Như
thế là chuyển thức thành trí.
Trong giáo môn chuyển tiền ngũ thức làm Thành Sở Tác Trí; chuyển thức thứ sáu
thành Diệu Quan Sát Trí, chuyển thức thứ bảy thành B́nh Đẳng Tánh Trí, chuyển
thức thứ tám thành Đại Viên Cảnh Trí. Dù thức thứ sáu, bảy là trong nhân
chuyển, thức thứ năm, tám là trên qủa chuyển, nhưng chỉ chuyển cái tên gọi mà
chẳng chuyển cái thể vậy. Trí Thông đốn ngộ tánh trí, bèn tŕnh kệ rằng:
Tam
thân nguyên ngă thể,
Tứ
trí bổn tâm minh,
Thân
trí dung vô ngại,
Ứng
vật nhậm tùy h́nh.
Khởi
tu giai vọng động,
Thủ
trụ phi chơn tinh.
Diệu
chỉ nhân sư hiểu,
Chung
vong nhiễm ô danh.
Dịch
nghiă:
Thể
ta sẵn tam thân,
Bản
tâm đủ tứ trí.
Thân
trí dung lẫn nhau,
Tiếp
vật tùy cơ ứng.
Mống
tâm tu là vọng,
Giữ
yên cũng chẳng chơn.
Nhờ
Sư thấu diệu chỉ,
Chẳng
c̣n kẹt danh tướng.
Tăng Trí Thường, người ở Quí Khê tỉnh Tín Châu, xuất gia lúc c̣n nhỏ tuổi,
quyết chí cầu kiến tánh. Một hôm đến tham lễ.
Sư
hỏi: Ngươi từ đâu đến,
muốn cầu việc ǵ? Đáp: Đệ
tử gần đây đến núi Bạch Phong ở
Hồng Châu lễ Hoà Thượng Đại Thông, nhờ
chỉ dạy cái diệu nghiă kiến tánh thành Phật,
nhưng chưa hết nghi ngờ, nên từ xa đến
đảnh lễ, mong Hoà Thượng khai thị.
Sư
hỏi: Hoà Thượng Đại Thông nói thế nào?
Ngươi thử nói xem.
Đáp: Trí
Thường đến đó trải qua ba tháng chưa
được chỉ dạy, trong ḷng tha thiết v́ Pháp,
nên một hôm vào trượng thất hỏi Thế nào
là bản tâm bản tánh của Trí Thường?
Ḥa
Thượng hỏi: Ngươi thấy hư không
chăng?
Đáp: Thấy.
Hỏi:
Ngươi thấy hư không có tướng mạo chăng?
Đáp: Hư không vô h́nh đâu có tướng
mạo!
Ḥa Thượng nói: Bản
tánh của ngươi cũng như hư không, chẳng
có một vật để thấy gọi là chánh
kiến, chẳng có một vật để biết
gọi là chơn tri, chẳng có xanh vàng dài ngắn,
chỉ thấy bổn nguyên thanh tịnh, giác thể sáng
tṛn, gọi là kiến tánh thành Phật, cũng gọi là
tri kiến của Như Lai. Đệ tử dù nghe nói như
vậy mà tâm c̣n chưa lănh hội, xin Hoà Thượng
khai thị.
Sư nói: Cái thuyết
của Đại Thông vẫn c̣n tri kiến nên khiến ngươi
chẳng lănh hội. Nay ta cho ngươi một bài
kệ:
Bất
kiến nhất pháp tồn vô kiến,
Đại
tự phù vân giá nhựt diện,
Bất
tri nhất pháp thủ không tri,
Hườn
như thái hư sanh thiểm điện.
Thử
chi tri kiến miết nhiên hưng,
Thố
nhận hà tằng giải phương tiện.
Nhữ
đương nhất niệm tự tri phi,
Tự
kỷ linh quang thường hiển hiện.
Dịch
nghiă:
Chẳng
thấy một pháp thành vô kiến,
Như
mây đen che khuất mặt trời.
Chẳng
biết một pháp thành vô tri,
Lại
như hư không sanh điện chớp.
Như
thế vẫn c̣n chấp tri kiến,
Nhận
lầm chưa hiểu thấu phương tiện,
Ngươi
phải trong niệm tự biết quấy,
Ánh
sáng tự tánh thường hiển hiện.
Trí
Thường nghe xong hoát nhiên tâm ngộ, bèn nói
kệ rằng:
Vô
đoan khởi tri kiến,Trước tướng
cầu bồ đề.
T́nh
tồn nhất niệm ngộ.
Ninh
việt tích thời mê.
Tự
tánh giác nguyên thể,
Tùy
chiếu uổng thiên lưu.
Bất
nhập Tổ Sư thất,
Mang
nhiên thú lưỡng đầu.
Dịch
nghiă:
Khi
không khởi tri kiến,
Chấp
tướng cầu Bồ đề.
T́nh
chấp một niệm ngộ,
Khó
siêu nhiều kiếp mê.
Bản
thể tự tánh giác,
Tùy
chiếu vọng lưu chuyển.
Chẳng
vào thất Tổ sư,
Si
mê chạy hai đầu. (Hai đầu: nhị
biên, tức là biên kiến).
Một
hôm Trí Thường hỏi Sư: Phật thuyết pháp
tam thừa, lại thuyết tối thượng thừa
là thế nào? Đệ tử chưa rơ, xin Thầy dạy
bảo.
Sư nói: Ngươi
chỉ nên tự xét bản tâm, chớ chấp trước
pháp tướng bên ngoài, pháp chẳng bốn thừa, tâm
ngươi tự có sai biệt: Thấy nghe tụng
niệm là tiểu thừa; ngộ pháp hiểu nghiă là
trung thừa; y pháp tu hành là đại thừa; vạn pháp
thông đạt, vạn pháp đầy đủ, tất
cả chẳng nhiễm, ĺa các pháp tướng, trọn
vô sở đắc, gọi là tối thượng
thừa. Thừa nghiă là hành, chẳng ở nơi tranh biện, ngươi nên tự
tu, chớ hỏi ta vậy, trong bất cứ lúc nào, tự tánh tự như như.
Trí Thường lễ tạ, làm thị giả trọn đời bên Sư.
* * *
Tăng
Chí Đạo, người Nam Hải tỉnh Quảng Châu,
đến xin chỉ dạy: Đệ tử từ lúc
xuất gia đến nay, xem Kinh Niết Bàn đă hơn
mười năm nhưng chưa rơ đại ư, xin Hoà
Thượng chỉ dạy.
Sư
hỏi: Ngươi chưa rơ chỗ nào?
Chí Đạo
nói: Các hạnh vô thường là pháp sanh diệt, sanh
diệt diệt xong, tịch diệt làm vui (lạc đức).
Đệ tử nghi ngờ chỗ nầy.
Sư
hỏi: Ngươi nghi ngờ cái ǵ?
Đáp:
Tất cả chúng sanh có hai thân, gọi là sắc thân và
pháp thân. Sắc thân vô thường, có sanh có diệt,
pháp thân có thường, chẳng tri chẳng giác. Kinh nói
sanh diệt diệt xong, tịch diệt làm vui, chẳng
biết thân nào tịch diệt, thân nào được
vui? Nếu nói sắc thân được vui, sắc thân
lúc diệt th́ tứ đại tan ră, toàn thể là
khổ, khổ chẳng thể nói là vui. Nếu pháp thân
tịch diệt th́ đồng như cây cỏ ngói đá,
ai mà được vui? Lại pháp tánh là cái thể
của sanh diệt, ngũ uẩn là dụng của sanh
diệt, một thể năm dụng, sanh diệt là thường,
sanh th́ từ thể khởi dụng, diệt th́
nhiếp dụng trở về thể. Nếu cho sanh
nữa tức là loài hữu t́nh chẳng đoạn
chẳng diệt; nếu chẳng cho sanh nữa th́ vĩnh
viễn tịch diệt, đồng với loài vô t́nh,
như thế th́ tất cả các pháp đều bị
Niết Bàn ngăn cấm, sanh c̣n chẳng được,
có ǵ là vui?
Sư nói: Ngươi là
Phật tử, sao lại học tà kiến ngoại đạo,
chấp đoạn chấp thường mà luận bàn pháp
tối thượng thừa! Theo lời ngươi nói th́
ngoài sắc thân lại có pháp thân, ĺa sanh diệt
cầu nơi tịch diệt, lại cho thường
đức, lạc đức của Niết Bàn là có thân
để thọ dụng, ấy đều là mê chấp
và ham tiếc sanh tử, đam mê sự vui của
thế gian. Ngươi nay nên biết, Phật v́ tất
cả người mê, nhận lầm ngũ uẩn hoà
hợp là tướng tự thể, lầm cho tất
cả pháp là tướng ngoại trần, tham sống
sợ chết, niệm niệm trôi lăn trong lục
đạo, chẳng biết đều như mộng
huyễn hư giả, uổng chịu luân hồi, đem
thường đức, lạc đức của
Niết Bàn trở thành tướng khổ, suốt ngày
t́m cầu. Phật v́ thương xót cho những người
này, nên khai thị chơn lạc của Niết Bàn, sát
na chẳng có tướng sanh, sát na chẳng có tướng
diệt, cũng chẳng có sanh diệt để
diệt, ấy tức là tịch diệt hiện
tiền. Đang lúc hiện tiền, cũng chẳng có
số lượng hiện tiền, nghiă là chẳng có
một tí khái niệm nào về không gian, thời gian, và
số lượng của tịch diệt hiện
tiền, mới gọi là thường đức,
lạc đức, nghiă là chơn vui. Vui này chẳng có
kẻ thọ dụng, cũng chẳng có kẻ không
thọ dụng, há có cái tên gọi một thể năm
dụng sao! Huống là c̣n nói Niết Bàn ngăn
cấm các pháp khiến cho chẳng sanh, ấy là phỉ
báng Phật pháp. Hăy nghe kệ đây:
Vô
thượng Đại Niết Bàn,
Viên
minh thường tịch chiếu.
Phàm
ngu vị chi tử,
Ngoại
đạo chấp vi đoạn.
Chư
cầu nhị thừa nhân.
Mục
dĩ vi vô tác.
Tận
thuộc t́nh sở kế,
Lục
thập nhị kiến bản.
Vọng
lập hư giả danh,
Hà
vi chơn thật nghiă.
Duy
hữu quá lượng nhơn,
Thông
đạt vô thủ xả.
Dĩ
tri ngũ uẩn pháp,
Cập
dỉ uẩn trung ngă,
Ngoại
hiện chúng sắc tượng,
Nhất
nhất âm thanh tướng,
B́nh
đẳng như mộng huyễn,
Bất
khởi phàm thánh kiến,
Bất
tác Niết Bàn giải,
Nhị
biên tam tế đoạn.
Thường
ứng chư căn dụng,
Nhi
bất khởi dụng tưởng.
Phân
biệt nhất thiết pháp,
Bất
khởi phân biệt tưởng.
Kiếp
hỏa thiêu hải để,
Phong
cổ sơn tương kích.
Chơn
thường tịch diệt lạc,
Niết
Bàn tướng như thị.
Ngô
kim cưỡng ngôn thuyết,
Linh
nhữ xă tà kiến.
Nhữ
vật tuỳ ngôn giải,
Hứa
nhữ tri thiểu phần.
Dịch
nghiă:
Vô
thượng đại Niết Bàn,
Sáng
tṛn thường tịch chiếu,
Phàm
phu gọi là chết,
Ngoại
đạo chấp đoạn diệt.
Những
người tu nhị thừa,
Cho
đó là vô tác.
Thảy
đều do t́nh thức,
Sáu
mươi hai kiến chấp. (1)
Vọng
lập tên hư giả,
Đâu
phải nghiă chơn thật.
Chỉ
có người kiến tánh,
Thông
đạt chẳng lấy bỏ,
V́
biết pháp ngũ uẩn.
Với
cái ngă trong uẩn,
Cả
hiện tượng thế giới,
Mỗi
sắc tướng âm thanh,
B́nh
đẳng như mộng huyễn,
Chẳng
phân biệt thánh phàm,
Chẳng
cho là Niết Bàn.
Nhị
biên tam tế dứt. (Nhị biên:
đối đăi biên kiến; tam tế: quá khứ
hiện tại, vị lai).
Thường
ứng các căn dụng, (2)
Mà
chẳng khởi dụng tưởng,
Phân
biệt tất cả pháp, (3)
Chẳng
khởi phân biệt tưởng.
Niết
Bàn vốn phi vật,
Lửa
gió đụng chẳng được.
Chơn
vui thường tịch diệt,
Tướng
Niết Bàn như thế,
Nay
ta gượng nói ra,
Khiến
ngươi bỏ tà kiến.
Chớ
hiểu theo lời nói,
Mới
cho biết ít phần.
Chí
Đạo nghe xong đại ngộ, vui mừng đảnh
lễ lui ra.
GHI
CHÚ :
(1)
62 kiến chấp: Tứ cú x ngũ uẩn = 20, 20 x tam
tế = 60, 60 + thêm Hữu và Vô (nguồn gốc của
tất cả nhị biên đối đăi) = 62. Tất
cả kiến chấp đều không ở ngoài 62
kiến chấp này.
(2)
Thường ứng các căn dụng, mà chẳng
khởi dụng tưởng: Thường ứng là
tả sự dụng của tự tánh chẳng tác ư, như
bóng hiện trong gương, luôn luôn như thế. Ví như
dùng cơm chỉ là dùng cơm, chẳng có năng
sở, nên nói Thường ứng các căn dụng, mà
chẳng khởi dụng tưởng. C̣n dụng tưởng
th́ có tác ư, nên có năng sở, cho ta là năng dùng, cơm
là sở dùng.
(3)
Phân biệt tất cả pháp, chẳng khởi phân
biệt tưởng: Phân biệt tất cả pháp mà
chẳng tác ư ví như cơm chỉ là cơm, nước
chỉ là nước, c̣n phân biệt tưởng là có
tác ư, nên có cơm ngon cơm dở, nước trong nước
đục.
Hành
Tư Thiền Sư, họ Lưu, sanh ở An Thành,
tỉnh Kiết Châu. Nghe nói Tào Khê giáo pháp thịnh hành,
bèn đến tham lễ, hỏi: Nên làm việc ǵ để
khỏi lọt vào giai cấp?
Sư
hỏi: Ngươi đă từng làm
việc ǵ?
Đáp:
Thánh đế cũng chẳng làm.
Sư
hỏi: Lọt vào giai cấp nào?
Đáp:
Thánh đế c̣n chẳng làm, giai cấp nào mà có!
Sư
rất trọng, cho là pháp khí, cho làm quản chúng. Một
hôm Sư nói: Ngươi nên hoá
độ một nơi, chớ cho đoạn dứt giáo
pháp đốn ngộ này.
Hành Tư Thiền Sư đă
đắc pháp, bèn về núi Thanh Nguyên ở Kiết Châu
hoằng pháp, sau được vua sắc phong, hiệu là
Hoằng Tế Thiền Sư.
Hoài
Nhượng Thiền Sư, họ Đỗ ở Kim Châu. Lúc
ban đầu đến lễ An Quốc Sư ở Tung
Sơn, An Quốc Sư sai đến Tào Khê tham vấn.
Nhượng đến lễ bái.
Sư
hỏi: Từ đâu đến?
Đáp:
Tung Sơn.
Sư hỏi:Cái
vật ǵ mà đến như vậy?
Nhượng
trả lời chẳng được, nổi nghi t́nh
trải qua tám năm, sau nói với Sư: Nói tựa như
một vật th́ chẳng đúng.
Sư
hỏi: C̣n có thể tu chứng chăng?
Đáp:
Tu chứng th́ chẳng phải không, ô nhiễm th́
chẳng thể được. Sư ấn chứng
rằng: Chỉ cái chẳng ô nhiễm này chư Phật
đều hộ niệm, ngươi đă như
vậy, ta cũng như vậy.
Nhượng hoát nhiên
đại ngộ, bèn làm thị giả bên Sư mười
lăm năm, ngày càng thấu triệt huyền chỉ thâm
sâu. Sau đến núi Nam Nhạc, rộng truyền
Thiền Tông, được vua sắc phong, hiệu Đại
Huệ Thiền Sư.
Vĩnh
Gia Huyền Giác Thiền Sư, họ Đới quê ở Ôn
Châu. Thuở nhỏ tu học Kinh Luận, chuyên về pháp
môn chỉ quán của Thiên Thai Tông, nhân xem Kinh Duy Ma
Cật phát minh tâm địa (kiến tánh). Bỗng
gặp đệ tử của Sư là Huyền Sách
đến thăm, luận đàm với nhau; thấy
lời nói của Huyền Giác khế hợp với Chư
Tổ, Huyền Sách hỏi: Thượng
Tọa đắc pháp nơi Thầy nào?
Đáp:
Tôi nghe giảng Kinh Luận Đại Thừa, mỗi
mỗi đều có Thầy truyền thừa, sau xem Kinh
Duy Ma Cật ngộ tự tâm Phật, nhưng chưa có
Thầy ấn chứng.
Huyền Sách nói:
Trước thời Phật Oai Âm Vương th́
được, sau thời Phật Oai Âm Vương, không
Thầy mà tự ngộ, ấy đều là thiên nhiên
ngoại đạo.
Giác nói: Vậy
xin nhờ Thượng Tọa v́ tôi ấn chứng.
Sách
nói: Lời tôi chẳng đáng kể, ở Tào Khê nay có
Lục Tổ Đại Sư, các nơi đều tụ
tập đến đó để thọ pháp, hễ
đi th́ cùng nhau đi.
Huyền Giác bèn cùng với
Huyền Sách đến tham vấn. Khi đến gặp
Sư, Huyền Giác đi nhiễu ba ṿng rồi đứng
lại chống tích trượng.
Sư nói:
Bậc Sa môn phải đầy đủ ba ngàn oai nghi, tám
vạn tế hạnh, Đại Đức từ đâu đến
mà sanh đại ngă mạn!
Giác đáp:
Sanh tử việc lớn, vô thường nhanh chóng.
Sư
nói: Sao chẳng thể cứu (tham cứu) cái pháp vô
sanh, liễu ngộ cái chẳng nhanh chóng ấy ư? Đáp:
Thể tức vô sanh, liễu vốn chẳng chóng.
Sư
bèn ấn chứng: Đúng thế, đúng thế!
Lúc
bấy giờ Huyền Giác mới trang nghiêm lễ bái,
giây lát sau liền từ giă.
Sư nói:
Sao về chóng thế?
Đáp: Tự
vốn chẳng động, há có chóng sao?"
Sư
hỏi: Ai biết chẳng động?
Đáp:
Hoà Thượng tự sanh phân biệt.
Sư
nói: Ngươi thật được ư vô sanh.
Đáp:
Vô sanh há có ư sao?
Sư hỏi: Không
ư ai biết phân biệt?
Đáp: Phân
biệt cũng chẳng tác ư.
Sư nói:
Lành thay! Hăy ở lại một đêm.
Người
thời ấy tôn Huyền Giác là Nhất Túc Giác. Về
sau Giác soạn bài Chứng Đạo Ca thịnh hành
khắp thế gian. Sau được sắc phong là Vô
Tướng Đại Sư, người đời tôn
là Chơn Giác.
Thiền
Giả Trí Hoàng, tham học với Ngũ Tổ, tự
cho ḿnh đă được chánh thọ (chánh định),
bèn chấp ngồi măi trong am hơn hai mươi năm.
Đệ tử của Sư là Huyền Sách hành cước
đến Hà Bắc, nghe tên Trí Hoàng, liền đến
am hỏi thăm. Ông ở đây làm ǵ?
Hoàng nói:
Nhập định.
Sách hỏi: Ông nói nhập định,
là có tâm nhập hay là không tâm nhập? Nếu nói không
tâm nhập th́ tất cả loài vô t́nh, cây cối ngói
đá đều phải được định;
nếu nói có tâm nhập th́ tất cả loài hữu t́nh
cũng đều được định.
Hoàng nói: Ta
đang lúc nhập định chẳng thấy có cái tâm
CÓ và KHÔNG.
Sách nói: Chẳng thấy có cái tâm CÓ và KHÔNG
tức là thường định, đâu có xuất
nhập? Hễ có xuất nhập th́ chẳng phải
đại định.
Hoàng không trả lời được,
một lúc sau mới hỏi: Thượng Tọa nối
pháp ai?
Sách nói: Thầy tôi là Tào Khê Lục Tổ Đại
Sư.
Hoàng hỏi: Lục Tổ
lấy ǵ làm thiền định?
Sách nói: thầy tôi nói: tự tánh huyền diệu trạm nhiên, viên tṛn tịch diệt,
thể dụng như như, ngũ uẩn vốn không, lục trần phi thật, chẳng xuất chẳng nhập,
chẳng định chẳng loạn, tánh thiền vô trụ, chẳng trụ nơi thiền tịch, tánh thiền
vô sanh, chẳng khởi thiền tưởng (chẳng tác ư cho là thiền), tâm như hư không,
cũng chẳng có cái số lượng của hư không.
Hoàng nghe nói như vậy bèn đến lễ Sư.
Sư hỏi: Thượng
Tọa từ đâu đến?
Hoàng thuật lại nhân
duyên gặp Huyền Sách.
Sư nói: Thật đúng như
Huyền Sách nói. Ngươi hễ tâm như hư không,
chẳng chấp vào không, ứng dụng vô ngại, động tịnh vô tâm (chẳng tác ư), thánh
phàm đều quên, năng sở đều diệt, tánh tướng như như, th́ không lúc nào chẳng
phải định vậy.
Trí Hoàng do đó đại ngộ, cái tâm sở đắc từ hai mươi năm đến nay đều tan ră
chẳng c̣n h́nh bóng. Sau từ giă Sư về nơi Hà Bắc hoằng pháp, khai hoá tứ
chúng.
Có
một đồng tử tên là Thần Hội, họ
Cao, ở Tương Dương. Lúc mười ba
tuổi từ chùa Ngọc Tuyền đến tham lễ.
Sư nói: Tri thức từ xa đến
khổ nhọc, có đem theo cái bản lai đến chăng?
Nếu có bản lai th́ phải biết chủ nhơn,
thử nói xem!
Hội đáp:
Lấy vô trụ làm bản, cái thấy tức là
chủ.
Sư nói: Sa di này hay nói càn!
Hội lại hỏi: Hoà Thượng
toạ thiền thấy hay chẳng thấy?
Sư cầm
cây gậy đánh cho ba cái, hỏi:
Ta đánh ngươi có đau hay chẳng đau?
Đáp: Cũng
đau cũng không đau.
Sư nói:
Ta cũng thấy cũng chẳng thấy!
Hỏi:Thế
nào là cũng thấy cũng chẳng thấy?
Sư
nói: Cái thấy của ta, thường
thấy lỗi của tự tâm, chẳng thấy
phải quấy tốt xấu của người, cho nên
cũng thấy cũng chẳng thấy. Ngươi nói cũng
đau cũng chẳng đau là thế nào? Nếu
chẳng đau th́ đồng với cỏ đá,
nếu đau th́ đồng với phàm phu, liền
khởi sân hận. Ngươi vừa hỏi thấy, không
thấy là nhị biên (đối
đăi), nói đau, không đau là
sanh diệt, tự tánh ngươi c̣n chẳng tự
thấy mà dám đùa người khác!
Thần
Hội bèn lễ bái cầu xin sám hối.
Sư
lại nói: Ngươi nếu tâm mê chẳng
thấy, cần phải hỏi thiện tri thức để
chỉ đường, ngươi nếu tâm ngộ
tức tự thấy tánh, phải y pháp tu hành. Nay ngươi
mê chẳng thấy tự tâm, lại đến hỏi
ta thấy hay không thấy, ta thấy tự ta biết,
chẳng dính dáng cái mê của ngươi, ngươi
nếu tự thấy, cũng chẳng dính dáng cái mê
của ta, sao chẳng tự thấy tự biết, mà
lại hỏi ta thấy hay chẳng thấy!
Thần
Hội lại lễ thêm hơn trăm lạy, xin sám
hối tội lỗi, ân cần hầu hạ bên Sư
chẳng rời.
Một hôm Sư bảo
chúng: Ta có một vật, chẳng đầu
chẳng đuôi, chẳng danh chẳng tự, chẳng lưng
chẳng mặt, các ngươi có biết chăng?
Thần
Hội bèn ra nói: Ấy là bổn nguyên của chư
Phật, Phật tánh của Thần Hội.
Sư
nói: Đă nói với ngươi là chẳng danh
chẳng tự, ngươi bèn gọi là bổn nguyên
Phật tánh, ngươi sau này dẫu cho có ra hoằng pháp
cũng chỉ thành một môn đồ tri giải mà thôi.
Sau khi Lục Tổ viên tịch, Thần Hội vào trong
Kinh thành Lạc Dương, rộng truyền đốn
giáo của Tào Khê, soạn bộ Hiển Tông Kư,
thịnh hành nơi đời, hiệu là Hà
Trạch Thiền Sư.
Tăng
hỏi Sư: Ư chỉ của Huỳnh Mai người
nào được?
Sư đáp: Người
hiểu Phật pháp được.
Hỏi:
Hoà Thượng có được chăng?
Đáp:
Ta chẳng hiểu Phật pháp.
Một
hôm, Sư muốn giặt cái y của Ngũ Tổ
truyền thọ mà xung quanh không có suối tốt, nên
đi đến cách sau chùa năm dặm, thấy có núi
rừng xanh biếc, thoại khí ṿng quanh (thoại khí là
triệu chứng tốt lành hiện trên không khí, nhưng
phải là người có pháp nhăn mới thấy
được.) Sư dộng tích trượng xuống
đất, nước suối ngay đó trào ra, chảy
thành cái ao. Sư quỳ trên đá mà giặt y.
Có
vị Tăng ở Tây Thục tên là Phương
Biện đến lễ Sư, Sư
hỏi: Thượng Tọa làm nghề ǵ?
Đáp:
Thợ đắp tượng.
Sư nghiêm
mặt lại nói: Ngươi thử đắp ta xem!
Biện ngơ ngác, qua mấy ngày sau đắp xong chơn tượng, cao bảy tấc, nét mặt tánh
t́nh đều được tỏ bày khéo léo. Sư cười nói: Ngươi khéo tánh đắp tượng mà chẳng
hiểu tánh Phật.
Sư rờ đầu thọ kư, dặn phải trọn làm phước điền cho trời người; rồi lấy y mà
trả công. Biện chia y làm ba phần: một phần đắp lên pho tượng, một phần tự giữ
lấy, một phần lấy lá cây kè gói lại, xong chôn dưới đất, nguyện rằng: Cho tôi
đời sau được y này, làm trụ tŕ nơi đây, xây dựng lại chùa chiền.
Đến năm thứ tám, niên hiệu Gia Hữu đời Nhà Tống (1056-1063, cách đó 380 năm),
có vị Tăng tên là Duy Tiên đến đó tu sửa lại chùa chiền, đào đất được y c̣n
như mới. Pho tượng của Sư c̣n giữ ở chùa Cao Tuyền.
Có
vị Tăng đem bài kệ của Ngọa Luân
thiền sư lập lại với Sư. Kệ
rằng:
Ngọa
Luân hữu kỹ lưỡng,
Năng
đoạn bá tư tưởng.
Đối
cảnh tâm bất khởi,
Bồ
đề nhựt nhựt trưởng.
Dịch
nghiă:
Ngoạ
Luân có bản lănh,
Dứt
được trăm tư tưởng.
Đối
cảnh tâm chẳng khởi,
Bồ
đề luôn luôn trưởng.
Sư
nghe xong nói: Kệ này chưa rơ tâm địa,
nếu theo đó mà hành th́ lại thêm trói buộc. Do
đó khai thị một bài kệ:
Huệ
Năng một kỹ lưỡng,
Bất
đoạn bá tư tưởng.
Đối
cảnh tâm số khởi,
Bồ
đề tác ma trưởng.
Dịch
nghiă:
Huệ
Năng không bản lănh,
Chẳng
dứt trăm tư tưởng.
Đối cảnh tâm cứ khởi,.
Bồ
đề làm sao trưởng!