lông lợn.

            Người căng tai là do đời trước hay dùi thủng tai sinh vật.

            Kẻ trần h́nh, là do đời trước hay mặc áo mỏng vào chùa đứng trước tượng Phật Bồ Tát.

            Người sắc đen đời nay là do đời trước để tượng Phật thờ ở mái hiên làm khói xông tượng.

            Người đời nay bị đi khèo chân, là do đời trước thấy bậc sư trưởng không đứng dậy.

            Người đời nay bị lưng c̣ng, là do đời trước mặc áo mỏng ra vào quay lưng vào tượng Phật.

            Người bị trán thấp hoặc trớt, là do đời trước thấy Phật chẳng lễ lạy cầm tay gơ trán.

            Người đời nay rụt cổ, là do đời trước thấy các bậc tôn trưởng rụt đầu chạy trốn.

            Người đời nay đau tim, là do đời trước hay đâm chém thân thể chúng sanh.

            Người đời nay bệnh hủi, là do đời trước lừa gạt lấy tài vật của người ta.

            Người đời nay bị bệnh ho suyễn, là do đời trước trời mùa đông giá rét cho người thức ăn lạnh.

            Người đời nay không có con, là do đời trước hay nuôi dưỡng các sanh vật.

            Người đời nay sống lâu, là do đời trước có từ tâm.

            Người đời nay chết non, là do đời trước hay sát sanh.

            Người đời nay giàu to là đời trước hay làm hạnh bố thí.

            Người đời nay có xe ngựa, là do đời trước cúng dường Tam Bảo bằng xe ngựa.

            Người đời nay thông minh, là do đời trước ham học và tụng kinh.

            Người đời nay ám độn, là do đời trước làm súc sanh.

            Người đời nay làm tôi đ̣i, là do đời trước nghèo mà tham chức dấu.

            Người đời nay hay nhảy nhót xoay cuồng, là do đời trước làm kiếp khỉ.

            Người đời nay bị bệnh hủi, là do đời trước phá hoại Tam Bảo.

            Người đời nay tay chân vặn vẹo, là do đời trước hay trói chân tay chúng sanh.

            Người đời nay hay có ác tánh, là do đời trước làm kiếp rắn, rết, bọ cạp.

            Người đời nay sáu căn được đầy đủ, là do đời trước chuyên tâm giữ giới.

            Người đời nay các căn tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ư không được đầy đủ là do đời trước phá giới.

            Người đời nay hay ăn ở bẩn thỉu, là do đời trước làm kiếp lợn.

            Người đời nay ham múa hát, là do đời trước làm nghề múa hát ả đào. phường chèo tái sanh.

            Người đa tham thời nay, là do đời trước làm kiếp chó đầu thai.

            Người đời nay có búi thịt đeo lủng lẳng ở cổ (b́u cổ), là do đời trước hay ăn một ḿnh (ăn vụng).

            Người đời nay bị mồm hôi thúi, là do đời trước hay mắng chưởi rủa, hổn hào.

            Người đời nay không có nam căn, là do đời trước hay thiến chó, lợn.

            Người đời nay ngắn lưỡi nói ngọng, là do đời trước ngồi ở chổ vắng hay mạ nhục, mắng nhiếc các bậc Tôn trưởng.

            Người đời nay ham thông dâm với phụ nữ người ta, chết đọa làm loài ngang, vịt.

            Người đời nay hay thông dâm với chính họ, chết đọa làm loài chim công, chim sẻ.

            Người sẻn tiếc kinh thư che giấu trí huệ không chịu nói cho người, chết đọa làm loài trùng ăn đất ăn gỗ (con mọt).

            Người hay đeo cung tên súng đạn, cưỡi ngựa, chết đọa trong loài Lục di (mường màn mọi rợ).

            Người ham sát sanh, chết đọa vào trong loài hang thú (hổ, báo, chó sói).

            Người hay đeo tràng hoa, chết đọa vào loài trùng tải thắng (tức sâu trùng ḿnh có hoa).

            Người hay mặc áo dài lượt thượt, chết đọa làm trùng đuôi dài.

            Người hay nằm ăn, chết đọa vào loài lợn.

            Người ưa thích mặc áo sặc sỡ các sắc loè loẹt, chết đọa làm loài chim loang lỗ.

            Kẻ hay nhái tiếng người hoặc hài hước điệu người, chết đọa làm loài chim vẹt.

            Kẻ hay chế diễu người, chết đoạ làm loài trăn, rắn ác độc.

            Kẻ hay làm buồn năo người, chết đọa làm loài trùng ảo năo.

            Kẻ hay tuyên truyền điều ác làm cho người ta tin, chết đọa làm loài chim cú, chim cắt.

            Kẻ hay nói làm cho người ta bị ương họa tù tội, chết đọa làm loài thú dă hồ.

            Kẻ hay làm cho người ta sợ hăi kinh khủng, chết đọa làm loài hươu, nai.

            Người đời trước đi guốc, dép vào chùa, đời nay sanh loài có móng như móng ngựa.

            Người đời trước hay phóng hạ khí, đời nay làm loài trùng khí bàn.

            Kẻ đời trước buộc người phải ăn dè xẻn, nghĩa là bớt phần ăn của người, đời nay làm con mọt gặm gỗ.

            Người đời trước dùng cối giă của tăng chúng, đời nay bị làm loài trùng gục đầu.

            Làm thân cá giải đời nay, là do đời trước lạm dụng nước của chư tăng.

            Làm bẩn đất chúng tăng, phải đọa làm loài trùng ở chốn bẩn.

            Lấy trộm quả trái của chúng tăng, phải đọa làm loài trùng ăn bùn đất.

            Loài trâu, lừa kéo cối nghiến, là do đời trước làm người ăn trộm của chúng tăng.

            Đời trước cưỡng xin của chúng tăng, đời nay làm loài chim bồ câu trắng.

            Đời trước nhục mạ chúng tăng, đời nay phải làm loài trùng ở cổ trâu.

            Lạm ăn rau của tăng, phải đọa làm loài sâu ở các thứ rau đắng.

            Bất kính ngồi giường của tăng, phải đọa làm loài lươn, loài lịch.

            Lạm dụng các đồ vật của tăng, phải đọa làm loài thiêu thân.

            Nhổ khạc trong đất chùa, đời nay phải đọa làm chim dài mỏ.

            Mặc áo vằn khói, bôi phấn đánh môi son vào chùa, đời nay phải đọa làm chim mỏ đỏ.

            Mặc áo màu sặc sỡ vào chùa, đời nay đọa làm loài chim lệ.

            Đời trước vợ chồng nằm ngủ với nhau trong chùa, đời nay phải đọa làm loài trùng thanh.

            Đời trước ngồi trên hoặc đạp vào tháp thờ, đời nay phải đọa làm loài lạc đà.

            Đời trước đi giầy dép vào chùa tịnh xá, đời nay phải đọa làm loài ếch, nhái chuột bọ vân vân.

            Đời trước nghe thuyết pháp mà nói chuyện làm ồn, đời nay bị làm loài chim bách thiệt.

            Làm ô uế tịnh hạnh của tăng ni, chết đọa vào địa ngục Thiết Quật, có trăm muôn ṿng đao bay xuống một lần chém tan thân thể.

            Khi đó A Nan tôi bạch Phật rằng: “Lạy đức Thế Tôn! Theo như lời Phật nói phạm vào của chúng tăng thật là tội rất nặng, nếu như thế th́ bốn chúng đàn việt làm sao mà đến chùa mà cung kính lễ bái được?”

            Phật nói: “Người đến chùa tăng có hai thứ tâm: một là thiện tâm, hai là ác tâm.

            Thế nào là thiện tâm? Người đến chùa tăng thấy Phật th́ lễ bái, thấy tăng th́ cung kính, thỉnh kinh hỏi nghĩa và thọ giới sám hối, bỏ tiền của ra xây cất chùa chiền, kiến lập Tam Bảo, không tiếc thân mạng, hộ tŕ chánh pháp. Những người như thế cất chân một bước tức là bước thiên đàng, đời vị lai hưởng phước như cây Đề Gia, đó gọi là người tối thiện.

            Thế nào là ác tâm? Có những chúng sanh khi tới chùa, chỉ ḍm ngó xin chúng tăng như là đ̣i mượn tiền mượn của hoặc chỉ trích chư tăng, vạch tỏ những lỗi lầm chuyên chủ phá hoại mà thôi, hoặc ăn của tăng không có tâm hổ thẹn, nào bánh quả, rau đậu, cắp mang về nhà, những con người như thế chết đọa vào địa ngục Thiết Hoàn, vạc nước sôi, ḷ than, núi dao, rừng kiếm phải bị trừng phạt, đó tức là kẻ tối hạ ác nhân!”

            Phật lại dặn A Nan tôi rằng: “Phải răn bảo cho đệ tử của ta đời mai sau, khi đến chùa phải cẩn thận chớ phạm của Tam Bảo, phải gắng sức tôn sùng thành thật, chớ có thoái tâm, nghe lời Phật, tới khi ngài Di Lặc xuất thế quyết định được độ thoát không nghi ngờ”.

            Phật nói: Đời nay cướp lột áo của người ta, chết đọa vào địa ngục Hàn Băng, sau đọa làm loài tằm bị người nung nấu kéo tơ.

            Đời nay chẳng muốn đốt đèn soi kinh, cúng tượng chết đọa vào địa ngục Hắc Ám trong núi Thiết Vi.

            Đời nay làm kẻ đồ tể mổ giết chúng sanh, chết đọa vào trong địa ngục Đao Sơn Kiếm Thụ.

            Đời nay ham đi săn bắn, huưt chó thả chim ưng làm mồi, sau khi chết đọa vào địa ngục Thiết Cứ,

            Đời nay hay làm hạnh tà dâm, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Đồng Trụ, Thiết Sàng.

            Đời nay chứa nhiều vợ, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Thiết Khải.

            Đời nay chứa nhiều chồng sau khi chết đọa vào địa ngục Độc Xà.

            Đời nay hay thui luộc gà, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Hôi Hà.

            Đời nay hay cạo lông lợn, nhổ lông gà, sau khi chết đọa vào địa ngục Hoặch Thang.

            Đời nay hay hoạn thiến chó lợn, sau khi chết đọa vào địa ngục Tiêm Thạch.

            Đời nay hay uống rượu say, sau khi chết đọa vào địa ngục uống nước đồng.

            Đời nay hay cắt chém chúng sanh, sau khi chết đọa vào địa ngục Thiết Luân.

            Đời nay lấy trộm quả trái của tăng chúng, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Thiết Hoàn.

            Đời nay hay ham ăn ruột thịt chó lợn, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Phân nước giải.

            Đời nay hay ăn gỏi cá, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Đao Lâm Kiếm Thụ.

            Đời nay làm mẹ ghẻ cay nghiệt với con chồng, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Hỏa Xa.

            Đời nay hay nói lưỡi đôi chiều làm cho người ta ấu đă nhau, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Thiết Lê.

            Đời nay hay nói đâm thọc mạ nhục người, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Bạt Thiệt.

            Đời nay hay nói dối, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Thiết Châm.

            Đời nay hay sát sanh cúng tế tà thần, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Thiết Đối.

            Đời nay làm bà đồng khi lên đồng, giả làm lời nói của quỷ thần để dối người ta lấy tiền của, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Nhục Sơn.

            Đời nay làm bà đồng nhắm mắt nh́n xuống đất dối người lên trời lấy thần hồn, kẻ đó sau khi chết đọa vào trong địa ngục Trảm Yêu (chặt ngang lưng).

            Đời nay làm bà đồng bảo người ta sát sanh cúng tế để cầu ông thần lớn hoặc họa ngũ đạo, Thổ Địa, Thổ Công, ông hoàng bà chúa, tất cả như thế đều là lừa dối kẻ tiền, sau khi chết đọa vào địa ngục Chước, bị quân ngục tuốt băm chém, mổ xẻ thân thể, lại bị con chim mỏ sắt mổ moi hai mắt.

            Đời nay làm thầy bói phù thủy, ông đồng hoặc thầy địa lư chôn cất mồ mả, xem gia trạch, đoán cát hung, năm họ tiện lợi, an long giận mạch trấn ác suy họa để lừa dối kẻ ngu lấy tiền, nói càn những điềm xấu tốt, các bọn người này sau khi chết đọa vào trong địa ngục Thiết Đồng, có rất nhiều giống chim đậu trên ḿnh kẻ đó để mổ móc thịt ăn, ray rỉa gân xương chịu khổ vô cùng.

            Đời nay làm thầy thuốc lừa dối chữa bệnh người không lành để lấy tiền, sau khi chết đọa vào địa ngục Châm Chích, toàn thân bị thiêu đốt.

            Đời nay làm kẻ phá tháp phá chùa, lường gạt chư tăng, bất hiếu với cha mẹ, sau khi chết đọa vào đại địa A Tỳ qua tám địa ngục lớn và các địa ngục nhỏ, một trăm ba mươi sáu sở, lâu một kiếp, hai kiếp, cho đến năm kiếp, rồi sau đó mới được ra, nếu gặp bậc thiện tri thức giáo hóa phát tâm bồ đề, bằng không lại đọa địa ngục.

            Phật nói: Làm thân người rất hôi thối nhơ bẩn, đầy ḷng giận tức khó gỡ bỏ, phải biết kẻ đó kiếp trước làm giống lạc đà nay được tái sanh.   

Người hay đi đây đi đó ăn khoẻ, không tránh nguy hiểm khó khăn, kẻ đó trước làm giống ngựa tái sanh.

            Người hay xông pha đi nắng đi rét tâm không ghi nhớ, kẻ đó trước làm giống trâu được tái sanh.

            Người tiếng nói to hồm hỗm, không biết hổ thẹn, nhiều ái niệm không phân biệt phải trái, kẻ đó trước làm giống lừa được tái sanh.

            Người hay tham ăn thịt, làm ǵ cũng không sợ, kẻ đó trước làm giống sư tử được tái sanh.

            Người lông trên ḿnh dài, mắt nhỏ không muốn ở yên chỗ, kẻ đó trước làm giống chim được tái sanh.

            Người thân cao lớn,mắt tṛn, tánh hay lẫn tránh những nơi đồng ruông và ghét bỏ vợ con, kẻ đó trước làm giống hổ được tái sanh.

            Người có tánh phản phúc, lại hay sát hại sâu trùng, kẻ đó trước làm giống dă hồ mà tái sanh.

            Người có lực khoẻ mạnh và cường tráng ít dâm dục, không yêu vợ con, kẻ đó trước làm giống chó sói mà tái sanh.

            Người không ham mặc áo đẹp, tánh hay ŕnh bắt kẻ gian phi và ít ngủ, đa sân nộ kẻ đó trước làm giống chó mà tái sanh.

            Người ham dâm dục và hay nói, lại được nhiều người yêu, kẻ đó trước làm giống chim vẹt mà tái sanh.

            Người hay vui trong nhân chúng, lời nói nhiều phiền phức, kẻ đó trước làm loài chim yểng mà tái sanh.

            Người thể vóc bé nhỏ ham dâm dục ư chẳng chuyên định, thấy sắc đẹp sanh tâm say mê, kẻ đó trước làm loài chim sẻ được tái sanh.

            Người mắt có sắc đỏ răng ngắn, khi nói th́ sùi bọt mép như xà bong, nằm th́ cuộn ḿnh lại, kẻ đó trước làm loài trăn rắn được tái sanh.

            Người lời nói ra có tánh giận tức, không quan sát nguyên do ư nghĩa, miệng thở ra lửa độc, kẻ đó trước làm giống bọ cạp, rết, mọt gỗ được tái sanh.

            Người hay ngồi một ḿnh ăn, đêm ít ngủ, kẻ đó trước làm loài hồ được tái sanh.

            Kẻ hay đào tường khoét vách ăn trộm, tham của đầy ḷng oán giận không có t́nh thân sơ, kẻ đó trước làm loài chuột được tái sanh.

            Phật nói: “Kẻ phá hoại chùa tháp, cất giấu của Tam Bảo làm riêng của ḿnh để ăn dùng, chết đọa vào đại địa ngục A Tỳ, từ địa ngục được thoát ra lại đọa làm thân súc sanh, như chim bồ câu, chim sẻ, chim uyên ương, chim oanh vũ, chim thanh tước, cá giải, khỉ, vượn, hưu, nai nếu được làm người phải đọa thân hoàng môn hoặc con gái hai căn, không căn hay kẻ dâm nữ.

            Làm người hay giận tức, chết đọa làm loài rắn độc, sư tử, hổ, báo, gấu bi, mèo, hồ, chim ưng, gà, nếu được làm người hay nuôi gà lợn, kẻ đồ nhi (mổ giết trâu lợn) kẻ săn bắn, kẻ chài lưới bắt cá và quân canh ngục.

            Làm người gặp Phật pháp mà ngu si chẳng hiểu đạo, khi chết đọa làm loài voi, lợn, trâu, dê, trâu nước, rận, chí, ruồi, muỗi, kiến, các thân h́nh, nếu được làm người th́ mù, điếc, câm, ngọng, gù, c̣ng, các căn không đủ, không hay thọ giáo pháp.

            Làm người hay kiêu mạn, chết làm loài bọ trong đống phân, hoặc làm lừa chở nặng, loài chó, loài ngựa, nếu được sanh làm người phải đọa làm thân nô tỳ nghèo cùng ăn mày, bị mọi người khinh rẻ.

            Làm người mà được chức vị quan quyền lại tham lấy của dân, chết đọa vào trong địa ngục Nhục Sơn, lúc đó có trăm ngàn muôn quỷ thú lại cắt thịt mà ăn.

            Đời nay phá trai ăn đêm, sau khi chết đọa làm loài quỷ đói, trăm ngàn muôn năm không được ăn uống, lúc bước đi trên đầu phun ra lửa.

            Đời nay ham cởi trần ngồi, sau khi chết đọa làm loài trùng hàn vọ.

            Đời nay hay cắp đồ trai dư về ăn uống, chết đọa vào trong địa ngục Nhục Thiết, sau khi sanh vào cơi nhân gian mắc chứng bịnh yết hầu và chết non.

            Đời nay lễ Phật đầu chẳng sát đất, chết đọa vào ngục Đảo Huyền, sau khi sanh vào cơi nhân gian phần nhiều bị lừa dối.

            Đời nay lễ Phật không chắp tay, sau khi chết sanh nơi biên địa, làm nhiều thu hoạch ít.

            Đời nay nghe tiếng chuông không ngồi dậy, sau khi chết đọa vào trong loài trăn, thân to dài bị vi trùng moi rúc ăn.

            Đời nay chắp tay hai bàn tay vùng lại với nhau lễ Phật, chết đọa vào địa ngục Phản Phọc, sau sanh trong đạo người gặp nhiều việc ác. Đời nay chắp tay và năm thể rạp xuống đất chí tâm lễ Phật , đời sau thường được sanh vào nhà tôn quư thụ hưởng khoái lạc.

            Người ưa giận và buồn phiền, là do đời trước có bịnh điên cuồng.

            Người bị con ngươi lệch về một bên (mắt lác), là do đời trước hay nh́n trộm phụ nữ.

            Người đời nay bênh vợ mắng cha mẹ, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Trảm Thiệt.

            Đời nay lấy nước đổ vào trong rượu rồi bán cho người ta, sau khi chết phải đọa làm loài trùng trong nước, khi sanh cơi nhân gian mắc chứng bệnh thủng và đoản khí mà chết.

            Phật lại dạy A Nan tôi rằng: “Như trên ta đă nói rất nhiều các sự đau khổ, đều là do nghiệp thập ác mà ra, thượng là nhân duyên địa ngục; trung là nhân duyên súc sanh; hạ là nhân duyên ngạ quỷ.

            Tội sát sanh khiến cho chúng sanh đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, sau được sanh làm người phải hai thứ quả báo: một là chết non, hai là nhiều bịnh.

            Tội trộm cắp cũng khiến cho chúng sanh đọa địa ngục ngạ quỷ, súc sanh, sau được sanh làm người phải hai thứ quả báo: một là nghèo cùng hai là chung của không được xài tự do.

Tội tà dâm cũng khiến cho chúng sanh đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, sau được sanh làm người phải hai thứ quả báo: một là vợ không trinh lương, hai là hai vợ tranh nhau không theo ư ḿnh.

            Tội nói dối cũng khiến cho chúng sanh đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, sau được sanh làm người phải hai thứ quả báo: một là phần nhiều bị người phỉ báng, hai là thường bị người ta lừa gạt.

            Tội lưỡng thiệt cũng khiến cho chúng sanh đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, sau được sanh làm người phải hai thứ quả báo: một là bị họ hàng phá hoại, hai là bị anh em họ hàng tệ ác.

            Tội ác khẩu cũng khiến cho chúng sanh đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, sau được sinh làm người phải hai thứ quả báo: một là thường phải nghe tiếng ác, hai là có nói ra điều ǵ tranh căi kiện tụng.

            Tội ỷ ngữ cũng khiến cho chúng sanh đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, sau được sanh làm người phải hai thứ quả báo: một là phải nói chẳng ai tin, hai là lời nói không được rành rọt.

            Tội tham dục cũng khiến cho chúng sanh đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, sau được sanh làm người phải hai thứ quả báo: một là tham tài không chán, hai là cầu nhiều không toại ư.

            Tội sân giận cũng khiến cho chúng sanh đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, sau được sanh làm người phải hai thứ quả báo: một là thường bị người ta chỉ trích tội lỗi, hai là thường bị người ta năo hại.

            Tội tà kiến cũng khiến cho chúng sanh đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, sau sanh làm người phải hai thứ quả báo: một là thường sanh vào nhà tà kiến, hai là tâm thường nịnh hót không được ngay thẳng. Các Phật tử nên biết nghiệp thập ác như thế, đều là mọi sự đau khổ, chứa chất một nhân duyên lớn.

            Khi bấy giờ trong đại chúng, có người đă tạo nghiệp thập ác, nghe Phật nói khổ báo của địa ngục như thế, tự kêu khóc sợ hăi mà bạch Phật rằng:

            “ Lạy đức Thế Tôn, đệ tử chúng con phải làm hạnh ǵ mà được thoát khỏi khổ ấy, cuối xin đức Thế Tôn chỉ bảo cho ?”

            Phật nói: “Các ngươi hăy giáo hóa hết thảy chúng sanh chung làm nghiệp phước, thế nào là tu phước?

            Nếu có chúng sanh nào đời nay làm một người Đại hóa chủ đứng ra xây cất chùa, tháp, tịnh xá đời vị lai được phước làm quốc vương thống lănh vạn dân khắp nơi đều quy phục.

            Đời nay làm Ấp vương trung chánh, duy na, luân chủ, đời sau sẽ được làm vương thần, phụ tướng, châu quận đầy đủ tôn sang.

            Đời nay khuyến hóa nhiều người làm các việc công đức, đời vị lai sẽ được làm trưởng giả giàu sang, mọi người kính nể bốn đường khai thông.

            Đời nay hay đốt đèn nối sáng, đời sau sanh vào cung trời Nhật Nguyệt Quang Minh tự chiếu soi.

            Đời nay hay làm việc bố thí và từ tâm nuôi dưỡng sanh mạng, đời sau sanh nơi giàu có ăn mặc tự nhiên.

            Đời nay hay cho người thức ăn uống, đời sau nơi sanh bếp trời tự đem lại, sức lực đầy đủ, thông minh, trí huệ, biện tài, thọ mạng lâu dài.

            Cho thức ăn loài súc sanh được bách bội báo, cho thức ăn kẻ nhứt xiển đề được ngàn bội báo.

            Cúng dường thầy tỳ kheo tŕ giới được vạn bội báo, nếu cúng dường các vị Pháp sư lưu thông Đại Thừa giảng tuyên tạng bí mật của Như Lai, khiến cho đại chúng khai thông tâm mắt được vô lượng báo. Cúng dường Bồ Tát chư Phật thọ báo vô cùng. Cúng dường ba bậc người phước báo vô tận: một là chư Phật, hai là cha mẹ, ba là bệnh nhân.

Một lần cúng món ăn mà được phước báo vô lượng như thế, nếu hay thường cúng dường phước ấy bao giờ vô cùng tận được?

            Đời nay xối nước tắm cho chúng tăng, đời sau sanh chốn áo mặc tự nhiên, có mọi người kính nể, thân h́nh đoan chánh, mặt mắt tươi đẹp.

            Đời nay tán dương Phật và ham đọc tụng kinh pháp, sanh thân đời sau tiếng nói ḥa nhă nhiệm mầu, ai nghe tiếng cũng vui mừng.

            Đời nay hay giữ giới, sanh thân đời sau đoan chánh oai nghi, là bậc tối thắng trong loài người.

            Đời nay hay đào giếng hoặc để chum, để thùng nước cho người qua lại dùng, trồng cây bên đường cho người nghỉ mát, đời sau sanh xứ nào cũng làm thân vương, trăm mùi ăn uống nghĩ tới là có đưa lại.

            Đời nay hay viết chép kinh pháp cho người đọc, đời sau sanh xứ nào miệng biện đa tài, học pháp ǵ, nghe qua một lần thấu hiểu, chư Phật Bồ Tát thường gia hộ, là tối thắng trong loài người và thường làm bậc Thượng Thủ.

            Đời nay hay bắt cầu, hoặc chở thuyền cho người qua sông, đời sau sanh xứ nào đều có đầy đủ bảy báu, mọi người khen kính và chiêm ngưỡng, đi lại ra vào được người nâng đỡ.

            Khi đó A Nan tôi bạch Phật rằng: “Lạy đức Thế Tôn, kinh này gọi là ǵ và khuyến phát thế nào cúi xin ngài chỉ giáo”.

            Phật bảo A Nan tôi rằng: “Kinh này tên Thiện Ác Nhân Quả, cũng gọi là kinh Bồ Tát Phát Nguyện Tu Hành, thọ tŕ như thế”.

            Khi Phật nói kinh xong, trong chúng có tám vạn người, trời phát tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề và có trăm ngàn người con gái chuyển thành nam. Một ngàn hai trăm ác nhân bỏ ư ác biết đời trước của ḿnh. Vô lượng trời người được vô sanh nhẫn, thường được hưởng khoái lạc. Vô lượng thính giả sanh các cơi Tịnh Độ cùng được làm bạn với chư Phật Bồ Tát. Hết thảy đại chúng về nhà làm phước, hoan hỷ phụng hành.

Phật nói kinh Thiện Ác Nhân Quả.

Phần phụ lục.

Nhân quả luân hồi tạp lục.

                                                                                                Thích Thiền Tâm.

Ai nói luân hồi chuyện vẩn vơ,

Người dê chuyển kiếp lẹ không ngờ (1)

                                                Đốt ḷ hương hỏi niềm xưa cũ,

                                                Nghe giọng triều âm tỉnh giấc mơ.

                                                           

Mạnh Phu Nhơn.

            Điền Canh Dă, làm quan Đề Đốc tỉnh Quảng Tây, vợ là Mạnh Phu Nhơn, bẩm tính hiền lương, nhưng chẳng may mất sớm.

            Khi Điền Canh Dă trên thuyền ngắm cảnh ở trấn Lương Châu, đêm trăng ngồi một ḿnh nơi nha dinh, bỗng mơ màng như vào mộng, thấy phu nhơn dung mạo cực đẹp, từ trên ngọn cây phơi phới bay xuống. Điền Canh Dă mừng rỡ cùng nhau hỏi chuyện hàn huyên như thuở b́nh sanh.

            Phu nhơn bảo: “Thiếp vốn là một vị thiên nữ, do túc duyên đời trước nên nay làm bạn với tướng công, duyên trần đă măn, lại trở về ngôi cũ. Nay bởi c̣n chút duyên thừa nên mời đến viếng thăm”.

            Điền Canh Dă hỏi: “Tôi kết cuộc ở quan tước nào?”

            Phu nhơn đáp: “Quan vị c̣n tăng, không phải chỉ chừng ấy mà thôi”.

            Tôi thọ được bao lâu?  

            Đáp: Cơ trời khó nói, tướng công lúc chết nên về nơi hương lư, không ở chốn quan nha, không tại quán dịch bên đường, cũng không mất giữa chiến trận, thời đến sẽ tự rơ.

            Hỏi : Sau khi tôi chết, c̣n được thấy nhau nữa chăng?

            Đáp: Việc này đều do tướng công, nếu cố gắng tu, khi sanh lên cơi trời tất sẽ được gặp, bằng không chắc sẽ khó hy vọng”.

            Sau Điền Canh Dă đi chinh phạt giặc Miêu trở về già, yếu chết dưới trướng binh.

 

                                                            Lai Tinh Hải.

            Lai Tinh Hải c̣n có tên là Lai Phục, người ở Tam Nguyên xứ Hiệp Tây. Ông thi đỗ tiến sĩ vào khoa Đinh Mùi, niên hiệu Vạn Lịch. Cha ông là Lai Thiếu Sâm, tánh điềm đạm khiêm nhường cũng là một bậc tiến sĩ.

            Khi Lai Tinh Hải chưa sanh, trong làng có một vị tăng pháp danh Lai phục, dốt chữ, chỉ nhờ người dạy học thuộc ḷng được phẩm Phổ Môn và Bát Nhă Tâm Kinh, ngoài ra không biết chi cả. Cách làng hơn mười dặm, có khoảng sông cạn đầy cát, đến mùa mưa nước tràn ngập, người đi lại rất làm khổ sở. Sư Lai Phục không nề nhọc nhằn, tự thân đứng ra đắp đường làm cầu, có ai duyên trợ cũng đều tạ. Do đấy, xa gần đều gọi là sư Phật Ḥa Thượng. Có người thấy sư khổ hạnh, dốt nát, gọi là Chuyết Ḥa Thượng ( Ḥa Thượng quê vụng). Cũng có kẻ hiềm sư không chịu đi đám tụng kinh, nên gọi là Lại Ḥa Thượng ( Ḥa Thượng Làm Biếng). Duy tiến sĩ Lai Thiếu Sâm kính trọng sư, nên gọi là Hữu Hạnh Ḥa Thượng.

            Sư tánh không thích cầu cạnh người, Lai Thiếu Sâm biết ư, thỉnh thoảng đến chùa nghe sư tụng hai thứ kinh và cúng dường gạo cùng các thức ăn.

            Một hôm Lai Thiếu Sâm đang ngồi ở thính đường xử việc chợt thấy Lai Phục đi vào. Lai Thiếu Sâm vội vă đứng lên đón rước, nhưng sư không đoái hoài đến, đi thẳng vào nhà trong; kêu hỏi cũng chẳng đáp, Lai Thiếu Sâm đang lấy làm lạ, th́ giây lát có tin truyền ra là phu nhơn sanh được một đứa bé trai. Ông vội sai người đến chùa hỏi thăm, mới hay sư vừa hóa kiếp. Lai Thiếu Sâm biết sư đă thác sanh làm con ḿnh, nên đặt kư danh là Lai Phục.

            Thuở niên thiếu, Lai Phục cực thông minh, đọc rất nhiều sách, tinh cả nghề thuốc và bách công kỹ nghệ. Lớn lên thi đỗ làm quan các nơi, kẻ nghe biết đến cầu trị bịnh, cứu được rất nhiều người. Khi lớn tuổi, ông cáo bệnh về quê, thường nói với người rằng: “ta vốn là kẻ xuất gia, đi trên đường hoạn lộ đă lâu; e quên mất bản lai, biết làm sao đây?”

            Lúc sắp chết ông lại nói: “Nay ta muốn trở về để nối thành công nghiệp cũ”. Nói xong liền qua đời.

           

                                                            Hạ Phùng Thánh.

            Quan tướng Quốc đời Minh là Hạ Phùng Thánh, trong niên hiệu Sùng Trinh, cùng gia nhơn từ miền quê lên Kinh sư. Thuyền vừa đến mũi Tầm Ngư, thuộc ḍng Cửu Giang, sóng to gió lớn chợt nổi lên. Hạ Phùng Thánh vội mặc triều phục, cầm hốt ra trước thuyền khấn vái. Khi ấy người trên thuyền thấy giữa hư không có vị thần mặc áo lụa đỏ, xách con quỷ đen liệng xuống nước, liền đó sóng gió dừng lặng. Hạ Phùng Thánh cho thuyền ghé vào bờ, thiết lễ cúng nơi miếu Đại Vương ở bên sông, để đáp ơn thần pḥ hộ. Do duyên sự này, từ đó về sau dân chúng càng tin tưởng, đem hương đèn, dê lợn dâng cúng mỗi ngày thêm nhiều.

            Năm Sùng Trinh thứ mười ba, Kỳ Thân Vương muốn phục hưng đạo tràng Quy Ngưỡng, cho rước Tam Muội Quang luật sư vào đất Sở.

Thuyền qua Cửu Giang, Tam Muội Quang mơ thấy một vị áo măo trang nghiêm đến thưa rằng: “Tôi là Tống Đại Vương, thủy thần ở sông Cửu Giang. Kiếp trước tôi cùng Tam Muội Quang và Hạ Phùng Thánh, ba người là bạn đồng tu ở chốn thâm sơn Tam Muội Quang không mê là chánh nhơn, nên đời này là bậc cao tăng. Hạ Phùng Thánh do phước duyên, lên đến ngôi tể tướng. C̣n tôi, v́ một niệm sai lầm, trở thành vị thần hưởng huyết thực. Trước đây, Hạ Phùng Thánh bị con yêu nơi cây đại thọ ở mũi Tầm Ngư nổi sóng muốn lật thuyền, tôi v́ nghĩ đến tiền duyên nên ra tay giúp đỡ. Không ngờ do sự việc đó mà dân chúng sát sanh đến cúng tế ngày càng thêm nhiều, e rằng tương lai tất bị đọa vào vô gián địa ngục. Ngày mai Tam Muội Quang đi ngang qua đây, xin ghé vào miếu, từ bi thọ lư cho. Lại xin công bố việc này cho bốn phương hay biết, để về sau dân chúng đừng sát sanh cúng tế nữa. Như thế, niềm hân cảm mối thâm ân sẽ vô hạng!” Sau khi tỉnh dậy Tam Muội Quang ghi nhớ và nhứt nhứt làm y theo lời.

            Từ đó về sau, giang thuyền qua lại mũi Tầm Ngư, quanh năm đều được yên ổn, kẻ lữ hành chỉ dùng trai thực hoa quả cúng tế mà thôi. Chuyện này cùng với việc thần hồ Cùng Đinh thác mộng cho vị sư con vua nước An Tức cầu cứu độ, có phần tương đồng. (Trích lục Tŕ Bắc Ngẩu Đàm).

           

Chuyện Vị Lăo Tăng.

Thế gian diễn hứa bi hoan sạ

Dục nhập tham thiền vạn kiếp không.

            Thời Trung Hoa Dân Quốc cư sĩ Uông Hiểu Viên một hôm ra chợ, thấy vị lăo tăng đứng ngó sững vào hàng thịt rưng rưng nước mắt, cư sĩ lấy làm lạ hỏi duyên cớ. Lăo tăng đáp:

            Câu chuyện rất dài xin lược thuật phần đại khái. Tôi nhớ được việc hai kiếp về trước. Đời thứ nhất, tôi là một tên đồ tể. Hơn ba mươi tuổi măn phần, hồn bị người bắt trói đưa đi. Minh quan trách là nghiệp sát nặng, cho quỷ áp giải đến Ty chuyển luân để thọ ác báo. Lúc bị xô xuống con sông đen tối, tâm thức tôi hoảng hốt mơ màng, thoạt tiên thật nóng như lửa đốt khó nhẫn, kế đó là cảm hơi mát mẻ; tỉnh ra th́ ḿnh đă sanh làm kiếp súc vật trong chuồn heo. Sau khi dứt sữa, thấy thức ăn không được sạch, ḷng cũng biết nhàm gớm, nhưng v́ đói quá gan ruột cồn cào, nên bất đắc dĩ phải nhắm mắt nuốt vào. Sau lần lần thông tiếng nói của loài heo, thường cũng hỏi han nhau, trong đồng loại cũng có lắm kẻ nhớ biết kiếp trước của ḿnh, xong không thể nói cho người hiểu được. Đại để đều nhận thức ḿnh sẽ bị giết, nên có lúc rên rĩ, đôi mắt ướt, là tỏ dấu bi sầu. Loài heo thân thể thô nặng, vào mùa hạ rất nóng khổ, chỉ t́m vũng bùn nằm vùi mới đỡ, xong cũng không thường có được. Bởi lông thưa và cứng, nên mùa đông lại khổ v́ lạnh, thân thể giá buốt, thấy loài dê chó lông nhuyễn dày, hằng mơ ước, xem như loài thú tiên. Đến lúc bị bắt tự biết ḿnh không khỏi, nhưng sợ quá nhảy chạy càng mong kéo hưỡn mạng sống được phút nào hay phút nấy. Khi bị trói rút bốn chân khiêng đi, dây khuyết đau đến tận xương. Lúc người bỏ lên xe chở về, thân h́nh cùng đồng loại chồng chất đè lên nhau, máu huyết ứ đọng, gần như muốn đứt. Khi đến nhà ḷ, bị liệng xuống đất, gan ruột tựa hồ tan nát. Nh́n thấy dao bén, chảo vạt để hai bên, ḷng bắt run sợ, không biết khi bị giết sẽ đau đớn như thế nào?! Lúc thọc huyết, thân tâm sảng sốt rụng rời, thấy ánh dao chớp lên liền nhắm mắt không dám nh́n thẳng. Khi đồ tể ấn lưỡi dao vào cổ, rung lắc mạnh cho huyết chảy xuống bồn, ban đầu c̣n kêu la, sau chỉ rên nhỏ trong cổ họng cho đến máu chảy đến tắt hơi, sự đau khổ thật không thể h́nh trạng!

            Bây giờ hoảng hốt mê ly như say như mộng, chừng tỉnh dậy thấy ḿnh đă thành h́nh người. Minh quan xét thấy kiếp trước c̣n có nghiệp lành, nên cho chuyển sanh làm người, tức là thân đời nay đây. Vừa rồi tôi thấy loài heo bị giết thương nó đau đớn, nhớ lại kiếp trước ḿnh đă chịu khổ độc, rồi tiếc cho người đồ tể này tương lai cũng bị nỗi khổ đó, ba mối niệm giao cảm, bất giác thương tâm không biết rơi lệ lúc nào!

            Nói xong, quay mặt bỏ đi. Lúc ấy, người xung quanh nghe nói, chỉ trỏ bàn tán phân vân. Bác hàng thịt được biết câu chuyện, sanh ḷng sợ hăi, từ đó về sau đổi nghề đi bán rau. (Trích lục Phật học chỉ nam).

 

Thái Thú Họ Ngưu.

            Miền Tích Châu, có Uông Tả Viên tiên sinh, biệt hiệu là Sĩ Khang. Trong niên hiệu Gia Khánh, Uông Tả Viên thi đỗ tiến sĩ, được bổ làm huyện lịnh ở Tứ Xuyên. Dưới quyền quản lănh của tiên sinh có viên Thái Thú họ Ngưu, vốn là hàng đồng niên và đă chiếm Á Nguyên ở bản tỉnh.

            Quan Thái Thú này, bàn tay mặt là tay người, c̣n bên trái là móng ngựa. Ông nhớ rơ ba kiếp trước, tường thuật với tiên sinh rằng:

            Đời trước tôi là một vị tướng, v́ đánh giặc Miêu tàn sát quá nhiều, nên Minh quan phạt cho chuyển kiếp làm ngựa. Khi sanh ra đă đổi thành thân ngựa trong tàu, tự bị thương la ré nhảy cắn, không ăn mà chết. Minh ty quở là cưỡng lệnh, đánh phạt, rồi cũng cho chuyển sanh làm ngựa như cũ. lần này, v́ sợ trách phạt, nên không dám cầu chết, khi lớn lên được một vị tướng quan chọn lựa để cỡi. Viên tướng nầy tánh t́nh nóng nảy hung bạo, nên thân ḿnh hằng bị roi vọt, trăm điều thống khổ.

            Một hôm vị tướng đánh giặc thua quân địch đuổi theo rất gấp. Tôi chở chủ tướng bôn đào, thoạt chạy đến một khe núi rộng ước hơn trượng, bờ bên kia đá nhọn dựng chập chồng. Lúc ấy tôi nghĩ: “ Nếu nhảy qua ḿnh sẽ phải chết, xong chủ tướng có thể đào sinh. Như không vượt qua, tất chủ bị binh giặc theo giết”. Nghĩ xong, liều ḿnh cố hết sức nhảy qua khe núi, bụng bị đá nhọn đâm, rách ruột mà chết. Vị tướng nhờ đó mà thoát nạn.

            Sau khi tôi chết, Minh ty khen là trung nghĩa, hứa cho chuyển thân người lại là văn quan, lên đến bậc tứ phẩm. Trước kia lúc tôi sắp làm ngựa, quỷ tốt lấy da ngựa khoát vào ḿnh, đến khi trở lại làm người, lại lột da ngựa ấy đi. Nhưng v́ tôi đă hai kiếp làm ngựa, da dính khắn vào thân, quỷ dùng dao lột ra, đau đến tận xương tủy. Khi dao rạch đến móng lại càng đau đớn, không thể nhẫn, nhân mới lén lút dấu móng chân đàng trước. Quỷ tốt cũng không để ư phát giác. Chẳng ngờ v́ duyên cớ đó, mà chuyển sanh bàn tay lại thành móng ngựa.

            Kể chuyện xong, Thái Thú bảo Uông Tả Viên rằng: Lộc vị của tôi chỉ đến chừng này, mạng sống cũng chẳng c̣n bao lâu, đến ngày tháng ấy … sẽ từ trần”. Sau việc quả nhiên.

                                                                                                Dung Ai bút kư.

 

                                                            Giết Dê Hại Vợ.

            Lưu Đạo Nguyên làm quan huyện tại Bông Khê, lúc giải chức trên đường về ở trọ nhà họ Tần. Đêm ấy ông nằm mộng thấy một thiếu phụ đến khóc thưa: “ Tôi vốn là vợ của họ Tần nhà này. V́ lỡ tay đánh chết người thiếp, nên bị Minh quan xử phải đền mạng, lại phạt làm dê. Nay tôi ở trong chuồng, sáng sớm sẽ bị giết để đăi ông. Tôi chết vẫn không tiếc, nhưng v́ trong bụng hiện mang thai dê con. Nếu nó nhân đó mà chết theo, th́ tội lỗi càng thêm nặng”.

            Lưu Đạo Nguyên đợi đến sáng thuật lại, th́ dê cái đă bị giết. Cả nhà nghe nói khóc rống, nhét dê con trở vào bụng dê cái rồi đem đi chôn.

 

Phạm Dâm Trả Quả.

            Trần Sanh ở Động Đ́nh nhà rất nghèo, nên đem vợ và em trai di cư đến Châu Kinh. Nơi đây thương khách tới lui tấp nập. Trần Sanh tánh hay ch́u chuộng nịnh bợ lại khéo mua bán, nên chẳng mấy năm gia tư có đến ngàn lượng vàng.

            Một hôm ông bỗng vướng bệnh nằm liệt vài ngày, rồi chỗi dậy bảo vợ cùng em rằng: “ Ba người chúng ta kiếp trước đều là tu sĩ, chung nhau gian dâm một thiếu phụ, rồi giết người chồng. Kẻ cầm giao giết chính là tôi. Nay Minh vương cho quỷ đến bắt, oan trái tất phải đền trả. Bây giờ tôi đi trước c̣n hai người chắc cũng không thoát khỏi đâu!”

            Nói xong tự nhổ râu tóc, lấy giao cắt lưỡi ḿnh; lại dùng lấy hai ngón tay móc đôi tṛng mắt lôi ra, giây phút liền tắt thở.

            Cô vợ và người em mấy ngày sau cũng chết.

 

Bất Hiếu Đọa Làm Heo.

            Hầu Nhị ở Kim Đơn vốn là kẻ bất hiếu. Bà mẹ đem gạo giúp đỡ người ăn xin, Hầu Nhị trông thấy nổi giận đánh mẹ và đuổi ra khỏi nhà. Vợ con khóc lóc can gián, y cũng không nghe. Chẳng bao lâu khắp ḿnh Hầu Nhị sanh ghẻ độc lở lói, hành hạ đau nhức cho đến lúc măn phần.

            Sau khi chết, Hầu Nhị về ứng mộng cho thấy bảo rằng: “Do cha ngỗ nghịch bất hiếu nên đọa phạt làm heo ở nhà Trương Nhị nơi cửa Tuyên Vơ tại Kinh Sư. Con nên qua đó mà chuộc mạng cha, nếu để trể e không kịp!”

            Thức dậy đứa con y theo lời t́m đến nhà Trương Nhị, quả có heo nái vừa mới sanh mấy heo con. Trong đó một heo con h́nh thú mặt người, có râu mép, trạng mạo giống cha ḿnh. Đứa con thương khóc thuật lại duyên cớ, nguyện đưa ra mười vạn lạng xin chuộc đem về. Nhưng Trương Nhị không nghe đem heo con ra giết.

            Việc nầy xảy ra vào niên hiệu Khang Hy thứ 39 đời Thanh.

 

Vùi Trong Bếp Lửa.

            Bên nhà một phú ông ở Hoa Đĩnh có thân cây khô rất to. Ông sắp đốn, th́ đêm lại mộng thấy một lăo nhơn dẫn nhiều người tới, xin hăy thông thả chậm lại ít hôm cho dời đi. Phú ông biết trong cây đó có vật lạ, sai người trèo lên nh́n xem, th́ thấy cây đó bọng ruột. Trong bọng cây vô số rắn lạ nằm khoanh. Ông liền bảo đầy tớ chất củi đổ dầu đốt cháy cây ấy. Lúc đó hơi tanh hôi bay xa cả dặm, phú ông đắc ư vỗ tay cả cười.

            Không bao lâu, ban đêm phú ông thấy có đám lửa to bay vào nhà. Ông gọi gia nhân thức dậy đến cứu chữa, nhưng lại tịnh nhiên không có chi cả. Việc như thế xảy ra nhiều lần rồi đều lặng lẽ, cả nhà không thấy làm lạ. Đêm nọ đứa tớ gái trộm củi đem nấu đồ riên, bỗng lửa cháy phát đỏ. Phú ông và tất cả gia nhân đều cho là trạng thái cũ, nằm nghỉ luôn không thức dậy. Nhưng lần này nhà cháy thật, cả gia quyến đều bị vùi trong lửa.

 

                                                            MA HA BÁT NHĂ

                                                BA LA MẬT ĐA TÂM KINH.

            Quán Tự Tại Bồ Tát, hành thâm Bát nhă ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách.

            Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị. Xá lợi tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhăn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ư; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhăn giới, năi chí vô ư thức giới, vô vô minh diệc, vô vô minh tận, năi chí vô lăo tử, diệc vô lăo tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệt vô đắc.

            Dĩ vô sở đắc cố, Bồ Đề tát đỏa y Bát nhă ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh niết bàn. Tam thế chư Phật, y Bát nhă ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

            Cố tri Bát nhă ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.

            Cố thuyết Bát nhă ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết: Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.(3 lần).

 

BẠT NHỨT THIẾT NGHIỆP CHƯỚNG CĂN BỔN ĐẮC SANH TỊNH ĐỘ ĐÀ LA NI.

                       

Nam mô a di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa địa dạ tha,

                        A di rị đô bà tỳ,

                        A di rị đa tất đam bà tỳ,

                        A di rị đa tỳ ca lan đế,

                        A di rị đa tỳ ca lan đa,

                        Dà di nị dà dà na,

                        Chỉ ca lệ ta bà ha. (3 lần).

                                                           

Tán Phật

A Di Đà Phật thân kim sắc,

Tướng hảo quang minh vô đẳng luân,

Bạch hào uyển chuyển ngũ tu di,

Cám mục trừng thanh tứ đại hải,

Quang trung hóa Phật vô số ức,

Hóa Bồ Tát chúng diệc vô biên,

Tứ thập bát nguyện độ chúng sanh,

Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.

Nam mô Tây Phương cực lạc thế giới, đại từ đại bi A Di Đà Phật.

                        Nam mô A Di Đà Phật. (108 lần).

                        Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát. (3 lần).

                        Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát. (3 lần).

                        Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát. (3 lần).

                        Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát (3 lần).

 

SÁM THẬP PHƯƠNG.

                                                Thập phương tam thế Phật,

                                                A Di Đà đệ nhứt,                                 

                                                Cửu phẩm độ chúng sanh,

                                                Oai đức vô cùng cực,

                                                Ngă kim đại quy y,

                                                Sám hối tam tội nghiệp,

                                                Phàm hữu chư phước thiện,

                                                Chí tâm dụng hồi hướng,

                                                Nguyện đồng niệm Phật nhơn,

                                                Cảm ứng tùy thời hiện,

                                                Lâm chung Tây Phương cảnh,

                                                Phân minh tại mục tiền,

                                                Kiến văn giai tinh tấn,

                                                Đồng sanh Cực Lạc quốc.                   

                                                Kiến Phật liễu sanh tử,

                                                Như Phật độ nhứt thiết,

                                                Vô biên phiền năo đoạn,          

                                                Vô lượng pháp môn tu,

                                                Thệ nguyện độ chúng sanh,

                                                Giai cọng thành Phật đạo.

                                    Hư không hữu tận, ngă nguyện vô cùng,

                                    Hư không hữu tận, ngă nguyện vô cùng,

                                    T́nh dữ vô t́nh, đồng viên chủng trí.

 

TỨ HOẰNG THỆ NGUYỆN

                                    Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ,

                                    Phiền năo vô tận thệ nguyện đoạn,

                                    Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,

                                    Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

 

                                                            HỒI HƯỚNG

                                    Phúng kinh công đức thù thắng hạnh,

                                    Vô biên thắng phước giai hồi hướng,

                                    Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh,

                                    Tốc văng vô lượng quang Phật sát.

                                    Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền năo,

                                    Nguyện đắc trí tuệ chơn minh liễu,

                                    Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ.

                                    Thế thế thường hành Bồ Tát đạo.

                                    Nguyện sanh Tây Phương Tịnh Độ trung,

                                    Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu.

                                    Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,

                                    Bất thối Bồ Tát vi bạn lữ.

                                    Nguyện dĩ thử công đức,

                                    Phổ cập ư nhứt thiết,

                                    Ngă đẳng dữ chúng sanh,

                                    Giai cọng thành Phật đạo.

 

                                                            TAM QUY Y

            Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát ḷng vô thượng. (1 lạy).

            Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rơ kinh tạng, trí huệ như biển, (1 lạy).

            Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lư đại chúng, hết thảy không ngại.(1 lạy).

                                    Nguyện đem công đức này.

                                    Hướng về khắp tất cả,

                                    Đệ tử và chúng sanh,

                                    Đều trọn thành Phật đạo.

***CHUNG***

 

PHẦN TÓM TẮT KÈM ANH NGỮ

Đời này làm quan tại v́ sao?

                                    Why you have becom an official in this life?

                                    Kiếp trước hiến vàng tô điểm Phật. Because in your past life you had offered gold to decorate Buddha statues.

                                    Kiếp trước xây dựng chùa, cất nhà mát.

                                    In your past life you had buit temples and rest houses.

                                    Kiếp này hưởng phước lộc trường thọ. Therefore in this life you enjoh long life, prosperity and happiness.

                                    Kiếp trước tụng kinh niệm Phật.

                                    In your past life you had recited sutras and Buddha names.

                                    Kiếp này thông minh trí tuệ.

                                    In this life you are a person of great wisdom.

                                    Kiếp trước dâng y cúng dường chư tăng.- You had offered robes to members of the Shangha in the past.

                                    Kiếp này mặc gấm mặc lụa.- At present you are bestowed with fine clothing made of silk and delicate materials.

                                    Kiếp trước dâng gạo cúng chùa.

                                    In your past life you offered rice to temples.

                                    Kiếp này hưởng phước nhà cao cửa rộng.

                                    In this life you live on luxurious houses.

                                    Kiếp trước hiến dầu đốt đèn cúng Phật.

                                    You had offered oil to light the lamps for the Buddahas.

                                    Kiếp này phước báu được mắt sáng.

                                    In this life you enjoy good eye sight.

                                    Kiếp trước hoa tươi cúng dường Phật.- In your past life you had offered fresh fresh flowers to the Buddhas.

                                    Kiếp này mặt mày trang nghiêm.

                                    In this life you enjoy great physical beauty.

                                    Kiếp trước tràng phan trang nghiêm cúng Phật.

                                    In your past life you had offered a banners to the Buddhas.

                                    Kiếp này vợ chồng hạnh phúc.

                                    In this life you enjoy happy marriage.

                                    Kiếp trước cúng dường chư Tăng.- In your past life you had donated for the support of the Sangha.

                                    Kiếp này được vợ thảo dâu hiền.- In this life you are blessed with virtuous wife and good daughters-in law.

                                    Kiếp trước kính trọng người cô độc.

                                    You had shown respects and help to the lonely.

                                    Kiếp này cha mẹ song toàn.

                                    In this life you are blessed with living parents.

                                    Kiếp trước cản người đi chùa, phỉ báng Phật giáo.- In your past life you had slandered Buddhism, Prevented people from going to the temples.- Kiếp này không bị sét thiên lôi th́ bị lửa đốt- In this life you are spared from being striken by thunder bolts, you can not escape from being burned.

                                    Kiếp trước chê cười người lạy Phật.

                                    You had made fun of people showing homage to the Buddhas.

                                    Kiếp này bị quả báo gù lưng.

                                    In this life you suffer from being a humpback.

                                    Kiếp trước gặp Phật pháp không tin.

                                    You had not believed in the Buddhas or in the Dharma.

                                    Kiếp này điếc đặc cả hai tai.

                                    In this life you are bom deaf.

                                    Kiếp trước chửi cha mắng mẹ

                                    In your past life you had slandered and scolded your parents.

                                    Kiếp này bị quả báo câm ngọng.

                                    In this life you are bom dumb or stuttering.

                                    Kiếp trước coi thường khinh rẽ chồng.

                                    In past life you had slighted your husband.

                                    Kiếp này trở thành quả phụ cô đơn.

                                    In this life you becom a widow when you are still young.

                                    Kiếp trước thường phóng sanh thả chim.

                                    In your past life you had released birds.

                                    Kiếp này hưởng phước đông con nhiều cháu.- In this life you are blessed with many children and grand children.

                                    Kiếp trước thường phóng sanh thả cá.

                                    In your past life you had released fish to the water.

                                    Kiếp này hưởng phước trường thọ.

                                    This life you enjoy longevity.

                                    Kiếp trước bất hiếu đánh cha đập mẹ.

                                    In your past life you had beaten your parents.

                                    Kiếp này quả báo tay chân tật nguyền.

                                    This life you suffer from being a disabled.

                                    Kiếp trước gắt gỏng thù ghét hận người.

                                    In your past life you had shown hatred to people.

                                    Kiếp này bị quả báo nuôi con không chóng lớn.

                                    This life you bear the hardship in raising your children.

                                    Kiếp trước cúng dường Tam Bảo phước điền.

                                    In your past life you had supported the Triple Gems.

                                    Kiếp này không quan chức, cũng được giàu sang.

                                    In this life you either become an official with good standing or a rich person.

                                    Kiếp trước thiếu nợ không trả.

                                    You had not paid your debts in your past life.

                                    Kiếp này làm thân trâu ngựa để trả.

                                    You would be born as a horse a buffalo to repay.

                                    Kiếp trước xử tệ, ngược đăi thú vật.

                                    You had badly treated animals.

                                    Kiếp này ghẻ mọc đầy người.

                                    You, in this life, you suffer from skin diseases.

                                    Kiếp trước xây cầu đắp đường lộ.- In your past life, you had built roads and bridges. Kiếp này ngồi kiệu lên, lên xe, xuống ngựa.- This brings you life comforts and conveniences; all means of transportation are acailable tio you.

                                    Kiếp trước phá hoại cầu đường.

                                    You had destroyed roads and bridges in the past.

                                    Kiếp này què cả hai chân tật nguyền.

                                    You therefore would be born as a crippled.

                                    Kiếp trước thản nhiên trước tai nạn kẻ khác.

                                    You had been indifferent to others’worries and sufferings.

                                    Kiếp này suốt đời người mang tật bệnh.

                                    In this life, you live a miserable life, full of illnesses.

                                    Kiếp trước thấy nguy không cứu làm ngơ.

                                    You had ignored, showing no concerns to others.

                                    Kiếp này suốt đời ngồi tù thui thủi.

                                    This brings you a lonely existence, being incarcerated.

                                    Kiếp trước kết oán gieo thù.

                                    You had caused hatred, making enemies of many people.

                                    Kiếp này không bị rắn cắn, cũng bị cọp vồ.

                                    You therefore would be bitten by a snake or devoured by a tiger.

                                    Kiếp trước dành lợi ḿnh để hại người khác.

                                    You had caused hdrms to others for your personal benefits.

                                    Kiếp này lănh nghiệp chết treo khổ đời.- In this life you would end your miserable existence by hanging yourself.

                                    Kiếp trước vong ơn bội nghĩa.

                                    You had shown no gratitude, had betrayed others.

                                    Kiếp này quả báo làm thân nô tỳ.

                                    You would in this life born as a slave or servant.

                                    Kiếp trước khinh bỉ người giúp việc.

                                    You had badly treated your servants in your past.

                                    Kiếp này thân h́nh gù lưng xấu xí.

                                    You would be born as an ugly humpback.

                                    Kiếp trước gạt người mù.

                                    You had cheated the blind in your past life.

                                    Kiếp này không làm chó cũng làm heo.

                                    You would be born as a dog or a pig.

                                    Chỉ đường dẫn lối, được mọi người kính nể.- To give a helping hand to others is to get admiration and repect in return.

                                    Kính người già yếu được phước huệ trường thọ.- To show respect to the elders is to enjoy a happy, long life.

                                    Kiếp trước cười chê người ăn mày ăn xin.

                                    In your past life, you had made fun of beggars.

                                    Kiếp này chết đói ngoài đường ngoài lộ.

                                    In this life you would be starving, a homless person.

                                    Kiếp trước bố thí cơm gạo cho người nghèo.

                                    You had given alms to the poor in the past.

                                    Kiếp này hưởng phước báo có ăn có mặc.- You would, at present, enjoy a life of plenty, well-fed and and well-clothed.

                                    Kiếp trước thích dèm pha nói xấu người.

                                    You had slandered, spoken ills of others in your past life.

                                    Kiếp này bị quả báo thuốc chết.

                                    You would be harmed in taking poison.

                                    Kiếp trước thích đâm thọc chuyện người.

                                    You had fabricated stories to harm others in the past.

                                    Kiếp này ói máu lênh láng.- You would suffer from internal diseases by vomiting blood.

                                    Kiếp trước thông dâm vợ người.

                                    You had committed adultery in your past.

                                    Kiếp này quả báo suốt đời cô độc.

                                    You would suffer by living a lonely life.

                                    Kiếp trước không thương vợ thương con.- You had not loved your betrothed, your chidren in your past.

                                    Kiếp này cô độc lẻ loi một ḿnh.

                                    You would suffer from being alone in this life.

            Không tin Phật pháp, hủy báng Tam Bảo, hăm hại người hiền, chịu quả báo cắt lưỡi, chặt bằm, nước đồng sôi, lửa đốt, quỷ tốt đâm chém…- To have no faith in the Buddha, in the Dharma; to slander the Triple Gems; To do harm to the virtuous would result in having your tongue cut off, your body sliced into pieces; being put in boiling water, in scorching fire; being slahed and pierced by devils demons.

            Không tin nhân quả luân hồi, tạo nhiều tội ác phải chịu quả báo ôm trụ đồng cột lửa đỏ, luộc trong chảo nước đồng sôi, chịu nhiều h́nh phạt thống khổ.- To have no faith in the laws of causation and rebirth and to do bad deeds, one would bi as a result, being tied up along burning copper column, being put into a cauldron full of melted copper, under going many suttering.

            Ác khẩu gian dối, thêu dệt thị phi, nguyền rủa Tăng ni, khinh chê Phật pháp, chết đọa địa ngục ngậm ḥn sắt nóng, cối giă vào miệng, quỷ tốt xích xiềng. Lying, slandering, fabrication, cruel words in regards to the Sangha, the Buddhas and the Dharma, are causes for being shackled by demons.

            Hộ tŕ Tam Bảo, cúng dường chư Tăng, cứu giúp người nghèo, được phước báu phú quư vinh hiển.

            To support the Triple Gems, to give alms to the Sangha and to the poor would result in happy, prosperous and healthy life.

            Phát tâm đúc tượng Phật, được phước báu tiêu tai giải nạn, bệnh hoạn tiêu trừ, gia đ́nh hạnh phúc.

            To build a Buddha Statue is to obtain a happy life, free of illnesses and calamities.

            Thành tâm lạy Phật nghiệp chướng được tiêu trừ, mẹ hiền con hiếu, mọi điều như ư, đời sống an lành, từ quang phổ chiếu. To worship the Buddhas is to obtain a happy life, full of shining lights, freed from bad karma, with virtuous mother, pious children. In short a happy, harmonious family.

                                                   

                         

---o0o---
 

Thiên-Lư Bửu-Ṭa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674

Website: www.thienlybuutoa.org     Email    Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT

Thông bạch in Kinh