* * *
THI
HUỆ đức ban ra khắp thế gian,
MINH tường chân tánh tại Tây
phang,
CHƠN nguơn thanh tịnh gồm Tam
bửu,
TIÊN xuất thần quang tại Niết
bàn.
Bần đạo chào chư phận sự, tịnh
tâm nghe bần đạo thuyết minh về TỨ GIÁO THẤT CHƠN TRUYỀN, cho người đời t́m
hiểu để biết tà chánh, hầu đi đến hội Đại Đồng Tôn giáo không có phân các
triết lư dưới trần gian gồm tinh ba lại một để làm triệu chứng, đủ kinh nghiệm
hoàn toàn cho nhân loại đủ đức tin mà học hỏi. Từ trước đến giờ có Tam Giáo
Thánh Nhân hoằng khai dạy Đạo, tùy theo phong trào thời đại mà thuyết lư phổ
thông, cho dân sanh tỉnh ngộ.
Tiên Giáo có Lăo Tử lâm phàm
thuyết hư vô hoằng khai đạo pháp để dạy đời, lần lần nhân sanh sai lạc, dùng
bùa chú của Tiên gia mà trừ tà ếm quỉ, bày binh bố trận đồng cốt lăng xăng,
làm mất chơn truyền Tiên Giáo.
Phật Thích Ca giáng sanh nhằm
thời Trung Cổ tại Ấn độ, đời nhà Châu vua Chiêu Dương, dùng thuyết vô vi chơn
truyền dạy đạo đắc thành xá lợi kim thân, dân sanh thành Phật cũng nhiều. Rồi
cũng v́ danh lợi câu nhử nhân tâm xa lần chánh giáo, bày ra thinh âm sắc
tướng, chuông mỏ kệ kinh, lầu kho công khố, lư chơn mờ mịt, hành theo Tiểu
Thừa, tụng kinh cúng dường hằng ngày chớ tâm pháp chơn truyền đều mất hết.
Nho Giáo có Khổng Tử lâm phàm
nhằm đời Đông châu Liệt quốc, qui nguyên nhằm buổi loạn ly, vua yếu, tôi mạnh,
giặc giă lan tràn, năm giềng xiêu đổ. Sang Trần qua Thới, mở đạo dạy dân cho
biết giềng mối Ngũ luân: vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bậu bạn, t́nh
nghĩa làm đầu. Nho Giáo thạnh hành một lúc, rồi dân sanh lần xa đạo lư, dùng
chữ học hành thi phú để ra làm quan, mê sa vật chất, làm sai lạc lư chánh Nho
gia.
Bên Tây phương có Thánh đạo ra
đời, Jésus giáng sanh dạy đạo khắp cả năm châu.
Nay nhằm buổi Hạ nguơn, thời kỳ
mạt kiếp, bốn nền chân giáo đă thất kỳ truyền, dân sanh không phù hạp. Thời
đại đương kim, dân sanh xu hướng theo đường văn minh vật chất, không c̣n biết
chi đến luật Trời, cơ báo ứng, dùng khoa học mà chế ra các thứ máy móc tối
tân, cơ khí để tàn sát lẫn nhau mà giật giành non sông đất nước thành ra núi
xương sông máu, nên Cao Đài Giáo dùng thuyết Trung Ḥa tùy theo tŕnh độ trào
lưu của dân tộc mà dạy Đạo tại xứ Việt Nam, mở rộng chơn truyền phổ thông
giáo lư cho dân Việt Nam noi theo tu hành, rồi lần lần truyền ra khắp năm châu
cho nhân sanh hưởng ứng.
THI BÀI
KHOÁN THỦ
Cao siêu lắm huyền vi đạo
pháp,
Đài giáo dân phù hạp kỳ
ba,
Tôn nghiêm tức lư
dung ḥa,
Giáo khai tôn pháp cải tà qui
chân.
Thuyết chơn lư nghe đờn
tỉnh mộng,
Minh cơ mầu đổ trống giác
mê,
Dạy dân thức tỉnh
đề huề,
Cơ thiên đă định quay về Thượng
nguơn.
Siêu ba cơi tuần hoàn
chuyển lập,
Thoát ngoài ṿng dồn dập
sông mê,
Thần Tiên chỉ ngơ
quay về,
Tinh tường triết lư điểm đề quần
sanh.
Gom nhau lại lập thành
quốc đạo,
Vào trường thi đốn giáo
thượng thừa,
Mau lo trở bước kẻo
trưa,
Toan lo đến bến đ̣ xưa vượt ngàn.
Giải tứ tường tan hoang
bốn vách,
Phá thành sầu phủi sạch
phàm tâm,
Bốn tường vây chặt
tối tăm,
Rào chung nhân loại giam cầm mê
mang.
Ǵn đạo đức nắm phăng
hưởng ứng,
Tṛn tâm cang sửa dựng
cuộc đời,
Quy gồm đạo đức năm
nơi,
Giới răn ǵn trọn luật Trời không
vương.
Giồi bửu pháp là đường
diệt khổ,
Trau Nguơn thần t́m chỗ an
nhàn,
Tâm trung mở khiếu
huyền quang,
T́nh đời mộng ảo chớ màng chớ mê.
Ngày đắc đạo dựa kề Tiên
vị,
Đêm cần lo luyện kỹ trúc
cơ,
Học thông máy nhiệm
đơn thơ,
Tập rèn cơ thể huyền cơ sẽ tường.
Sửa bổn tánh thuần dương
êm lặng,
Ḿnh ngồi ngay mắt nhắm
vào trong,
Diệt thông quá khứ
mộng ḷng,
Trừ tâm hiện tại ước mong hoang
đường.
Lục thông suốt tỏ tường
minh huệ,
Dục lửa ḷng tâm để an
nhiên,
Thất muôn niên lẻ
Đạo truyền,
T́nh trường bể loạn mau liền
thoát ra.
Tâm tỉnh ngộ ái hà diệt
tận,
An một ḷng tinh tấn hôm
mai,
Trần gian là chốn
đọa đày,
Ai người tỉnh ngộ kiếp nầy cần
lo.
Đổi Lạc thơ Hà đồ đắc đạo,
Lại Non bồng chơn đạo ngao
du,
Thiên nhiên cảnh
lạc trời thu,
Đàng tiên nẻo Phật công phu tỏ
tường.
Vô vi Đạo là phương thoát
tục,
Phiền ba đời giục thúc mê
say,
Vô duyên phải chịu
đọa đày,
Năo nhơn xa lánh thiện tài lần
lên.
An nhiên hỡi! Ḷng bền son
sắt,
Nhàn th́ lo chỉ dắt theo
Thầy,
Thanh thanh nguyệt
lặn về Tây,
Tân dân sửa lại gặp ngày Thuấn
Nghiêu.
Xa cảnh khổ, tiêu điều thê
thảm,
Mùi trần ai giả tạm chớ
say,
Chung lo đạo đức
cho đầy,
Đỉnh trần vội giục là ngày biến
thiên.
Đai một bầu hạo nhiên chi
khí,
Cân đại thừa huyền bí hư
vô,
Giác minh tránh
khỏi mê đồ,
Quang huy chói rạng điểm tô Nguơn
thần.
Êm như nước trong ngần
không dợn,
Lặng trang bằng chẳng dợn,
chẳng xao,
Tinh tường giáo lư
thanh cao,
Thần quang phản chiếu giồi trau
đắc thành.
Phát tâm nguyền đường lành
bước đến,
Minh cơ mầu thoát bến mê
tân,
Qui nguyên lại một
tinh thần,
Y như khuôn mẫu sửa lần chơn tâm.
Tam bửu là huyền thâm báu
trọng,
Bửu châu linh gióng trống
ba hồi,
Ngũ châu rơ biết
đạo Trời,
Hành y nhứt luật gặp đời thuần
phong.
Sang Thượng cổ con Hồng an
hưởng,
Qua Tam-kỳ bành trướng
Nhơn hoàng,
Nhị châu sắp đặt
lớp lang,
Bộ dân giáo hóa Nam Bang gội
nhuần.
Đắc đại đạo ba dân vui vẻ,
Thành
Nam giồi cực thượng viên
minh,
Đạo là qui hiệp khí
tinh,
Chơn truyền thọ kư, Huỳnh đ́nh
rèn tu.
Dầu khô cạn đèn lu phải
tắt,
Cho chơn thần bế tắc đơn
đài.
Cực ḷng mựa chớ
đơn sai,
Khổ tâm rán chịu đôi ngày siêu
thăng.
Chi vô vi hóa hoằng dạy
thế,
Sờn tấc gang chớ để lưng
vơi,
Âm dương ngưng kết
hạp thời,
Dương sanh âm tận, số trời định
phân.
Tương dưa giữ ân cần chớ
đổi,
Hiệp đơn điền tứ cội Tam
gia,
Triều thiên bái
Phật ta bà,
Nguơn ba sửa dựng đạo nhà thạnh
hưng.
Diên hống kết coi chừng dè
dặt,
Thành đạo rồi sẽ đắc kim
thân,
Tam hoa tụ đảnh
xuất thần,
Hoa khai thấy Phật, lại gần Ngọc
kinh.
Xuất thánh thai thần tinh
gom một,
Hiện kim quang đến tột mây
lành,
Tam tinh hóa hiện
đường lành,
Thanh thanh vi diệu đắc thành
tiên gia.
Càn tam liên chia ba
thượng hạ,
Khôn âm thầm sáu ngă luân
hồi,
Luân hồi muôn kiếp
nổi trôi,
Chuyển luân quanh lộn muôn đời
khó ra.
Vận châu thiên quây mà
bánh pháp,
Hành nội công tương tiếp
điểm mầu,
Châu lưu chơn khí
tóm thâu,
Thân tâm đắc ngộ, đạo mầu minh
quang.
Lăo chỉ dạy trung đàn phận sự,
Từ tâm lo ǵn giữ cơ quan,
Giă thân cơi tạm chớ màng,
Kiếu từ phận sự vượt thoàn về Tây...