15.-
THAM THIỀN NHẬP ĐỊNH
MINH-LÝ
THÁNH-HỘI
Tuất
thời Mùng 3 tháng Giêng Canh-Tuất (8-2-1970)
________
Thi:
Thiên
quang rực rỡ Chúa Xuân về,
Ðem
Ðạo khuyên đời tỉnh giấc mê,
Hiệp
sức chung tay xây Thánh Thiện,
Nguyên
Nhân mới trọn vẹn câu thề.
VẠN-HẠNH THIỀN-SƯ,
Bần Tăng chào mừng chư hướng Ðạo, mừng chư đạo hữu đạo
tràng.
Nhân tiết Xuân sang, Bần Tăng đến
trước thăm viếng chư đạo hữu, sau có một đôi lời đạo
đàm cùng chúc Xuân trên bước đường thế Thiên hành hóa.
Ðã là đồng chung nhiệm vụ, đồng
chung sứ mạng nên cảm thông nhau. Tuy xa cách nơi cõi dương
gian và miền Phật cảnh, nhưng tâm hồn vẫn còn tưởng nhớ
nhau, thì sự xa cách kia không còn là vấn đề. Bần Tăng mong
ước chư đạo hữu kiên tâm trì chí để vượt qua những nổi
khó khăn mọi mặt trên cõi vô thường nầy mà tăng tiến
trên bước đường hành Ðạo, dày công lập đức để sớm
trở về cùng đoàn viên nơi non Bồng nước Nhược.
Chư đạo hữu ơi! Nếu lấy theo
nhận xét của thế nhân thì xem cõi đời nầy là nơi đủ mùi
vị vui buồn cùng sướng khổ, nhưng nếu lấy theo nhận xét của
bậc giác ngộ, hay nói xa hơn nữa là sự nhận xét của hàng
Tiên Phật, thì cõi đời nầy là chốn sông mê bể khổ. Con
người sinh trưởng nơi đây để chịu sự trui rèn đúc giũa
để trở nên hàng Tiên Phật sau thời kỳ trả quả nghiệp
duyên. Những điều mà thế nhân gọi là vui, là hạnh hưởng,
đó là những điều tạm bợ cho con người lấy đó an ủi để
chịu đựng bớt căng thẳng thần kinh trong thời kỳ trui rèn
đúc giũa.
Có hiểu được như vậy mới
quan niệm được hướng đi của con người trong cõi vô thường
nầy.
Lời thường nói: "Tu nhứt
kiếp, ngộ nhứt thời". Lời ấy không ngoa, nhưng có sai
bởi nơi người nhận xét mỗi cách khác nhau.
Chư đạo hữu thử nhìn một cội
cây hoặc hoa quả đang lên, mỗi mỗi đều trong luật tiệm tiến,
từ bé đến lớn, từ thấp lên cao, theo thời gian trưởng
thành. Sự tu tiến của người cũng thế, không phải suốt một
đời gây ra bao điều tội ác, chỉ có một giờ hối ngộ là
được thành Phật nên Tiên. Nếu quan niệm như vậy thì còn
đâu là luật công bình của Tạo Hóa.
Có thể xem đạo nghiệp cùng tác
phong đạo hạnh của một người trong kiếp hiện tại mà đoán
được trong những kiếp quá khứ. Thế nên người tu hành
luôn luôn thận trọng gìn giữ thân tâm từ ngày, từ giờ,
từ phút, từ ý nghĩ, lời nói đến hành động.
Vì là kiếp người đang trong lò
trui rèn, thì bao nhiêu ngoại cảnh xảy đến rất phức tạp
chen lấn trong sự giao tế của nếp sống hằng ngày. Phải cố
gắng phân tách lọc lược những điều thuần thiện hạp Ðạo
Lý để mà suy, mà nói, mà hành.
Ðường Ðạo tuy rộng thênh thang,
nhưng chung qui chỉ có hai lối là: Bến Mê và Bờ Giác.
Hễ giác là được Tịnh Ðộ siêu thăng, còn mê thì trầm
luân trong lục đạo luân hồi. Trong chỗ giác mê cũng lắm điều
phức tạp, tùy theo nhận xét của mỗi người. Có người tự
biết mình mê, sớm tìm về nẻo giác. Còn người tuy chưa biết
mình mê nhưng được sự chỉ dẫn liền phục thiện để xa lối
mê quày về nẻo giác. Trong lúc đó, cũng có người đã
giác mà lại giả đò mê. Ðiều nầy mới là trở ngại rất
lớn cho sự tiến hóa.
Thế nên hai chữ "Sắc Không,
Không Sắc" người tu thường lẫn lộn, nói rằng "Sắc
tức thị Không, Không tức thị Sắc".
Ðã nói rằng Ðạo, cuối cùng của
Ðạo là "Không", mà hữu thể vạn vật đang có kia
mà? Còn nói rằng "Sắc" thì sao không vật gì trong vạn
loại trường tồn miên viễn mà phải nay đổi mai dời?
Vậy thì người tu phải khổ công
tìm học để hiểu và hành cho rõ những điều "Không, Sắc".
Chư đạo hữu ơi! Bần Tăng quan
sát qua một vòng thấy phần đông chư đạo hữu đã được
thực hành phương pháp tham thiền tịnh định, hoặc một số đạo
hữu đang muốn nhập định tham thiền. Bần Tăng cho việc đó là
tốt lắm, vì con người trong cõi phàm, muốn thay hồn đổi xác,
hoặc xuất thần đến một cõi Phật Tiên, điều sơ đẳng là
phải qua được cửa tham thiền nhập định. Nhưng mỗi đạo hữu
đã thực hành rồi có thấy được sự nhập định của mình
có thật đại tịnh hay chưa? Có xem mà không thấy, có lắng mà
không nghe, có ngửi mà không mùi, có ngồi mà không tọa,
có suy nghĩ mà không trầm tư chăng? Hay vẫn còn trong trạng
thái: càng nhắm mắt lại thấy sự vật càng to tướng, càng
tịnh nhĩ càng nghe rõ âm vang, càng tịnh tỷ càng cảm thấy mùi
thơm ngào ngạt, càng tịnh tọa càng nghe tay chân mỏi, lưng ngứa
ngáy khắp cả châu thân, càng kềm lòng yên định càng nhớ
đến trăm muôn ngàn việc còn dở dang bận rộn, càng tịnh tâm
càng nhớ đến những ân oán vui buồn tự mấy mươi năm
trong quá khứ! Có trả lời được những câu hỏi ấy mới
làm chủ và thấy được mức tu tiến của mình.
Thông thường nơi chỗ tịnh là một
nơi lặng lẽ xa cách mọi hoạt động thường nhựt của thế
nhân, nhưng đó chỉ là hình thức của phần tịnh nơi buổi ban
sơ, cố gắng tập làm sao đến khi ngồi giữa chợ đông mà
mắt không thấy người, tai không nghe tiếng, mũi không còn
biết hơi, thân không còn biết giao động, trí không còn tưởng
vu vơ, đó mới thật là Ðại Tịnh. Có Ðại Tịnh thì thần mới
tụ, tụ rồi mới xuất phi thăng đến miền Thượng Giới. Khó
quá phải không chư đạo hữu? Nhưng không phải khó mà chẳng
ai làm được, vì từ chân núi vẫn có xe chạy đến chót núi
kia mà.
Như vậy kể cũng nhiều rồi. Bần
Tăng mỗi lần gặp chư đạo hữu là cảm thấy phải nói nhiều,
nói thêm về phương pháp cùng đường đi nước bước trong
phạm vi tu thân hành đạo.
Thông thường, Bần Tăng cũng không
quên để lời chúc nhau trong những ngày Xuân đến.
Thi:
Xuân
nầy đạo hữu rán lo tu,
Một
kiếp tu hành hưởng vạn thu,
Công
khó mót bòn không nản chí,
Công
trình, công quả rạng công phu.
Thăng...
|