Trở lại trang chánh của Website Thiên Lý Bửu Tòa

 

Sớ phát nguyện tụng Kinh Sám-Hối

*******

 

Nay đệ tử họ: _________, tên: ______________

Pháp danh: ______________________________

                    ______________________________

Tôi nguyền cải lỗi, dốc làm lành,

Hối ngộ tiền phi, dứt dục sanh.

Sám-Hối tụng thường hằng sửa tánh,

Cầu xin Trời Phật chứng lòng thành.

 

                        TỀ-THIÊN ÐẠI-THÁNH


 

BÀI NIỆM HƯƠNG

              Ðạo gốc bởi: lòng, thành, tín, hiệp,

              Lòng nương nhang khói, tiếp truyền ra.

                   Mùi hương lư ngọc bay xa,

*       Kỉnh thành cầu nguyện Tiên-gia chứng lòng.

              Xin Thần Thánh ruổi-dong cỡi hạc,

              Xuống phàm trần vội gác xe Tiên.

*                 Ngày nay đệ tử khẩn nguyền,

       Chín tầng trời đất thông truyền chiếu tri.

              Lòng sở vọng gắn ghi đảo cáo,

*            Nhờ Ơn-Trên bố báo phước lành.

 

                                NAM-CỰC CHƯỞNG-GIÁO


TỊNH KHẨU CHÚ

 

     Lời ăn nói là nơi lỗ miệng,

     Tiếng luận đàm liệu biện đề phòng.

          Giữ gìn miệng đặng sạch trong,

Thốt lời minh-chánh, rèn lòng tụng Kinh.

 

TỊNH TÂM CHÚ

 

     Lòng người đặng tánh linh hơn vật,

     Biết kỉnh thành dè-dặt khôn lanh.

          Khá tua lánh dữ làm lành,

Những điều nghiệt ác hóa thành khói dơ.

 

TỊNH THÂN CHÚ

 

     Ở trần thế bụi nhơ thân vấy,

     Khí trược dơ lừng-lẫy bay hơi.

          Thể thân giữ sạch chẳng rời,

Chường mình trước Thánh, đến nơi lạy quỳ.

 

AN THỔ ÐỊA CHÚ

 

     Công Thổ-Ðịa nguy nguy tài đức,

     Hiển oai linh ra sức độ đời.

          Giúp người tâm chí chẳng dời,

Lòng thành kỉnh lạy Phật Trời tụng Kinh.

 

            TÂY-PHƯƠNG PHẬT-TỔ

 


BÀI KHAI KINH 

       Biển trần khổ vơi vơi trời nước,

       Ánh Thái-Dương giọi trước phương đông.

              Tổ-Sư Thái-Thượng Ðức Ông,

Ra tay dẫn độ, dày công giúp đời.

       Trong Tam-Giáo có lời khuyên dạy,

       Gốc bởi lòng làm phải làm lành.

              Trung-dung Khổng-Thánh chỉ rành,

Từ-bi Phật dặn lòng thành lòng nhơn.

       Phép Tiên Ðạo, tu chơn dưỡng tánh,

       Một cội sanh ba nhánh in nhau.

              Làm người rõ thấu lý sâu,

Sửa lòng trong sạch, tụng cầu Thánh Kinh.

 

             LỮ-TỔ


BÀI KHẢI KINH

Không bực nào hơn phép nhiệm mầu,

Ngàn năm muôn kiếp khó tìm cầu.

Tôi nay nghe thấy lòng vưng giữ,

Xin giải y lời Phật nghĩa sâu.

 

                         TAM-TẠNG


KINH SÁM HỐI

       Cuộc danh lợi là phần thưởng quí,

       Ðấng Hóa-Công xét kỹ ban ơn.

              Lòng đừng so thiệt tính hơn,

Ngày đêm than-thở dạ hờn ích chi.

       Người sang cả là vì duyên trước,

       Kẻ không phần luống ước cầu may.

              Sang giàu chẳng khác như mây,

Khi tan khi hiệp, đổi xây không thường.

       Việc sanh tử như đường chớp nháng,

       Bóng quang âm ngày tháng dập dồn.

              Giữ cho trong sạch linh-hồn,

Rèn lòng sửa nết đức tồn hậu lai.

       Ðiều họa phước không hay tìm tới,

       Tại người vời nên mới theo mình.

              Cũng như bóng nọ tùy hình,

Dữ lành hai lẽ công-bình thưởng răn.

       Khi vận thới lung-lăng chẳng kể,

       Lúc suy vi bày lễ khẩn cầu.

              Sao bằng ở phải buổi đầu,

Thần minh chánh trực có đâu tư vì.

       Người làm phước có khi mắc nạn,

       Kẻ lăng loàn đặng mạng giàu sang.

              Ấy là nợ trước còn mang,

Duyên kia chưa dứt, còn đang thưởng đền.

       Nếu vội trách người trên thì đọa,

       Cũng có khi tai họa trả liền.

              Ðó là báo ứng nhãn-tiền,

Mau thì mình chịu, lâu truyền cháu con.

       Lo danh vọng hao mòn thân thể,

       Ham làm giàu của để bằng non.

              Một mai nhắm mắt đâu còn,

Ðem vàng chuộc mạng đổi lòn đặng chăng?

       Trên đầu có bủa giăng Thần Thánh,

       Xét xem người tánh hạnh dữ hiền.

              Làm lành đặng hưởng phước duyên,

 Trong lòng nham hiểm, lộc quyền giảm thâu.

       Ðừng tính kế độc sâu trong dạ,

       Mà gổ ganh oán chạ thù vơ.

              Trái oan nào khác mối tơ,

Rối rồi không gỡ bao giờ cho ra?

       Thấy hình khổ dạ Ta đâu nở,

       Khuyên làm lành trừ đở tội căn.

              Quấy rồi phải biết ăn năn,

Ở cho nhơn hậu, chế răn lòng tà.

       Hãy có dạ kỉnh già thương khó,

       Chớ đem lòng lấp ngõ tài hiền.

              Xót thương đến kẻ tật nguyền,

Ðỡ nưng yếu thế, binh quyền mồ côi.

       Làm con phải trau giồi hiếu đạo,

       Trước là lo trả thảo Mẹ Cha.

              Lòng thành thương tưởng Ông Bà,

Nước nguồn cây cội mới là tu-mi.

       Giá trong sạch nữ nhi trượng tiết,

       Giữ cho tròn trinh liệt mới mầu.

              Ở sao đáng phận đạo dâu,

Thờ chồng tiết hạnh mới hầu gái ngoan.

       Ðừng có cậy giàu sang chẳng nể,

       Không kiêng chồng khi dể ông cô.

              Ấy là những gái hung đồ,

Xúi chồng tranh-cạnh hồ-đồ sân si.

       Tánh ngoan-ngạnh không vì cô bác,

       Thói lăng-loàn bạn tác khinh khi.

              Ngày sau đọa chốn Âm-Ti,

Gông kềm khảo kẹp ích gì rên la!

       Người tai mắt đạo nhà khá giữ,

       Nghĩa anh em cư xử thuận-hòa.

              Vẹn tròn đạo cả giềng ba,

Kỉnh anh mến chị, thì là phận em.

       Trên thương dưới xét xem kẻ nhỏ,

       Lúc lâm nàn chớ bỏ tránh xa.

              Cũng là một gốc sanh ra,

Gồm bao nưng đỡ ruột rà thương nhau.

       Người trung trực lo âu nợ nước,

       Hưởng lộc vua, tìm chước an bang.

              Chớ làm con giặc tôi loàn,

Thuế sưu đóng đủ, đừng toan kế tà.

       Phận làm tớ thật-thà trung-tín,

       Với chủ nhà trọn kính trọn ngay.

              Áo cơm no ấm hằng ngày,

Của người châu cấp, ơn dày nghĩa sâu.

       Ðừng gặp việc câu-mâu biếng-nhác,

       Mà quên lời phú-thác dặn-dò.

              Trước người giả bộ siêng lo,

Sau lưng gian-trá so-đo tấc lòng.

       Phải chừa thói loài ong tay áo,

       Bớt học đòi khỉ dạo dòm nhà.

              Gìn lòng ngay thẳng thật-thà,

Nói năng minh-chánh, lời ra phải nhìn.

       Chớ quyệt ngữ mà khinh kẻ dại,

       Ðừng gian mưu hãm-hại người hiền.

              Anh em bằng-hữu kết nguyền,

Một lòng tin-cậy phải kiêng, phải vì.

       Chẳng thấy khó mà khi mà thị,

       Gặp người giàu mà vị mà nâng.

              Dầu khi gặp lúc gian truân,

Cũng đồng giúp ích, chớ đừng mặt ngơ.

       Làm người phải kỉnh thờ Thần Thánh,

       Giữ lời nguyền tâm tánh tưởng tin.

              Hễ là niệm Phật tụng Kinh,

Rèn lòng sửa nết khá in như nguyền.

       Chừa thói xấu đảo điên trong dạ,

       Muôn việc chi chẳng khá sai lời.

              Dối người nào khác dối Trời,

Trời đâu dám dối, há đời ngỗ-ngang!

       Chớ lầm tưởng trong hang vắng tiếng,

       Mà dể-duôi sanh biến lăng loàn.

              Con người có trí khôn-ngoan,

Tánh linh hơn vật, biết đàng lễ-nghi.

       Phải cho biết kỉnh vì trên trước,

       Ðừng buông lời lấn-lướt hồ-đồ.

              Thuận cùng chú bác cậu cô,

Bà con chòm-xóm, ra vô khiêm-nhường.

       Thấy già yếu, hẹp đường nhượng tránh,

       Ðừng chỗ đông buông tánh quá vui.

              Cợt người ra dạ dể-duôi,

Sanh điều xích-mích, đâu nguôi dạ hờn.

       Khi tế tự, chớ lờn chớ dể,

       Việc quan hôn, thủ lễ nghiêm-trang.

              Gìn lòng chẳng khá lăng-loàn,

Lễ nghi vẹn giữ vững-vàng chớ quên.

       Giàu sang ấy Ơn-Trên giúp sức,

       Phước ấm no túc thực túc y.

              Thấy người gặp lúc tai nguy,

Ra tay tế độ, ấy thì lòng nhơn.

       Thương đồng loại cũng hơn thí bạc,

       Thấy trên đường miểng bát, miểng chai.

              Hoặc là đinh nhọn, chông gai,

Mau tay lượm lấy đoái-hoài kẻ sau.

       Ấy làm phước khỏi hao khỏi tốn,

       Chẳng có đâu mỏn vốn thâm tiền.

              Bắc cầu đắp sửa đường liền,

Kẻ qua người lại, bước yên gọn-gàng.

       Thi ân hậu, bạc ngàn khó sánh,

       Rán tập thành sửa tánh từ hòa.

              Việc lành chẳng khá bỏ qua,

Tuy rằng nhỏ-nhít, cũng là công-phu.

       Năng làm phải, nhựt nhu ngoạt nhiễm,

       Lâu ngày dồn, tính đếm có dư.

              Phước nhiều, tội quá tiêu trừ,

Phép Trời thưởng phạt, không tư chẳng vì.

       Thấy lỗi mọn chớ nghi chẳng hại,

       Thường dạn làm tội lại hằng hà.

              Vì chưng tụ thiểu thành đa,

Họa tai báo ứng, chẳng qua mảy hào.

       Giữa bụi thế giữ sao khỏi vấy,

       Biết ăn-năn xét lấy sửa lòng.

              Làm người nhơn nghĩa xử xong,

Rủi cho gặp lúc long-đong chẳng sờn.

       Hễ biết nghĩa, thọ ơn chẳng bội,

       Giúp cho người chớ vội khoe ra.

              Việc chi cũng có chánh tà,

Làm điều phải nghĩa, lánh xa vạy-vò.

       Khi gặp chuyện khá dò xét cạn,

       Liệu sức mình cho hản sẽ làm.

              Chớ đừng thấy của dấy tham,

Giục người làm quấy, ắt cam đồng hình.

       Ở ngay thẳng Thần-minh bảo hộ,

       Nết xéo-xiên gặp chỗ rạt-tù.

              Trong đời rất hiếm vỏ phu,

Lường cân tráo đấu, dối tu cúng Chùa.

       Còn hoi-hóp tranh đua bay nhảy,

       Nhắm mắt rồi, phủi thảy lợi danh.

              Lương tâm thường xét cho rành,

Của không phải nghĩa, chớ sanh lòng tà.

       Người quân-tử chẳng thà chịu khổ,

       Ðâu làm điều nhục tổ hổ tông.

              Ðứa ngu thấy của thì mong,

Không gìn tội lỗi, phép công nước nhà.

       Bày chước độc xúi ra việc quấy,

       Tổn cho người mà lấy lợi riêng.

              Hễ nghe khua động đồng tiền,

Sửa ngay làm vạy, không kiêng chút nào.

       Người nghèo khổ biết sao than kể,

       Kẻ lễ nhiều cậy thế ỷ quyền.

              Làm quan tính kế đảo-điên,

Gạt thâu gia-sản đất điền của dân.

       Thả tôi tớ thôn lân húng-hiếp,

       Bức gái lành ép thiếp đòi hầu.

              Trong lòng mưu chước rất sâu,

Mai sau suy-sụp, đáo đầu ra chi?

       Gái xướng kị, trai thì du đảng,

       Phá tan-hoang gia sản suy-vi.

              Làm người phải khá xét suy,

Của rơi chớ lượm, tham thì phải thâm.

       Còn một nổi gian-dâm đại tội,

       Lấy vợ người làm lỗi tiết trinh.

              Tuy là Trời Ðất rộng thinh,

Mắt dường sao nháy chiếu minh lòng người.

       Lương-tâm biết hổ-ngươi chừa lỗi,

       Mới biệt phân sừng đội lông mang.

              Việc lành việc dữ đồn vang,

Tuy là bóng khuất, xương tan tiếng còn.

       Gái tiết hạnh giữ tròn danh giá,

       Chớ học đòi mèo mả gà đồng.

              Làm điều nhục-nhã tổ tông,

Tiếng nhơ giặt rửa biển sông đặng nào.

       Trai trung hiếu sửa trau ba mối,

       Ðừng buông-lung lầm lỗi năm hằng.

              Hung-hoang tội báo nghiệt căn,

Kẻ chê người thị, chẳng bằng cỏ cây.

       Khá tiết-kiệm hằng ngày no đủ,

       Tánh siêng-năng lam-lụ làm ăn.

              Lòng chừa biếng-nhác kiêu-căng,

Của tiền lảng phí không ngằn phải tiêu.

       Lòng Trời Ðất thương đều muôn vật,

       Ðức háo sanh, Tiên Phật một màu.

              Thượng cầm hạ thú lao-xao,

Côn trùng thảo mộc, loài nào chẳng linh?

       Nó cũng muốn như mình đặng sống,

       Nỡ lòng nào tuyệt giống dứt nòi.

              Bền công Kinh sách xem coi,

Vô can sát mạng, thiệt-thòi rất oan.

       Chớ kiếm thế gọi ngoan xảo-trá,

       Lưới rập chim, thuốc cá, đốt rừng.

              Thương thay, phá noãn lẫy-lừng,

Tội căn báo ứng, biết chừng nào an?

       Lại có kẻ hung-hoang ác nghiệt,

       Cướp giựt rồi, chém giết mạng người.

              Ðoàn năm lũ bảy dạo chơi,

Hiếp người lương-thiện, phá đời hại dân.

       Tua khá tưởng thương lần nòi giống,

       Hãy xét vì mạng sống khó cầu.

              Cũng đừng bài bạc lận nhau,

Rủ-ren rù quến, lấy xâu ăn đầu.

       Phải hiểu biết máy sâu họa kín,

       Thánh Thần đâu tư lịnh bỏ qua.

              Thường ngày tuần khắp xét tra,

Phạt người hung ác đọa sa A-Tì.

       Sống dương-thế, hành thì căn bịnh,

       Xui tai nàn dấp-dính theo mình.

              Ăn-năn khử ám hồi minh,

Từ-bi Trời Phật rộng tình xét cho.

       Ðừng cố oán, thầm lo gây họa,

       Ðem lòng thù, hâm dọa rấp đường.

              Ðốt nhà, tháo cống, phá mương,

Nước tràn lụt ngập ruộng vườn tan-hoang.

       Thêm liều mạng đặng toan đổ tội,

       Cho người hiền chịu lỗi vương mang.

              Khi hồn lìa khỏi trần-gian,

Hóa ra ngạ-quỉ, cơ hàn khổ thân.

       Ðời nhiều kẻ khi Thần thị Thánh,

       Ám-muội lòng, tánh hạnh gổ-ganh.

              Thấy ai làm phải làm lành,

Siểm-gièm cho đặng khoe danh của mình.

       Lại còn có tánh tình hiểm độc,

       Xúi phân chia thân-tộc ruột-rà.

              Làm cho chồng vợ lìa xa,

Cả đời nghiệt-báo oan-gia chẳng rời.

       Muốn tránh đặng khỏi nơi tội quá,

       Lánh kẻ tà, chẳng khá nên gần.

              Thí tiền, thí bạc, chẩn bần,

Người đau thí thuốc, Thánh Thần phước ban.

       Ðêm thanh vắng, chớ toan mưu dối,

       Xúi trẻ thơ lầm lỗi ngỗ-ngang.

              Âm-đài gông trống sẵn-sàng,

Chờ khi thác xuống, cổ mang hành hình.

       Các thơ truyện huê-tình xé hủy,

       Kẻo để đời làm lụy luân thường.

              Nói lời tục-tỉu không nhường,

Tội hành cắt lưỡi, trăm đường ghê thay!

       Lại có kẻ miệng ngay lòng vạy,

       Tới làm Chùa, dối cậy in Kinh.

              Ăn-gian xới bớt cho mình,

Dầu qua dương pháp, luật hình Diêm-Vương.

       Thêm những sãi giả nương cửa Phật,

       Của thập phương châu cấp thê nhi.

              Ngày sau đọa lạc Âm-Ti,

 Thường thường khảo kẹp, chẳng khi nào rời.

       Thấy giấy chữ rớt rơi lượm lấy,

       Ðốt ra tro, bỏ chảy dòng sông.

              Thủy-triều vận tải biển đông,

Lòng hằng dường ấy, phước đồng ăn chay.

       Chịu cực khổ, đắng cay biết mấy,

       Cuốc, cày, bừa, gieo, cấy, gặt, đong.

              Làm ra lúa gạo dày công,

Dầm mưa dan nắng, kẻ nông nhọc nhằn.

       Nhờ Viêm-Ðế đức cao ân nặng,

       Tìm lúa khoai người đặng no lòng.

              Ngày ngày vọng niệm chớ vong,

 Chẳng nên hủy hoại, mới phòng khỏi hoang.

       Chớ hiểm độc, dạ lang lần-lựa,

       Nhơn thất mùa, bế vựa gắt-gao.

              Chờ khi lúa phát giá cao,

Khai ra bán mắc, Trời nào dung cho?

       Ơn trợ giúp khá lo đền báo,

       Giữ vẹn tròn nghĩa đạo với đời.

              Túng cùng, vay mượn của người,

Vui lòng tính trả vốn lời cho kham.

       Chớ oán chạ, tham-lam ngược-ngạo,

       Bội nghĩa ân, trở-tráo chước sâu.

              Luân-hồi thưởng phạt rất mầu,

Chuyển thân tái thế, ngựa trâu công đền.

       Người phú túc vun nền âm đức,

       Lấy lòng nhơn, giúp sức trợ nghèo.

              Chớ sanh chước hiểm hẹp-eo,

Lời tăng quá vốn, kẻ nghèo siết than.

       Làm mặt phải, bạc ngàn cúng Phật,

       Ép kẻ nghèo cố đất cầm vườn.

              Phật Trời nhơn vật đồng thương,

Có đâu hưởng của bất lương mà mời.

       Phận làm chủ lấy lời nhỏ-nhẹ,

       Mà nghiêm trừng mấy kẻ tôi-đòi.

              Ðừng lòng nham-hiểm hẹp hòi,

Buông lời chưởi rủa, đòn roi không từ.

       Tánh độc ác, tội dư tích trữ,

       Chốn Âm-Cung, luật xử nặng-nề.

              Ðánh đòn khảo kẹp gớm ghê,

Hành hình khổ não, chẳng hề nới tay.

       Miền âm-cảnh nhiều thay hình lạ,

       Cõi dương-trần tội quá dẫy đầy.

              Thánh Hiền kinh sách dạy bày,

Lòng người ám muội, lỗi gây ra hoài.

       Kẻ lỗ-mãng chê bai khinh dễ,

       Rằng thác rồi còn kể ra chi.

              Nhãn tiền trả quả tức thì,

Tội dư con cháu một khi đền bồi.

       Chớ quấy tưởng luân-hồi phi lý,

       Mà hung-hăng, chẳng nghĩ chẳng suy.

              Thi-hài như gỗ biết gì,

Linh-hồn là chủ thông tri việc đời.

       Lúc chung mạng, dứt hơi hồn xuất,

       Quỉ vô-thường sẵn chực đem đi.

              Dắt hồn đến chốn Âm-Ti,

Xét xem công quá, chẳng ly mảy hào.

       Người lương-thiện ra vào thong-thả,

       Kẻ tội nhiều đày-đọa rất minh.

              Phật Trời phép lạ hiển linh,

Hành cho tán giác, hườn hình như xưa.

       Con bất hiếu xay cưa đốt giã,

       Mổ bụng ra, phanh rã tim gan.

              Chuyển thân trở lại trần gian,

Sanh làm trâu chó, đội mang lông sừng.

       Kìa những gái lẫy-lừng hạnh xấu,

       Bỏ vạc đồng đốt nấu thảm kinh.

              Vì chưng trinh tiết chẳng gìn,

Có chồng còn lại ngoại tình với trai.

       Kẻ tham lợi cột mai cột mối,

       Chuốt trau lời giả-dối ngọt ngon.

              Dỗ-dành rù-quến gái non,

Làm hư hoại tiết cháu con nhà người.

       Lòng lang độc, vui cười hớn hở,

       Chốn Diêm-Ðình phạt quở trừng răn.

              Gông kềm khảo kẹp lăng-xăng,

Hành cho đáng kiếp tội căn đã làm.

       Ngục Ðao-kiếm cầm giam phạm ác,

       Tánh gian-dâm, hành phạt gớm ghê.

              Giáo gươm bén nhọn tư bề,

Chém đâm máu chảy tràn-trề ngục môn.

       Hành đến chết, hườn hồn sống lại,

       Cho đầu-thai ở tại thanh lầu.

              Ngày đêm đưa rước chực hầu,

Công-bình Thiên-Ðạo phép mầu chí linh.

       Móc nhọn vắt treo mình nhỏng-nhảnh,

       Cối đạp đồng rất mạnh giã dần.

              Ấy là phạt kẻ lường cân,

Ðo gian đong thiếu, Thánh Thần chẳng kiêng.

       Bầy chó dữ mang xiềng chạy đại,

       Thấy tội nhơn xúm lại phân thây.

              Hình nầy phạt kẻ dại ngây,

Khinh-khi Tam-Giáo đọa đày thế ni.

       Ao nước nóng sôi thì sục-sục,

       Dầm cho người rã rục thịt xương.

              Cũng vì lòng dạ vô lương,

Ðệ huynh bất mục, chẳng thương đồng bào.

       Nhiều gộp núi như đao chơm-chởm,

       Thấy rùn mình tán đởm rất ghê.

              Thây người máu chảy dầm-dề,

Tiếng la than khóc tư bề rùm tai.

       Phạt những kẻ sửa ngay ra vạy,

       Tớ phản thầy, quan-lại bất trung.

              Hành rồi giam lại âm-cung,

Ngày đêm đánh khảo, trăng cùm xiềng gông.

       Hình Bào-Lạc cột đồng vọi-vọi,

       Ðốt lửa hồng ánh giọi chói lòa.

              Trói người vào đó xát chà,

Vì chưng hung bạo, đốt nhà bắn săn.

       Có cọp dữ nhăn răng đưa vấu,

       Gặp tội nhơn quào quấu xé thây.

              Ấy vì lòng dạ chẳng ngay,

Giết người lấy của, bị nay hình nầy.

       Ao rộng lớn chứa đầy huyết phẩn,

       Xô người vào lội lặn nhờm thay.

              Tanh hôi mình-mẩy vấy đầy,

Trồi lên hụp xuống, gậy cây đánh đầu.

       Ðể hành kẻ chứa xâu lường của,

       Trù ếm người chưởi rủa tổ tông.

              Ðồ dơ giặt đổ rạch sông,

Ðương khi uế trược, thẳng xông chỗ thờ.

       Vào bếp núc lúc nhơ không kể,

       Phơi áo quần, chẳng nể Tam Quang.

              Buông lời tục-tỉu dâm loàn,

Lâu mau nặng nhẹ, chịu mang tội nầy.

       Ao rộng sâu chứa đầy giòi tửa,

       Hơi tanh hôi thường bữa lẫy-lừng.

              Gạo cơm hủy-hoại quen chừng,

Phạt ăn dơ dáy, mới ưng tội hình.

       Cột trói ngược, quá kinh rất lạ,

       Quỉ Dạ-Xoa đánh vả kẹp cưa.

              Vì chưng chưởi gió mắng mưa,

Kêu tên Thần Thánh, chẳng chừa chẳng kiêng

       Bàn chông nhọn liền-liền đánh khảo,

       Tra tội nhơn gian-giảo ngược-ngang.

              Hành người bế địch trợ hoang,

Thừa năm hạn đói, mưu toan bức nghèo.

       Thành Uổng-Tử cheo-leo gớm-ghiết,

       Cầm hồn oan rên siếc khóc than.

              Dương gian ngổ-nghịch lăng-loàn,

Liều mình tự-vận, không màng thảo ngay.

       Xuống Ðịa-Ngục đọa-đày hành mãi,

       Ðúng số rồi còn phải luân hồi.

              Quá, công, xem xét đền bồi,

Lành siêu dữ đọa, thêm nhồi tội căn.

       Cầu Nại-Hà bắc giăng sông lớn,

       Tội nhơn qua, ốc rởn rùn mình.

              Hụt chơn ván lại gập-ghình,

Nhào đầu xuống đó, cua kình rỉa thây.

       Nhiều thứ rắn mặt mày dữ tợn,

       Ngóng cổ trông mắt trợn dòm người.

              Gắp thây nuốt sống ăn tươi,

Vì bày thưa kiện, móc bươi xúi lời.

       Trong núi lửa bay hơi tanh khét,

       Linh-hồn người đầy nghẹt trong ngoài.

              Phạt răn quến gái dụ trai,

Bày ra thuốc độc phá thai tuyệt loài.

       Người ở thế mấy ai khỏi lỗi,

       Biết lạc lầm sám-hối tội căn.

              Tu tâm sửa tánh ăn-năn,

Ba giềng nắm chặt, năm hằng chớ lơi.

       Ngặt có kẻ tưởng Trời tin Phật,

        Mà trong lòng chẳng thật kỉnh thành.

              Lâm nguy nguyện vái làm lành,

Tai qua rồi lại dạ đành phụ vong.

       Chớ thái quá, đừng lòng bất cập,

       Phép tu hành, luyện tập nhiều ngày.

              Làm lành, xem phải, nói ngay,

Giữ ba điều ấy, thiệt rày phước duyên.

       Lời kệ sám duy truyền khuyến thiện,

       Câu văn từ luận biện thật-thà.

              Chẳng dùng những tiếng sâu xa,

E không hiểu thấu, diễn ra ích gì?

       Chớ buông tiếng thị-phi khinh-dễ,

       Rán làm lành phước để cháu con.

              Làm người nhơn nghĩa giữ tròn,

Muôn năm bóng khuất, tiếng còn bay xa.

 

CHUNG


BÀI KHEN NGỢI KINH SÁM HỐI

       Nghe lời khuyến thiện rất may,

Nguyện lòng niệm Phật, ăn chay làm lành.

       Ngày ngày tập sửa tánh thành,

Ðêm đêm tự tỉnh, tu hành ăn-năn.

       Một là hối ngộ tội căn,

Hai là cầu đặng siêu thăng cửu huyền.

       Ðương sanh hạnh hưởng phước duyên,

Trong nhà già trẻ miên-miên thái bình.

       Sau dầu đến chốn Diêm-Ðình,

Linh-hồn trong sạch, nhẹ mình thảnh-thơi.

       Luân-hồi trở lại trên đời,

Tiền công thì cũng Phật Trời thưởng ban.

       Cầu xin trăm họ bình-an,

Nước giàu dân mạnh, thanh-nhàn muôn năm.

 

                   ÐÔNG-PHƯƠNG LÃO-TỔ


BÀI ÐƯA TIÊN

Hương hoa đưa lạy rất lòng thiền,

Xe hạc cỡi rồng nhẹ gót Tiên.

Năm sắc mây lành bay pháy-pháy,

Hào-quang muôn trượng chiếu liền-liền.

 

        HUYỀN-ÐÔ ÐẠI-PHÁP-SƯ

 

 

Thiên-Lý Bửu-Tòa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674

Website: www.thienlybuutoa.org     Email    Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT

Thông bạch in Kinh