13.- DƯỢC VẬT - LƯ ĐĂNH
Tư thời, đêm 15 tháng 01 năm Giáp
Dần - Đại Đạo 48 (06.02.1974).
THI
NGUYÊN lai vô sắc diệt vô sanh,
THỦY phán âm dương lưỡng thể thành.
THIÊN Địa hàm dinh chiêu nhật nguyệt,
TÔN thừa cương kỹ huợt thời sanh.
Tôn Sư đại hỷ chư hiền Hội Thánh. Miễn lễ, an tọa, tịnh
tâm nghe Tôn Sư dạy về: "Dược vật và Lư đănh".
Có Chân Dược mới tạo thành Chân Đơn, mới tạo nên Chân Chủng
Tử hay Xá lợi.
Sở dĩ nơi người có Chân Dược phát sanh là do công phu Thiền
Định đến trạng thái Thái Cực, tức nơi người có hiện tượng hốt hoảng như tỉnh,
như mê.
Chân dược có Chân Diên và Chân Hống.
Lúc động th́ hai khí này cách nhau; lúc tịnh th́ hai khí
này hiệp một và thành Chân Dược, gọi là Linh căn sơ phân nơi thời hổn
độn, là sanh vật của Tổ Khí. Lúc hàm tàng th́ vốn Chân Không; lúc phát động
th́ thành Diệu Hữu; lúc dụng sự th́ thành Đạo Tâm; lúc ôn dưỡing th́ tạo nên
Cốc Thần. Chí Vô mà hàm súc chí Hữu; chí Hư mà dung chứa vật chí Thực. Trong
đó có khí Ngũ Hành mà không có chất Ngũ Hành. Tàng ẩn nơi trong Ngũ Hành mà
không đọa lạc vào Ngũ Hành. Làm Thánh, làm Tiên đều do báu vật này.
Chỉ v́ con người bị Thức Thần làm chủ nên vật chí hữu này
ngày một tẩu thất, khiến Tánh, Mạng phải bị tàn tạ theo thời gian.
Chư Hiền nhờ có duyên lành nên được gặp cơ phổ hóa, phải
sớm tỉnh ngộ, cầu lấy chân truyền mà vượt lên cơi Thánh.
Tôn Sư không nỡ nh́n thấy chư Hiền bị quanh quẩn mất nhiều
th́ giờ mà không đi đến đích, nên điểm truyền công phu: "Kim dịch huờn
đơn" để viên măn pháp môn "Thất phản cửu huờn" cho Chân Dược
viên thành trong cơ Thiền Định.
Có Thất phản mà không có Cửu huờn th́ dược
chẳng thành chân, tức là lạc vào nẽo cô âm độc dương như chư Hiền đă
hiểu.
Tiếp dạy về pháp "thể dược":
Thể dược: là hái thuốc, là pháp môn trọng yếu
của cơ Thiền Định.
Thể dược gồm có bốn công phu: Thể Dược, Huân Chưng,
Phong Cố và Vận Hành.
- Thể dược phải thể Chân Dược, xuất phát từ cơ
Chân động (Tâm không động).
- Thể dược phải đúng lúc là lúc Thiên Cơ triền động,
là đúng thuốc không già, không non.
- Thể dược phải đúng pháp là trước văn, sau vơ.
Thể mười lần hoặc thể hai mươi lần cho đến lúc nào dương
quan không c̣n động nữa, tợ như quy túc (rùa ngũ) mới tṛn công. Phải dùng
Chơn Ư mà vận động hai Khí ở trong để chiêu nhiếp cho nó quy căn.
Huân chưng: là nấu thuốc. Nấu thuốc chỉ dùng
Văn hỏa, chủ đích là để thuần dương hóa chơn đơn.
Phong cố: Thuốc đă nấu xong phải gói, phải
cất, gọi là phong cố. Phong cố bằng phương pháp: đóng sáu cửa cho bền then
khóa, tức là lục căn bất động.
Vận hành: Cuối cùng là vận hành, tức Vận Châu
Thiên. Châu Thiên ở đây là để điều hành Chân Dược. Rồi tiếp tục tịnh để
chờ Chân động.
Luyện kim đơn là thể theo đức nhu thuận của Khôn để làm
"lư", tuần tự tiệm tiến; thể theo đức cương kiện của Càn để làm "đănh", mănh
phanh cấp luyện. Thường cương thường nhu, thường kiện thường thuận. Chí niệm
kiên cố, càng lâu càng có năng lực th́ Đănh Lư được ổn định, chẳng dao chẳng
động mới nên thể được vận Hỏa.
- Khi ngưng Thần nhập Khí huyệt th́ Thần là Đănh, Khí là Lư.
- Lúc thể dược th́ gọi Khí là Lư, Thần là Hỏa.
- Lúc tàng phục chân khí th́ Thần là Lư, Khí là Dược.
- Lúc Vận Châu Thiên, khi vận khí lên Càn cung th́ Càn là
Đănh, Khôn là Lư.
- Lúc giáng hạ quy căn: Ly là Đănh, Khảm là Lư.
Tóm lại: Lư Đănh là Thần Khí. Có thấy được cơ Thần Khí khởi
phục mới nhận chân được Lư Đănh. Tức là Thần Khí phục ở đâu th́ Lư Đănh ở đó,
nếu không có Thần Khí th́ không có Lư Đănh. Cho nên nói: Lư nhưng vốn thiệt
không Lư; Đănh nhưng vốn thiệt không Đănh. Đó mới là Chân Lư Đănh.
THI
Luyện Đạo pháp truyền: trước luyện tâm,
Tâm không vướng bận những mê lầm,
Tham, sân, hỷ, nộ, muôn duyên đoạn,
Thường tại hư linh thị bửu châm.
THI
Bổn lai diện mục thị Chân Như,
Nhất điểm linh quang tại Thái Hư,
Đốn ngộ chân tâm huờn tự tánh,
Vô lai, vô khứ diệt vô dư.
Đàn dạy đến đây tạm ngưng, đàn sau sẽ dạy tiếp. Tôn Sư ban
ân lành cho tất cả.
Thăng...
|