Trở lại trang chánh của Website Thiên Lý Bửu Tòa

 

LIÊN-HOA TIÊN-NƯƠNG Châu-Thị-Bình

NỮ-GIỚI ÐỐI VỚI GIA-ÐÌNH

 

Thi :

Nương mây giục bước giá đàn tiền,

Ðề bút khuyên đời một ít thiên,

Nghĩa lý chỉ cho tường với tận,

Văn bài ghi sẵn chép cùng biên.

Văn chương vẽ mặt người tài đức,

Vịnh phú nêu tên kẻ phẩm hiền,

Ðem GIÁO ÐOÀN Kinh cho NỮ-GIỚI,

Tập rèn văn chất phải tinh chuyên.

Bài:

       Nương mây nhẹ gót xuống đàn,

Ðể lời phê chuẩn GIÁO ÐOÀN sắp nên.

       Từ đây phong hóa vững nền,

Bởi pho Kinh đủ đôi bên rẽ ròi.

       GIÁO ÐOÀN NỮ-GIỚI nấu sôi,

Theo đây lần bước đến nơi vui nhàn.

       Gia-đình, xã-hội hai đàng,

Ðều do đạo-đức làm đoan cội nguồn.

       Trong ngoài đều đặng tròn vuông,

Lo chi chẳng đặng một luồng thuần phong.

       Nữ nhi hãy rán kềm lòng,

Học đòi cho đặng vẹn trong tròn ngoài.

       Lần lần từ dở đến hay,

Ðứng trong xã-hội không ai chê hèn.

       Lề xưa khi bạc thuyền-quyên,

Ở vào chế độ nam-quyền khó ra.

       Trách vì ai cũng tại ta,

Tại ta kém đức với ta thiếu tài.

       Nếu mà ta đủ như ai,

Cái vòng chuyên chế ra ngoài ta chơi.

       Mắt tai ta đủ với người,

Quần thoa tuy phận tánh Trời Ðất ban.

       Từ đây ta phải châu toàn,

Noi Kinh Nữ-Giới Giáo Ðoàn học khôn.

       Phận làm mẹ của đứa con,

Phải cho học tập đặng khôn với người.

       Chớ noi cũ kỷ thói đời,

Tiếc tiền sợ tổn hư đời con thơ.

       Ra thân dốt nát ngây khờ,

Ðứng cùng xã-hội khó nhờ khó trông.

       Con đường diễm phúc hết mong,

Sống thôi như chết là xong một đời.

       Sống mà thua thiệt mọi người,

Thêm buồn sự sống cho đời nữ nhi.

       Ai ôi! dành của mà chi,

Ðể câu giáo dục duy trì văn chương.

       Ngày sau trẻ đặng khôn ngoan,

Ơn kia trẻ nhớ, nghĩa mang kẻ đền.

       Con hư cha mẹ chẳng khuyên,

Con hư cha mẹ không kềm dạy răn.

       Ðến chừng kẻ biết ăn năn,

Ðiểm sương tóc đã, da nhăn trổ mồi.

       Thôi rồi thì đã thôi rồi,

Một đời thì đã một đời còn chi!

       Ai ôi! sanh kiếp nữ nhi,

Rán bương đến chốn rán đi tới bờ.

       Biết rằng thân phận liễu thơ,

Trăm phần trăm khổ hằng lo tảo tần.

       Gia đình một nổi cân phân,

Càng lo chữ hiếu lại cần chữ trinh.

       Ðức tài gồm đủ phận mình,

Trong ngoài lo vẹn hiếu tình cả hai.

       Rồi ra xã-hội chủng loài,

Ôm gồm chữ nghĩa, bảo hoài chữ nhân.

       Tay nghĩa hiệp, mặt tinh thần,

Chỉnh tu cổ võ, miếu đường đẹp xinh.

       Tròn xong cái bổn phận mình,

Cùng nhau đoàn kết liên tình chị em.

       Ðến tuần ngũ thập tri thiên,

Toan bề giải thoát cho nhàn tấm thân.

       Phủi cho sạch nợ phong trần,

Mượn thuyền Bát-Nhã chơn lần Tây-Phang.

       Tẩy trần cậy nước nhành dương,

Còn lo chi cuộc thế thường nữa chi.

       Sách rằng: sanh ký tử qui,

Ðến đề giải thoát một khi là cùng.

       Nghĩa tình ta đã đền xong,

Hiếu trung vẹn phận Diêu-Cung về chầu.

       Ðạo đời ta đã tròn câu,

Khỏi mang tiếng ở địa-cầu ích chi.

       Danh lưu hậu thế sử ghi,

Ðã là châu đáo còn chi hư hèn.

       Ai ôi! xem đấy lo toan,

Kiếp đời chớ để uổng oan kiếp đời.

Thi :

Ai muốn gia đình cho hạnh phúc,

Hãy toan giáo dục đặng vuông tròn,

Xuân mà tươi tắn lòng trinh bạch,

Giá cũng vui cười tiếng nỉ non.

Nếu phận liễu bồ không vẹn vẻ,

Thì đời má phấn phải phai mòn,

Khá trau đức hạnh cho hoàn mỹ,

Rạng mặt thuyền quyên danh mãi còn.

Bài:

              Trời thanh mây bủa giăng giăng,

Giáng đàn đề bút dạy răn ít lời.

       Dạy cho kẻ mưu đời hạnh phúc,

       Dạy cho người giáo dục gia đình,

              Ðể cho nữ giới tập tành,

Cho đoan trang gái, cho rành thân danh.

       Công cha mẹ sanh thành dưỡng dục,

       Ðã khó khăn bồi đắp nên hình,

              Lở ra phận gái thơ sinh,

Nặng lòng đạo nghĩa, nhẹ tình nước non.

       Lúc niên thiếu tính còn thơ bé,

       Phải tuân lời cha mẹ dạy răn,

              Công vẹn vẻ, hạnh hoàn toàn,

Vào nhà đạo-đức, ra đàng lễ nghi.

       Nền yểu điệu nhu mì nết hạnh,

       Vẻ đoan trang tập tánh ôn hòa,

              Trọng mến mẹ, kính thờ cha,

Dưới thương em út, trên hòa chị anh.

       Trong những việc cửi canh săn sóc,

       Ngoài các điều tập học vuông tròn,

              Không đánh phấn, chẳng tô son,

Càng se-sua lắm, càng nhờn nhợt xuân.

       Xuân chớ để trầm luân bể cả,

       Ngọc giồi trau giá đáng nghìn vàng,

              Mặc ai ong bướm gió trăng,

Ðứng đi giữ nết, nói năng gìn lời.

       Người tốt xấu tự Trời sắp đặt,

       Chớ sửa sang rằng ắt nói mình,

              Tấm thân trong sạch là xinh,

Lựa là son phấn mới xinh sao là?

       Người xinh bởi nết na đằm thắm,

       Phải nào xinh theo đám trú phường,

              Sửa sang quốc sắc thiên hương,

Mỉa mai lắm giọng oan ương thêm đầy.

       Ðừng học thói mưa mây trăng gió,

       Chớ theo làng liễu ngỏ hoa tường,

              Phải năng rèn tập văn chương,

Xa đời lang bạc tìm đường tinh hoa.

       Sao cho đáng gái nhà nữ tắc,

       Sao rằng nên đẹp mặt thuyền quyên,

              Xinh vì nết đẹp tự nhiên,

Chớ chưng diện sắc, đừng nên vẽ vời.

       Trau đức-dục học đòi giáo-dục,

       Lo tinh thần rèn đúc văn chương,

              Ðức tài là sắc là hương,

Là câu cẩm tú, là chương ngọc ngà.

       Ở mềm mỏng là ngoan, là khéo,

       Tiếng nói năng yểu điệu nhu hòa,

              Ðừng kiêu cách, chớ gian tà,

Xấu xa tính bỏ, thật thà lời ưa.

       Ðừng như gái thỏng thừa mất nết,

       Chớ như ai buôn tiết bán trinh,

              Khôn tập quán, thuở bé xinh,

Càng tươi tắn liễu, càng xinh hải-đường.

       Ngọc chớ để chìm sông cát dập,

       Gương chớ cho bụi lấp lu lờ,

              Nhụy hoa chớ để hửng hờ,

Khéo ngăn lũ bướm, khéo ngừa đoàn ong.

       Nương gia đình chìu lòng cha mẹ,

       Lời nói năng nhỏ nhẹ thuận tùng,

              Trên nhường dưới nhịn kỉnh cung,

Vào thưa ra bẩm phục tùng mẹ cha.

       Chán thay thói giả ngoa hư hỏng,

       Lời chanh chua rằng đúng, rằng tài,

              Rằng khôn, rằng khéo, rằng hay,

Ðỏng đưa lắm giọng, mỉa mai nhiều điều.

       Sanh ra việc trớ trêu đôi chối,

       Lại còn thêm nói dối ăn gian,

              Nay làng mai xóm dọc ngang,

Mất đi nết hạnh sổ sàng lắm ru.

       Dầu khôn cũng giả ngu làm dại,

       Mặc dầu ai phải trái nhịn nhường.

              Nhược nhu là thắng cang cường,

Phải quấy có luật, thiệt hơn có hình.

       Khôn chịu thiệt mà gìn điều phải,

       Dại giành hơn mà quấy cửa công,

              Ðừng chí đèo ảnh bưởi bòng,

Rát tai kẻ mắng, nặng lòng mẹ cha.

       Nên trau nét đậm đà kiều mị,

       Vẻ phù dung ý nhị thanh tân,

              Trong lo lắng, ngoài tảo tần,

Cửa nhà nương ý thôn lân khen thầm.

       Ðừng miệng tốt mà lòng dối giả,

       Theo những phường mèo mã gà đồng,

              Mặc tình cho lũ bướm ong,

Dày hoa ép nhụy thân không còn gì.

       Kìa gương trước Hậu-Phi thuở nọ,

       Liếc mắt trông coi đó nghĩ mình,

              Rồi trau nết gái cho xinh,

Mỹ ngôn sắc ngọa hoa bình du dương.

       Ðừng học thói nghe đường nói chợ,

       Sanh oán thù lở dở hương thôn,

              Kìa câu đa hóa đa ngôn,

Hãy nên kính cẩn chớ nên học đòi.

       Nói thì nói rẽ ròi êm dịu,

       Ðồng vọng quanh yểu nhiểu tinh tường,

              Phải ăn phải nói đường đường,

Ðừng thêm bớt chuyện chớ lường dối ai.

       Tính chơn thật bỏ ngay điều xấu,

       Hằng nhớ câu "Thủ khẩu như bình",

              Ðừng quen những thói thị thành,

Càng thêm xủ tiết ô danh má hồng.

       Chừ đã mảng quí đông xuân đến,

       Trau nết duyên kẻ mến người ưa,

              Ở ăn cho phải cho vừa,

Cho tròn danh hạnh cho thừa nết na.

       Chớ hoang phóng lân la làng xóm,

       Tiết trắng trong để nhượm màu lơ,

              Uổng thay! một kiếp đào thơ,

Mà tan tác phận chẳng chờ kiếp xuân.

       Phải rèn tập cho thuần hạnh kiểm,

       Sửa nghi dung tô điểm tinh thần,

              Nương mai, mình hạc, vẻ xuân,

Ðáng trang thục nữ giai nhân khó bì.

       Lời muốn nói phải suy phải nghĩ,

       Tiếng phô trương nghĩa lý rẽ ròi,

              Nói năng, đi, đứng, nằm, ngồi,

Chổ kia kỉnh lớn, nơi nầy nhượng trên.

       Ăn thì phải cho nên độ lượng,

       Ði thì xem phải tướng trang hoàng,

              Ðừng như những thói dọc ngang,

Ðứng đi mất hạnh ngang tàng quen thân.

       Ðứng thì phải nhắm xem sau trước,

       Phải đoan trang mực thước lễ nghi,

              Ðứng rồi lại tới hạnh đi,

Ði thì chơn bước, bước đi cho đầm.

       Nói lựa tiếng, mà nằm lựa chỗ,

       Nằm chọn nơi, nói độ lời ngoan,

              Cái khôn là cái dịu dàng,

Nâng niu giá sạch bàng hoàng tiết trong.

       Ngồi nhắm chỗ phải cung kỉnh lớn,

       Cười lựa điều chớ giỡn đười-ươi,

              Vô duyên chưa nói đã cười,

Chưa đi mà chạy ấy người vô duyên.

       Cách đối đãi láng giềng em chị,

       Lời khôn ngoan nhỏ nhẹ êm đềm,

              Ðừng dâm đố, chớ tị hềm,

Xấu xa tính gái, khó kềm nết na.

       Chớ tụ hợp đàn ba lũ bảy,

       Ðể luận bàn việc quấy của người,

              Kẻ kia ố, người nọ cười,

Thói hư tập quán càng ngày càng hư.

       Có bàn luận phải tư phải cách,

       Lựa điều ngoan thủ thiếp học đòi,

              Luận chi điều xấu của người,

Nay sanh rầy-rạc, nay bày chối đôi.

       Việc làm ăn luôn tay lo liệu,

       Công cửi canh thêu tiểu vá may,

              Từ trong cho đến ra ngoài,

Bề trong thứ lớp, bề ngoài nắp ngăn.

       Có làm có của ăn thường sự,

       Ngồi ăn không kho trử cũng tàn,

              Bánh ngon bởi khéo để đường,

Người khôn bởi khéo lo lường làm ăn.

       Xuân còn thắm như trăng còn sáng,

       Xuân lần qua như áng mây rồi,

              Duyên treo cao giá một đời,

Khách trần ướm chuộng bao hồi trọng xuân.

       Vậy thì phải trăm phần hoàn mỹ,

       Dầu cho ai liệt vị cũng kiêng,

              Hạnh mình trau chuốc phải duyên,

Thân mình đoan sửa cho nên dáng người.

       Chừ đến lúc hoa cười nhụy nở,

       Thiếu chi làng ong vở bướm bay,

              Duyên ta giữ khéo cầm tay,

Chờ người tri kỷ nối dây sắt cầm.

       Nên duyên hạnh cùng thâm ý vị,

       Khi có chồng trọn thỉ trọn chung,

              Chồng nghĩa sĩ, vợ trung trinh,

Chồng là chúa vợ phải tùng nghĩa phu.

       Phận gìn giữ trước sau nội trợ,

       Ðạo tề gia nâng đỡ cho chồng,

              Kìa chồng nặng gánh non sông,

Còn ta săn sóc những công việc nhà.

       Dầu nghèo khó cũng là chịu cực,

       Ðạo phu cơ tùng nhứt nhi chung,

              Có chồng trọn tiết với chồng,

Dẫu cay đắng lắm cũng lòng không hai.

       Chồng trông cậy một tay kim chỉ,

       Giúp cho chồng danh vị cao thăng,

              Chồng nên một đấng anh hào,

Thì ta cũng đặng dựa vào tiếng tăm.

       Ðạo thờ chồng còn tông với tổ,

       Kỉnh tộc thân đơm giỗ ông bà,

              Thương chồng biết đến mẹ cha,

Ai sanh chồng đấy mà ta yêu người.

       Trên vâng thửa những lời dạy bảo,

       Thay thế chồng trọn đạo làm con,

              Lời thưa thốt, tiếng ngọt ngon,

Giúp nên gia đạo vuông tròn ngoài trong.

       Ðối cha mẹ hết lòng cung kỉnh,

       Cùng tộc thân nghiêm chỉnh lễ nghi,

              Ngoài ra cái tiếng thị phi,

Thì ta chớ nhuộm cùng ghi vào lòng.

       Nếu sanh dạ bưởi bòng đôi chối,

       Sao cho nên lại lỗi nết na,

              Tiếng đời dị nghị gần xa,

Mất danh giá gái, hư nhà trâm anh.

       Gái tiết liệt thờ danh trọng giá,

       Càng đáng trang một đóa xuân tươi,

              Chớ cho bướm giỡn ong cười,

Lỡ duyên kim cải tiếng người chê bai.

       Dầu đặng chốn các đài nương dựa,

       Mà nghèo hèn cũng nợ cũng duyên,

              Hễ làm thân gái chính chuyên,

Nhứt phu vĩ đại thúy-uyên vui vầy.

       Ðừng như kẻ rày đây mai đó,

       Chớ như ai sớm Sở chiều Tần,

              Trăm năm tơ tóc mấy lần,

Phím loan nhận sái tiếng đờn lạc cung.

       Dầu nghèo khó chung cùng lo lắng,

       Thân nhọc nhằn, giải nắng dầm mưa,

              Cũng cam tấm phận cho vừa,

Hết hồi bỉ cực tới hồi thới lai.

       Nếu gặp cảnh đắng cay đau đớn,

       Ðồng cùng nhau liệu lượng giải nàn,

              Chớ tham chả phụng, khô lân,

Ham trăng vội phụ ánh đèn sao nên.

       Ðừng như vợ Mải-Thần thuở nọ,

       Thấy chồng nguy lại phụ nghĩa nhân,

              Hết cơn bỉ tới tuần hườn,

Quan hầu rỡ mặt phong trần nức tai.

       Ðến chừng ấy muốn quày trở lại,

       Muốn ăn năn sự sái khó khuây,

              Muốn cho Tần, Tấn hiệp vầy,

Ðổ tô nước, hốt lại đầy, mới mong.

       Tình chồng vợ hương nồng lửa đượm,

       Trách vì đâu ong bướm rủ ren,

              Thấy sang nỡ dạ chê hèn,

Trả vay đáng thói thuyền quyên bạc tình.

       Thân phận gái chữ trinh là trọng,

       Nghĩa Châu, Trần chung sống an vui,

              Trăm năm may rủi một đời,

Giải đồng kết chặt, không dời chẳng chia.

       Vợ Châu-Công trước kia trinh tiết,

       Thay thế chồng lo việc tề gia,

              Chồng thời nặng gánh sơn-hà,

Vợ nhà cơm cháo đỡ qua tháng ngày.

       Ðể cho chồng thang mây nhẹ bước,

       Phận sự nhà gìn trước giữ sau,

              Phòng the rèm xủ giường đào,

Ðáng người liệt phụ, ai đâu dám bì.

       Ðạo chồng vợ, phụ tùy phu xướng,

       Duyên bố kình, đỡ nắng che mưa,

              Khi đau lúc yếu cậy nhờ,

Vui chia, buồn sớt, trong ngoài có nhau.

       Lời non nước, nặng câu hải thệ,

       Tiếng đá vàng, đâu để phai mòn,

              Trăm năm giữ tấm lòng son,

Sắn, bìm nương bóng quân tòng che thân.

       Nghĩa mai trước trăm phần tươi đẹp,

       Con sông Ô gát nhịp bắt cầu,

              Sang thì đồng hưởng công hầu,

Hèn thì đồng chịu giải dầu tuyết sương.

       Ðừng như kẻ rày thương mai đổi,

       Sang hưởng vui nghèo lại phụ phàng,

              Giàu thì lên mặt vinh vang,

Nghèo thì chì bấc, ra tuồng nhạt phai.

       Rồi đem dạ kiếm lời kỵ đố,

       Lánh sồng nâu tìm chỗ nghê thường,

              Còn tiền, chồng vợ còn thương,

Hết tiền, kẻ Sở, người Tần chia phang.

       Sách hằng dạy: "Tào khang đạo cả",

       Dầu nghèo hèn chẳng khá phụ vong,

              Trung trinh hai chữ ghi lòng,

Dầu ai nghìn tứ muôn chung chẳng màng.

       Duyên cầm sắc phụng loan đơn quế,

       Niềm gối chăn cang lệ vui vầy,

              Cửa nhà tạo dựng hôm nay,

Hiếu kia vẹn vẻ tình nầy tinh vi.

       Tấm phận gái vu qui thân đấy,

       Ðã có chồng nhờ cậy bên chồng,

              Thay chồng phụng dưỡng tộc tông,

Thương cha, mến mẹ, thờ ông, kỉnh bà.

       Cha mẹ chồng cũng là cha mẹ,

       Xem bên chồng dường thể bên ta,

              Nuôi con trông cậy lúc già,

Lứa đôi nên phận việc nhà chăm nom.

       Thì ta phải sớm hôm trọng kỉnh,

       Giúp cho chồng thần tỉnh mộ khang,

              Khi đắp lạnh, lúc quạt nồng,

Thuốc thang cơn yếu, đỡ công lúc lành.

       Chán những kẻ miệng lanh lưỡi bén,

       Áo quá đầu thêm thẹn những ai,

              Trả lời ngang ngạnh đắng cay,

Mẹ cha một tiếng, dâu hai ba lời.

       Rồi những kẻ chê cười báng nhạo,

       Sái cang thường lỗi đạo dâu con,

              Ðể chồng căm tức thon von,

Mẹ cha rày cũng não nồng tấc gan.

       Người khôn biết châu toàn trách nhiệm,

       Tánh chìu lòn nhẫn nhịn là hơn,

              Mẹ cha rầy chẳng dám hờn,

Tươi cười sắc mặt lo tròn phận ta.

       Ðạo dâu con trong nhà mọi việc,

       Phải xét xem cho biết trước sau,

              Nào bước ra, nào lối vào,

Việc nào cai quản, việc nào sửa sang.

       Khi chồng bước ra đàng vắng dạng,

       Nỗi nhà lo bao quản khó khăn,

              Của chồng công vợ lập nên,

Rủi khi thất phát ai đem bồi thường.

       Cơn gặp khách tha hương kiếm bạn,

       Vắng chồng ta chuyện vãn nghiêm trang,

              Chớ e ấp, chớ kiêu căng,

Tự nhiên vẫn tánh nói năng như thường.

       Lúc chồng còn viễn phương xa cách,

       Kẻ làng chơi là khách tìm xuân,

              Ðến toan nài nỉ nhiều lần,

Lắm khi tiếng uyển giọng đờn rủ ren.

       Có duyên sắc kẻ quen hỏi giá,

       Trả lời rằng xuân đã đông quân,

              Trăm năm xuân có một lần,

Ngoan lời khỏi thẹn hồng quần khỏi nhơ.

       Tình âu yếm phụng thờ chồng nghĩa,

       Khỏi tiếng đời mai mỉa xéo xiên,

              Nghìn thu vẹn tiếng gái hiền,

Ðáng nhà thế phiệt trọng niềm hiếu trinh.

       Ðã hoàn mỹ trăm phần nội trợ,

       Tròn phận thân gương vợ đối chồng,

              Trung trinh tình hiếu đã xong,

Phận thì đẹp phận, duyên cùng thắm duyên.

       Khi hoa đã gần miền đua nở,

       Thọ thai con gìn giữ ân cần,

              Cốt phu huyết phụ gầy thân,

Hãy tua cẩn thận kẻo lần xấu hư.

       Tuân thai giáo bấy chừ vẹn giữ,

       Lòng bạch thanh ý tứ ôn hòa,

              Không nên giận dữ phiền hà,

Sanh con ắt phải tính ta học đòi.

       Ðừng tư tưởng những lời hung bạo,

       Mà sanh con mất đạo hiếu hiền,

              Dưỡng thai phải nhẫn phải kiên,

Sanh con ắt được tánh hiền dễ răn.

       Ðừng tư tưởng dị đoan mê tín,

       Mà sanh con bất chánh về sau,

              Ðừng nghe những chuyện xôn xao,

Sanh con rối trí khó âu việc gì.

       Ðừng nghe tiếng thị phi huyễn hoặc,

       Mà sanh con thì ắt khó răn,

              Phải nên ăn ở trang bằng,

Sanh con chắc được hoàn toàn nết na.

       Ðừng tư tưởng tà ma quỉ quái,

       Mà sanh con lòng vẫn phập phồng,

              Dưỡng thai phải ở cho công,

Sanh con chánh trực gan lòng tốt xinh.

       Dưỡng thai phải sử kinh xem đọc,

       Thì sanh con đặng óc thông minh,

              Con hư tại ở nơi mình,

Bởi không kiên nhẫn tánh tình giống ta.

       Khi sanh trẻ nên ba còn bé,

       Khéo nâng niu phận mẹ nuôi con,

              Lời thô chừa tránh vuông tròn,

Dạy từ tiếng ngọt, lời ngon quen lòng.

       Nên năm, bảy, vừa khôn vừa biết,

       Cho đến trường lo việc sách đèn,

              Khôn nhờ có sự tập quen,

Dại là bởi chẳng đua chen học đòi.

       Trai phải dạy ở đời ngay thảo,

       Gánh cung dâu là đạo làm người,

              Non sông rỡ mặt với đời,

Hiếu cho đáng thảo, trung thời trọn ngay.

       Con phải biết làm trai phận sự,

       Vạch tim con để chữ "Tận trung",

              Dầu cho lực cạn thế cùng,

Cũng hy sanh mạng để dùng cứu nguy.

       Gặp phải lúc nhà suy nước loạn,

       Phận làm trai tạo sáng cơ đồ,

              Nam nhi tứ hải ngũ hồ,

Nước nhà nguy loạn trông nhờ nơi con.

       Học tài giỏi không lòng ái chủng,

       Dầu con nên mẹ cũng cho hư,

              Nhục nhà còn phải rửa trừ,

Nhục cho quốc thể an cư đặng nào.

       Tài chi kiếp tù lao nô lệ,

       Án văn chương dành để mốc meo,

              Không cao con cũng rán trèo,

Lần tùy khúc vạy, đường eo ở đời.

       Gái thì dạy trau dồi tứ đức,

       Gương mẹ kia con học cho tinh,

              Khôn nên trau sửa phận mình,

Noi khuôn thức mẹ đồ in học đòi.

       Khi trẻ đã nên người khôn lớn,

       Như hải đường mơn mỡn đơm hoa,

              Dạy con hoàn mỹ trong nhà,

Ðến khi xuất giá phải là cho khôn.

       Ðừng kén chỗ lầu hồng các tía,

       Miễn phải duyên, phải nghĩa, phải nhân,

              Ðừng ham phú, chớ phụ bần,

Ðồng tâm hiệp ý gởi thân sắn bìm.

       Con phải biết suy kim, nghiệm cổ,

       Mạng giàu nghèo tự số thiên công,

              Thử xem nhiều kẻ có chồng,

Trước giàu sau khó nặng lòng bằng hai.

       Cũng lắm kẻ trước khi chồng khó,

       Rồi lần sau từ đó trở lên,

              Bởi chưng ý chí người bền,

Phước phần không có, hư nên mấy hồi.

       Kén là kén lòng người quân tử,

       Chớ đừng ham cho sự nghiệp đầy,

              Bần thanh phú trược mà chi,

Giàu vô hạnh phúc, đâu bằng nghèo vui.

       Kén là kén những nơi đạo đức,

       Giáo dục nhà hạnh phúc toàn xong,

              Vui là thuận vợ, thuận chồng,

Buồn là bởi kẻ chẳng đồng ý nhau.

       Hằng lắm người chồng giàu hơn vợ,

       Bao giờ chồng yêu vợ nhiều hơn,

              Bởi có tiền, hiếm phấn son,

Sắc con tuy đẹp nhưng còn kẻ hơn.

       Trọng là nghĩa keo sơn quí đáng,

       Ðồng ý nhau kết bạn giao cầu,

              Phải là đời kiếp tròn câu,

Nên dây cầm sắt tương đầu phu thê.

       Dạy con đừng sụt-sè e-lệ,

       Tuy liễu bồ sánh thể nam nhân,

              Gia đình trọn vẹn trăm phần,

Rồi ra xã-hội con cần xã giao.

       Ấy phận mẹ những điều dạy trẻ,

       Cho rành khuôn học lễ học văn,

              Sáng gương thể bóng ả hằng,

Tài chương phiệt duyệt sánh bằng nam nhân.

       Thời tiết đổi phong trần ấm lạnh,

       Rủi giữa đường gãy gánh thinh không,

              Nệm nghiêng gối chiếc cô phòng,

Thuyền lan sóng nhận giữa dòng sông Ngân.

       Tùy hoàn cảnh nuôi thân qua bữa,

       Chắt chiu con lần lựa tháng ngày,

              Như con đã lớn nên người,

Nương con thủ tiết trọn đời sạch trong.

       Không vì mến hơi đồng tiếng bạc,

       Ðầu còn tang man mác lửa tình,

              Quên lòng đinh sắt trung trinh,

Nghĩa xưa càng lợt đem tình giả mang.

       Dầu như con còn đang thơ bé,

       Hết sức lo nuôi trẻ không rồi,

              Lo nay còn thiếu ngày mơi,

E cho con trẻ bước đời truân nguy.

       Nào lo ăn còn khi lo mặc,

       Có đâu lo sắp đặt học hành,

              Ðể hư cho trẻ không đành,

Nhưng tiền khủng hoảng phải thành khoanh tay.

       Thương chồng muốn dòng người tốt đẹp,

       Muốn sao con học thuật với người,

              Về sau khỏi chúng chê cười,

Thang danh sẽ bước với người vinh quang.

       Nhưng liễu yếu thân nàng góa bụa,

       Riêng một mình như đủa chiếc đôi,

              Ðộc thân khó liệu cho rồi,

Nhưng lòng cũng quyết trau dồi sử kinh.

       Dầu gặp phải thế tình lãnh đạm,

       Nhờ thể đoàn bảo đảm lấy ta,

              Chớ đem những thói gian tà,

Mới nên trinh liệt mới là gái ngoan.

* * *

       Trung trinh phận gái vẹn toàn,

Ðàng ngay nẽo gắt đâu màng sợ chi.

       Nên gương nữ kiệt một thì,

Ðáng trang phiệt duyệt nữ nhi ai tày.

       Sống đời biết một không hai,

Ðường ngay thẳng bước chi nài khổ lao.

       Giồi trau đẹp đẽ chí hào,

Dầu cho sóng bủa ba đào há lơi.

       Trung trinh tốt đẹp ai ơi!!!

 

            Ban ơn chư hiền. Ta xin kiếu...

 

Thiên-Lý Bửu-Tòa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674

Website: www.thienlybuutoa.org     Email    Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT

Thông bạch in Kinh