Trở lại trang chánh của Website Thiên Lư Bửu Ṭa

 

24.- KHAI XUÂN TÂM ĐẠO

TRÚC-LÂM THIỀN-ĐIỆN, Tuất thời mồng 7 tháng Giêng Nhâm Tư (22-2-1972)

____________

Thi:

VẠN duyên đốn tuyệt những mê trần,

HẠNH phước vô vàn tạo Phật thân,

THIỀN trượng tĩnh tâm người ngủ gật,

sinh b́nh đẳng một chơn thần.

      VẠN-HẠNH THIỀN-SƯ, Bần Tăng chào mừng chư Thiên-mạng, mừng chư hiền đệ hiền muội đẳng đẳng đàn tiền. Giờ nay Bần Tăng giáng cơ để chứng ḷng thành của chư hiền đệ hiền muội nhân dịp lễ khai mạc Vạn Hạnh Đạo Tràng tân niên Nhâm-Tư, và ban ơn sự hiện diện của chư đệ muội, chư Thiên-ân và sự chấp thuận trước hoàn cảnh. Tuy nhiên, Bần Tăng cũng gởi đến cho chư hiền đệ hiền muội hiện diện hay khiếm diện đôi ḍng đạo lư.
Thể theo tinh thần của cuộc khai mạc tân niên này, Bần Tăng sẽ nói với chư hiền đệ muội qua vấn đề “KHAI XUÂN TÂM ĐẠO”. Vậy Bần Tăng miễn lễ đàn trung an tọa.

      Này chư hiền đệ hiền muội! điều Bần Tăng muốn nói cùng chư hiền hôm nay là “KHAI XUÂN TÂM ĐẠO” và được phân chia vài giai đoạn như sau:

 

THỨ NHỨT: VỀ XUÂN THEO KHÍ TIẾT THỜI GIAN.

      Như chư hiền đệ muội thấy, thời gian nhân thế trong một năm được phân ra làm 4 mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Trong 4 mùa này, mùa Xuân là mùa mà chư hiền đệ, muội hằng để tâm lo lắng nhớ ghi, và hơn nữa là nó mang lại cho chư hiền một nguồn vui mới, một bước tiến sau khi dừng chân trong những ngày cuối năm đầy kinh nghiệm được thâu hóa bởi Đông tàn.

      Thật sự, mùa Xuân thời tiết chỉ là một sự chuyển ḿnh của vũ trụ tạo đoan, một chu kỳ vừa giáp mối trong khoảnh khắc ngắn ngủi của cuộc tuần hoàn. Ở đó, nó lập lại sự sinh tồn cho muôn loài vạn vật trên cơi tạm trần gian.
Đứng trên cương vị của một người nhân thế, thông thường th́ mùa Xuân được đề cao và quan trọng đúng mức của nó. Người ta không ngớt lời ca tụng mùa Xuân, và nhân đó mà chúc tụng với nhau. Cho nên những nỗi đau khổ tư sầu đều miễn cưỡng dẹp qua bằng những kiêng kỵ, bằng những nét hăo huyền.

      Tuy nhiên, thời gian Xuân tiết đó cũng gây được tiềm năng, cũng tạo ra yếu tố cho bậc chơn tu c̣n tại thế, nhận thấy tinh thần của mùa xuân vượt lên mức độ thông thường và đến chỗ đạt được ư niệm về Đạo trong lẽ miên trường.
Chư hiền đệ hiền muội ôi! Nếu quả mùa Xuân là mùa hạnh phúc, sinh động an vui, th́ hiện giờ chư hiền không phải vất vả v́ nỗi lo sợ phập phồng trước hoàn cảnh thế nhân, trên mặt đất này không c̣n âm ba ai oán đau thương nào hừng hực vang lên khoảng vô biên, và nếu mùa xuân lại là mùa thánh thiện b́nh an th́ tự mỗi cá nhân của chư hiền không cảm thấy buồn tẻ v́ cảnh ngộ, đớn đau v́ bệnh hoạn. Như vậy, tiết Xuân của tuần hoàn nó chỉ đặt ở giai tầng sinh hóa thể chất vạn vật ở cơi hữu h́nh mà thôi, như hoa, như cỏ chẳng hạn. Là người chơn tu dù có sống trong cơi trần trải qua hằng những bốn mùa tám tiết cũng không chuyển theo ảnh hưởng đó, mà phải thông đạt được ư Đạo trong Xuân vĩnh cửu.

 

THỨ HAI: VỀ XUÂN THEO LƯ ĐẠO KHÔNG THỜI.

      Chư hiền đệ muội cũng đă hiểu mùa Xuân là mùa đầu của một năm. Nói theo đạo biến dịch th́ nó ứng vào quẻ “KIỀN” và ôm trọn đức “NGUYÊN”.

      Bần tăng dựa vào chữ Xuân thông thường đó để tạm diễn tả lên lư Đạo của Trời, mà Đạo của Trời không chỉ thị hiện ở một sát na, một thời tiết nào đó thôi. Đạo của Trời luân lưu bàng bạc khắp mọi nơi và mọi thời, sự vận hành của Đạo không một phút giây nào ngừng nghỉ, đầu mối (tức đức Nguyên) của Đạo Trời cũng không phải là đầu mối một chiều và có cái cuối cùng nữa đâu. Đức Nguyên vốn là độc nhất. Cái lư này là căn cơ của Trời, là chủ nhân ông của người không bao giờ hư mất. Nhờ nó mới sinh ra biết bao hiện tượng, hay nói theo nhà Phật th́ nó sinh ra vạn pháp thế gian vậy.

      Khi biết được đức Nguyên vốn cương kiện sinh tồn ấy, chư hiền đệ hiền muội sẽ t́m thấy ngay mùa Xuân và hưởng ngay những trạng thái an lạc tự tại trong lẽ Đạo của Trời.

      Muốn hưởng được trọn Xuân Đạo ấy, cũng phải hội đủ những yếu tố này:

 

      1.- Là quan niệm về Đạo.

      Này chư hiền đệ hiền muội! Từ xưa đến nay, một số lớn người ta hễ nghe nói tới Đạo là h́nh dung ngay tới những chùa chiền, thánh đường, thánh thất hay màu áo nâu sồng, hoặc những thể tướng từ một vài tôn giáo nào đó bày ra, rồi một khi trên bước hoạn đồ thế sự gặp những trở ngại, những chồn chân nào, họ bèn giũ áo thường nhân để khoác vào ḿnh một manh áo nhà tu và tôn thờ một vị giáo chủ, thần linh theo tín ngưỡng mà họ nhập môn.

      Họ nhận thấy Đạo là ở đó. Đến chừng trong tổ chức tôn giáo ấy xảy ra những băng hoại nào đó th́ họ lại cho là Đạo không tốt, Đạo không mang lại cho đời người một chút mầm sống nào. Họ thất vọng ĺa bỏ manh áo mà họ tôn thờ, để sống với đời sống bơ vơ không đời không Đạo, mà họ không bơ vơ sao được, khi mà quan niệm sai lệch quá xa về danh từ Đạo với tôn giáo đối với đời.

      Thoạt tiên, v́ chính người ấy một phần và tại trợ duyên bên ngoài một phần, nên khiến họ vô t́nh phân chia Đạo đời đôi ngă và hiểu Đạo quá hẹp ḥi nông cạn đóng khung.
Thế là chư hiền xác định lại Đạo vẫn là Đạo, nó có được phổ cập đến nhân gian để mà sinh tồn hay không là do sứ mạng của tôn giáo. Cũng như đồng bằng kia có tiếp nhận được nước hay không là do những đường kinh, những con rạch dẫn vào từ sông sâu biển cả.

      Chi nên, t́nh trạng khẩn trương trong lănh vực tôn giáo hiện tại thật là phức tạp bởi nhiều tôn giáo chi nhánh ra đời, mà ḷng người hầu hết chưa suy cạn về Đạo, nên dễ bị ngộ nhận hoang mang từ hàng lănh giáo tới bực tín đồ.
Sứ mạng tôn giáo là đem nhân tố sinh tồn cho loài người, nhưng giữa các tôn giáo có sự va chạm tỵ hiềm nhau, nên sứ mạng ấy chẳng những không thực hiện được, mà trái lại đă gây ra sự đổ vỡ tinh thần cho dân tộc, cho nhân loài.
Kể ra vài nét đại cương về t́nh trạng ấy Bần Tăng muốn làm nổi bật lên sứ mạng của hiền đệ hiền muội trong Tam-Kỳ Phổ-Độ. Sứ mạng này không phải đem ra tranh tài với những người bạn tôn giáo khác, để mong tập thể ḿnh, danh nghĩa ḿnh được đề cao, được rạng rỡ trên đường thế giới, rồi sanh ra những nghi ngờ, những tỵ hiềm lẫn nhau. Nhưng sứ mạng này phải vượt lên tất cả những thói thường ấy. Nó phải đặt vấn đề giải quyết t́nh trạng xung đột tinh thần nhân loại với nhau qua bóng h́nh tôn giáo. Tức nhiên chư hiền đệ muội không phải bi quan trước t́nh trạng dầu sôi lửa bỏng đến độ trầm trọng tinh thần ấy, mà phải b́nh tĩnh để mang tư tưởng thuần chơn, mang t́nh thương duy nhất từ Thượng-Đế chan ḥa trong những tập thể khác, những màu sắc khác để nhằm khiến họ ư thức được sứ mạng của chính ḿnh, của chính mỗi người, của chính mỗi tôn giáo đều mang lại cho con người trần tục một nhân tố sinh tồn theo lẽ Đạo thuần lương.

      Mỗi người có mỗi cách để làm lành để hướng thiện th́ cứ như vậy mà tiến tới chỗ nhắm cuối cùng sẽ đồng đến với nhau. Câu “Đồng qui nhi thù đồ, nhất tri bách lự” là tư tưởng muôn đời không phai với Đạo vậy.

 

      2.- Là không chấp trước.

      Thiên hạ thường nói: cái ǵ đến rồi sẽ đến. Chư hiền đừng hoài công mong mỏi hay sợ hăi trước một sự kiện xảy ra. Ngay trên địa hạt tu hành cũng thế. Hiện tiền dốc ḷng tin kính Đạo Trời, đem thân bồi đắp công quả công phu đầy đặn với một ḷng thanh thản tự nhiên, không mong vọng cho ngày mai được tai qua nạn khỏi, được hưởng cảnh phú quí vinh hoa hay được Phật Trời đoái tưởng. Hăy để việc làm của ḿnh diễn tiến theo luật tự nhiên như trời đất.

      Trời ban ngày soi sáng cho muôn loài, đem đến sự ấm áp cho muôn loài sống lấy, ban đêm đem đến cho muôn loài sự ngơi nghỉ yên tịnh và tùy vật nào an cho vật ấy một bổn phận. Nhưng Trời che kia nào mong làm việc ấy để chi? Đất nọ chở hằng hà sinh vật cũng nào mong nhận lại tấm ân ǵ? Quả nghiệp chư hiền gắng trả, công đức chư hiền cố bồi, không vọng động điều chi sẽ được Đấng Toàn Năng soi xét.

      Về thời cuộc cũng thế, hoàn cảnh bi đát nếu tới lúc do cơ trí con người sắp đặt diễn ra lúc nào th́ chư hiền sẽ hay lúc ấy, chớ bận ḷng chấp trước rồi hao tổn tinh thần có khi vô ích. Đành rằng phải có sự chấp trước, tức toan liệu giới hạn nào đó để sống đời giả tạm, nhưng không quá lệ thuộc vào những lo lắng bâng quơ để đánh rơi tâm Đạo.

 

      3.- Là chế ngự ḷng phàm.

      Thật sự con người ai ai cũng cưu mang hai thái cực đối đăi với nhau là thiện ác, thánh phàm.

      Là người học đ̣i theo hạnh Thánh, th́ sự dứt bỏ tánh phàm được ngần nào hay ngần ấy, luôn luôn giữ ḷng thanh tịnh trước mọi cám dỗ của giận hờn, của ganh ghét, của ham muốn, của si mê, để quyết định đúng đường trên nhiệm vụ tu thân hành đạo. Chơn lư vốn ở chỗ b́nh đẳng như thanh tịnh, nếu t́m nó trong những cơ hội xáo trộn của tâm hồn bằng tham sân si hay thất t́nh lục dục th́ làm sao nhận ra chơn lư Đạo mầu? Không khéo nhận lầm ma vương là Thần Thánh th́ nguy hại lắm vậy!

      Đó là một vài yếu tố căn bản để chư hiền đệ hiền muội nhận thấy ư xuân trường cửu của lẽ Đạo Trời, ngày đêm vận hành không thôi, ngơ hầu bắt chước theo đó mà “tự cường bất tức”, nhứt là trong thời kỳ này. Nếu ngừng nghỉ khoảnh khắc nào trong việc hành Đạo, th́ để chút kẻ hở cho gió độc thế tục lọt vào ngấm ngầm trong ấy lâu ngày biến thành bệnh hoạn khó khăn lắm đó. Hỡi chư hiền đệ hiền muội! Những mùa Xuân qua, những ngày Xuân qua, chư hiền có thấy c̣n không những phong độ an nhàn thanh thoát của đức Nguyên sinh hóa này?

Thi:

Nhắp chén trà sen vị ngạt ngào,

Hương Xuân nồng ấm thú tiêu dao,

Ḱa hoa hoa nở v́ ai đó,

Theo luật sinh tồn Đấng tối cao.

Cao vọi kiền khôn thỉ tới chung,

Quyền năng Tạo Hóa đă vô cùng,

T́nh thương vạn đại ḥa chan khắp,

Lai tảo lai tŕ vẫn một khung.

Khung cửa rèm che áng gió Xuân,

Người ơi! hăy cuốn tấm phong trần,

Cho ḷng hứng lấy nguồn sinh lực,

Cho chí vươn lên ngọn đuốc thần.

Thần Đạo c̣n chăng với núi sông,

Sông nghiêng núi ngửa xót xa ḷng,

Ḷng dân những cắt chung ḍng máu,

Máu chảy ruột kia cũng năo nùng.

Năo nùng chi bấy nữ nam ôi!

Thế sự xuống lên có mấy hồi,

Thấy lở th́ bồi, dơ cứ rửa,

Bồi cho dẻ đất, rửa cho tươi.

Tươi đẹp làm sao đóa hướng dương,

Thế Thiên hành hóa kíp lên đường,

Cởi đi lớp áo phàm phu cũ,

Tân nhựt nhựt tân đạo tỏ tường.

 

        Thăng...

 

Thiên-Lư Bửu-Ṭa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674

Website: www.thienlybuutoa.org     Email    Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT

Thông bạch in Kinh