Trở lại trang chánh của Website Thiên Lư Bửu Ṭa
|
BÀI THUYẾT TR̀NH VỀ THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO “LƯ HUYỀN THÔNG” -*-
- Kính thưa Ban Tổ Chức Khóa Hạnh Đường
2003 -
Kính thưa Các Chức Sắc, Chức Vụ và tất
cả Huynh Đệ Tỷ Muội Trước
tiên, Đạo Muội xin cảm tạ Ban Tổ Chức
đă cho phép Đạo Muội được vinh hạnh
lên đây đại diện cho Cơ
Thiên Khai Huỳnh Đạo Lư Huyền Thông để
đọc bài tham luận và các Đệ, Muội Lư
Huyền Thông cũng rất tiếc v́ sau chuyến hành
nhiệm dai dẳng vừa qua, Đoàn đă không thể thu
xếp kịp để tham dự đầy đủ các
buổi học của Khóa Hạnh Đường vào đúng
ngày giờ đă qui định.
Vậy xin Chư Huynh, Đệ, Tỷ, Muội vui ḷng
thông cảm cho. Sau đây,
Đạo Muội xin được tóm lược về
nguồn gốc, ư nghĩa và mục đích cùng tâm pháp
của Cơ Đạo: 1.
NGUỒN GỐC: Từ
ngàn xưa có nói: “Mạt Hậu Thiên
Khai Huỳnh Đạo.” -
Thiên Khai Huỳnh Đạo
phát xuất từ Cao Đài Đại Đạo, khởi sinh
tại Hội Thánh Cao Đài Nhị Giang (An Giang) vào năm
Kỷ Hợi (1959), sau chuyển về Sàig̣n tạm định
tại Long Vân Đại Pháp (Nam Thành Thánh Thất) và Long Vân
Đại Đàn (Gia Định) vào cuối năm Tân Sửu
(1961). Nhưng măi đến
năm Nhâm Dần (1962), lời tiên tri này mới
được thực hiện. Đức Cao Đài Thượng
Đế mới chánh thức ban truyền Đệ Nhứt Niên
Kỹ Nguyên Huỳnh Đạo tại trần và tuyên
lập bản Hiến Chương Huỳnh Đạo
gồm có 11 chương chia thành 24 điều khoản
(Xin xem phụ lục chi tiết Bản Hiến Chương). -
Ba năm sau, hệ thống Huỳnh Đạo đă
chiếu rạng nhiều nơi: Trên
có Chưởng Ṭa
Tổ Đ́nh Huỳnh Đạo Châu Đốc do Đức Thiên
Ngọc Như Lai Ngọc Minh Linh được thiên
lệnh sắc phong Chưởng Giáo vào năm 1964;
chịu trách nhiệm hướng dẫn Phái Ngọc, Phái
Sơn, Phái Huệ, Phái Bửu trên đường tu
học. Đức Chưởng
Giáo quí danh Ngô Văn Dư tự Hoàng Dư, sanh ngày 20
tháng 2 năm 1912 tại Hà Tiên; lúc thiếu thời Ngài
đă được Đức Ngôi Hai Ngô Minh Chiêu (lúc sinh
tiền) nhiều lần điểm đạo truyền
pháp Chiếu Minh Tam Thanh, nhưng đến năm 1954 Ngài
mới hoàn toàn trường chay tịnh luyện. Ngài
liễu đạo vào ngày mồng 02 tháng 10 năm Kỷ
Dậu (1969) và được Quần Tiên Hội đắc
phong Phó Chủ Khảo Long Hoa Hội vào ngày 15 tháng 10 năm
Canh Tuất (1970) Thống
thuộc dưới có các Bửu Ṭa Di Lạc:
G̣ Công (Mỹ Tho), Tiền Giang (Gia Định), Trung
Giang (Vĩnh Long), Hậu Giang (Bạc Liêu), Liên Giang (Phong
Dinh) và những Bửu Ṭa đại diện khác tại
Bửu Sơn - Thất Sơn (Châu Đốc), Kiên Giang, Hà
Tiên,Long Khánh …cùng những nơi khác trong nước và
ngoài nước sau nầy, đúng với lời tiên tri
“Kỳ Ba Cứu Thế”.
2. Ư NGHĨA và
MỤC ĐÍCH: -
Thiên Khai Huỳnh Đạo được gọi là
Huỳnh Đạo; là Vô Vi Đại Đạo lấy âm dương
làm gốc, ngủ hành làm thể; ḥa hợp ở Trung
Huỳnh Mồ Kỷ Thổ để luyện Kim Thân Thánh
Thể, xuất khiếu hiển thần, đoạn
dứt luân hồi lục đạo. -
Huỳnh Đạo là thể hiện hoàn mỹ của Đạo
Cao Đài: hửu, vô trọn vẹn.
Huỳnh Đạo là diệu lư của Tam Giáo, Ngũ
Chi; lấy nhân, nghĩa, thành, tín làm căn bản;
từ bi, bác ái, công bằng làm chuẩn thằng; mật
pháp siêu nhiên làm phương châm; cứu thế, lập
đời làm mục đích. -
Thế gian thường t́m Đạo ở ngoại
cảnh, thường kiếm lư ở hữu h́nh, thường
mưu trường sinh ở tứ đại; nên măi
quẩn quanh trong lục đạo thường t́nh.
Huỳnh Đạo là cái Đạo chơn thường ở
Linh Tâm, cái Lư chơn thường ở Thiện Tánh, cái
Sống chơn thường ở Thiên-Mạng. Tâm -Tánh
- Mạng phục ḥa, đồng vị ngôi Tiên Phật. -
Huỳnh Đạo không phải là một tôn giáo riêng
biệt với một khuôn khổ giáo lư eo hẹp, mà chính
là đạo trời vỉnh cửu bao quát vạn loài,
là nguồn sống tuyệt màu lưu hành trong vủ
trụ. Đặc biệt, Huỳnh Đạo là một Cơ
Duyên Đại Kiếp; kết tụ những nguyên căn,
những kẻ phước đức ngàn đời
để dự hội Long Hoa, để nghinh tiếp Đức
Di Lạc lâm phàm qui Tam Giáo, thống Ngũ Chi; lập
lại khắp trần gian Đời Tân Dân Minh Đức.
Huỳnh Đạo sẽ chói rạng hoàn cầu và vạn
quốc sẽ hướng về một mối Vô Vi Đại
Đạo đặt tại Nam Bang Thánh Địa:
“ DI LẠC hiện muôn
Thần vạn Thánh,
Các Thiên Tinh đại lảnh Linh Văn,
Qui nguyên Tam Giáo gọi
rằng: Ngũ
Châu vạn quốc phục thần Nam Bang.” 3.
TÂM PHÁP: Tâm
Pháp Huỳnh Đạo không những chỉ nhắm vào
sự ǵn tâm, giử ư, diệt lục dục, thất t́nh,
mà lại c̣n phải chú trọng vào cái bản tánh,
diệu dụng của tâm, đồng thời dùng
những phương pháp hửu hiệu để làm cho
tâm được sáng suốt, huyền diệu, linh-thông;
hầu hội nhập trở về với Đại Tâm
Linh của vũ trụ. Tâm
là điểm linh quang của Thượng Đế,
bắt nguồn từ Hư không, Vô h́nh, Vô sắc,
Tối diệu, Tối linh; lớn không có ǵ sánh,
nhỏ không có ǵ bằng, linh động khắp càn khôn,
nhưng thường trụ ở nơi Người
vậy: Tịnh th́ làu làu
sáng rở như ánh nguyệt đêm thu, động th́
tán ra lục dục thất t́nh và muôn ngàn giả ánh.
Do đó, muốn phục hồi cái tâm được
hoàn toàn sung mản, trọn vẹn linh thông, không
phải dùng những cách thức đă dạy từ xưa,
mà phải xử dụng một phương pháp chí
nghiệm, chí linh, phương pháp của Tam Kỳ
Cứu Thế -Thiên Khai Huỳnh Đạo: a.
Không phải diệt lục dục thất t́nh, v́
nếu không có lục dục thất t́nh th́ hóa ra Tâm là
một vật vô t́nh cảm khác nào sắt đá.
Trái lại, phải thuần khiết lục
dục, thất t́nh, chuyển nó thành lục thông,
thất bảo nhập trở về Tâm th́ Tâm mới không
hao ṃn mà lại càng được thêm sáng suốt,
huyền diệu. b.
Chẳng phải không nhận thức mọi ảo
ảnh của trần, như thế khác nào vô tri, vô
thức, mà ngược lại không để các giả
tưởng ấy làm lay động, ám ảnh tâm linh, và
phải nhận thấy cái Không trong đó: nghe mà không
nghe; thấy mà không thấy; ngửi, nếm, chạm mà
không biết mùi, vị, cảm ǵ; có thế mới
chuyển sắc hườn không, mới giử chơn tâm
viên mản. c.
Hườn không chẳng phải là hườn
lại thành không có ǵ cả, mà là không cảm, không xúc,
không nhiểm, không đắm, không vương; cái không
trong Huyền-nhiên chi-khí ứng biến vô cùng tận: phóng
ra, th́ hóa vũ trụ càn khôn; thu vào, th́ vô h́nh vô
sắc, huyền-huyền, diệu-diệu. Các
tâm pháp trên đây cũng chưa gọi là đủ.
Muốn đoạt được tột độ
huyền linh, nghĩa là muốn thực hiện trọn
vẹn chơn tâm, chơn tánh; hơn nữa, muốn
sống trường miên vĩnh cửu, cùng thể Đất
Trời; vượt khỏi định luật Càn Khôn Vũ
trụ; cần phải luyện Mật Pháp Chơn
Truyền Huỳnh-Đạo siêu nhiên để được
ngàn thuở thung dung nhàn lạc; đó mới gọi là
hoàn toàn giải thoát vậy. Thật
vậy, mổi Tôn Giáo đều có một Chơn
Truyền, nghĩa là một giáo pháp, một tâm pháp vô h́nh
để cứu người khỏi trần mê, bể
khổ. Chơn truyền
ấy, dầu cao thâm, dầu mầu nhiệm, cũng
chỉ ứng dụng một thời gian, rồi sau đó
phải lu mờ v́ không có đại duyên thọ lănh,
hoặc v́ có người canh cải, sửa
đương theo phàm tâm, nhơn ư. Gương
xưa c̣n đó, Đạo Nho đă lạc bổn kể
từ Mạnh Tử; Đạo Lảo đă vong nguyên
kể từ Dương Dương Minh; Đạo Thích
đă bế khuyết kể từ Thần Tú…
Gần hai ngàn năm nay, Tam Giáo đă thất chơn
truyền, kẻ tu th́ rất nhiều, mà người
đắc chưa thật có; ngoại trừ lẻ
tẻ Đông, Tây một vài Giáo Chủ muốn nối
tiếp duyên xưa…nhưng mà môn đệ noi theo th́
thật là yếu ớt, mập mờ, như ngọn
đèn lu trước gió. Ngày
nay, gặp cơn Mạt Hạ, huyền linh tiêu tán,
vật chất tràn đầy, chánh pháp suy vi, tà
thuyết lộng khởi; khiến nên nhân tâm rối
rắm, thiên hạ đảo điên, thế giới cơ
hồ đă biến thành một địa ngục.
Đó là báo hiệu của một cuộc điêu tàn,
sắp diển trên quả địa cầu và đó
củng là báo điềm ngày Tam Giáo Qui Nguyên, Ngủ Chi
Hiệp Nhứt để thiết lập trên toàn
cỏi thế gian một mối Đạo Trời duy
nhứt, tối diệu, tối huyền, gọi là Thiên
Khai Huỳnh Đạo. Chơn
truyền Huỳnh Đạo là tinh hoa của Tam Giáo
được chấn chỉnh, hồi sinh; nó cũng là
diệu lư, siêu pháp của Tam Kỳ ban truyền buổi
mạt hạ Tàn Ngươn để đưa nguyên căn
đến Hội Long Hoa, để lập Đời Thượng
Ngươn Thánh Đức, DI
LẠC QUẢN QUYỀN, Thần Tiên ngự thế. Chơn
truyền nầy có ba sắc thái đặc biệt: Sự,
Lư, Pháp. -
Sự:
Huỳnh Đạo hiểu theo lẻ cao nhiên, chớ
không theo cách thường t́nh của nhân sanh bách-tuế.
Như hiếu, chẳng phải chỉ có kính
trọng, vâng lời, chăm nom, phụng dưỡng cha
mẹ theo lẻ thông thường; mà cần yếu là
phải trọn dạ thương yêu, báo ân cúc dục,
không phải chỉ lúc sanh tiền, mà c̣n sau ngày quá văng,
cứu vớt hồn linh của mẹ cha bằng cách
lập công, bồi đức; tu hành theo thượng
thừa chánh pháp. Như
tín, không phải chỉ v́ một lời nói mà thi hành,
hay v́ hư danh mà giữ hẹn…đó chẳng qua
chỉ là hành động theo bản ngă…; mà giữ tín,
cốt yếu là v́ t́nh thương yêu, v́ ư giúp đỡ,
v́ không nở để người đợi chờ,
thất vọng, thiệt tḥi: đó là v́ Người mà
giử tín vậy. -
Lư:
Huỳnh Đạo không quan niệm cái lư tương
đối trong ṿng trăm tuổi, mà quan niệm cái lư
trường miên, vượt khỏi hạn giới
của đời, nhưng vẩn ứng dụng linh
diệu trong đời: đó là lư thiên-nhiên lưu hành
trong Tam-Thiên, Đại- Thiên thế giới.
Đây thân tứ đại! Không phải v́ nó là ô
trược, giả tạm mà hủy hoại, bỏ bê,
theo thuyết khổ hạnh; trái lại phải săn sóc,
bồi bổ để dùng nó luyện Kim Thân Thánh
Thể, xuất khiếu, hiển thần. Nhưng
cũng chẳng phải v́ cần nó mà phải săn sóc,
bồi bổ quá mức theo thuyết hiện sinh hưởng
thụ; mà quên phần tịnh luyện cao nhiên, vô vi
điều ngự. Tại sao vậy?
Tại v́ chơn giả đi đôi, thiếu
một cũng không được.
Nếu chỉ thấy giả, th́ đâu mà gặp
được chơn; c̣n bằng chỉ t́m chơn, th́
t́m ở đâu ra nếu bỏ giả? Chơn, giả
dung ḥa; âm, dương ngẩu-hợp th́ mới đắc
được chơn tâm, mới tạo được
Xá-Lợi; đó là siêu lư thượng thừa Huỳnh
Đạo. -
Pháp:
Huỳnh Đạo không chấp vô, không chấp
hữu, mà gồm cả hữu lẫn vô; cả Tiên thiên
lẫn Hậu thiên; ứng hóa diệu mầu theo lẻ
động tịnh: động th́ vô hóa hửu, Tiên thiên
biến Hậu thiên; tịnh th́ hữu trở về vô,
Hậu thiên hườn lại Tiên thiên.
Huỳnh Đạo cũng không nhắm một sự
ứng nghiệm, một huyền diệu nhất thời
về hữu h́nh, hay vô h́nh, hay một quyền lực
thậm thâm, vi diệu; mà nhằm cái lẽ sống trường
miên vĩnh cửu, tự tại thung dung, sớm biển
Bắc, chiều non Nam, khắp Càn Khôn Vũ Trụ. Chơn
truyền nầy không phải chỉ là vật báu riêng
của Huỳnh Đạo, mà là Bửu pháp vạn đời
của chung Cửu Lưu Tam Giáo.
Người Huỳnh Đạo mà không theo đúng, cũng
chưa phải là Huỳnh Đạo.
C̣n trong Cửu Lưu Tam Giáo mà có kẻ hành theo, th́
kẻ ấy vốn thật là Huỳnh Đạo vậy. Cho
nên, Huỳnh Đạo không phân biệt Tôn Giáo mà nó bao
gồm, ḥa hợp các tôn giáo trong một Thể Đạo
cao nhiên, một Lư Đạo thâm diệu, một Pháp Đạo
siêu mầu mà Tam ngươn một thưở, Thượng
Đế ban truyền để mở lại cuộc
tuần hườn dài mười hai vạn chín ngàn sáu
trăm năm chẳn. Đặc
biệt, khi các đạo sinh Huỳnh Đạo tu học
đầy đũ Công Phu Tịnh Luyện sẽ
tiếp nhận được Ngọc Kinh của Đấng
Chí Tôn để lảnh sứ mạng thiên ân giao phó;
như lời Đức Chí Tôn giáng cơ vào Mẹo
Thời ngày 19 tháng 12 Giáp Th́n (21/1/65), đă giảng
về Ngọc Kinh huyền diệu xuất hiện kỳ
ba, được tóm tắt như sau: a.
Ngọc Kinh là một
bộ kinh vô ảnh, vô h́nh, vô vi, vô thính, vô trần; là
một bộ Vô Tự Tâm Kinh, là một thiên thơ
dạy theo lối giao cảm truyền thần do sự
huyền diệu của Đức Chí Tôn hồng ân ban cho
những vị chí thành, dốc ḷng tu niệm, hoàn
thủ chánh tâm, tri hành chánh pháp mà chánh pháp ấy là Đại
Đạo vậy. b.
Ngọc Kinh xuất
hiện trong tâm trí của bậc chơn tu, công dày
quả dặn đă được Đức Chí Tôn điểm
đạo và thọ điển linh của Thượng
Đế để hành thi Thiên Ư trong những ngày kỳ
ba mạt hạ tới đây. “
Thầy khai kinh hiệp vầy con trẻ Thầy
khai kinh mau lẹ không lâu” Thầy
truyền chơn điển, nhập thần vào những
bậc Thượng Thừa. Mở
huyền quang linh khiếu cho tu sỉ được
lục thông hầu trực tiếp thông công với
Thầy để giải quyết kịp thời
những vấn đề cấp bách trong buổi Hạ
Ngươn. Nhờ sự mầu nhiệm đó mà
nhân sanh mới nhận thấy rỏ rệt câu: “
Thầy là các con, các con là Thầy
Thiên Thể Đồng Qui” Trước
kia kinh điển dạy về phần lư thuyết
nhiều hơn thực tập, ngày nay Ngọc Kinh dạy
bằng thực tế; chỉ phương pháp thực hành
ngay, để áp dụng và gặt hái kết quả mau
chóng. c.
Ngọc Kinh có giá
trị đối với mọi tu sỉ, v́ Ngọc Kinh
gồm chung “Thiên Thể Đồng Qui” có thiêng liêng mà
củng có tu sỉ nửa. Công Phu, Công Quả, Công
Tŕnh đầy đủ, công đức càng to lớn
bao nhiêu, th́ Ngọc Kinh càng huyền thâm bấy nhiêu.
Các tu sỉ càng tu, càng mở mang trí huệ; lục thông
càng làu th́ pháp càng cao, thuật càng diệu. d.
Ngọc Kinh sẽ
xuất hiện ở những bậc Thiên Sứ, sẳn
sàng hi sinh dấn thân hành đạo; đó là những
điển đồng được ân thiên khải
khắp nơi trên hoàn vũ sẽ trổi những thiên
âm có đủ huyền-lực để công bố
sự cải tiến của quả địa cầu.
Một kỷ nguyên mới sẽ trổi lên trên thế
giới: người Cao Đài gọi đó là Đời
Tân Dân Thánh Đức. e.
Ngọc Kinh không phải
bất di, bất dịch. Ngọc Kinh hiện
hoặc biến, c̣n hay mất tùy theo người tu có
những hành động chánh hay tà. Theo Tân Pháp
của Đức Chí Tôn Cao Đài, Ngọc Kinh chỉ
huyền diệu trong tâm của người tu sỉ có
đầy dư âm chất, một ḷng hướng
thiện, cứu dân, độ thế. Nếu người
tu sỉ bất lương, th́ trong nháy mắt Ngọc
Kinh sẻ biến mất. Nhờ vậy, Ngọc Kinh
vừa đủ để cứu đời, trợ
khốn, pḥ nguy, an dân, an đạo; chớ không cho phép
làm chuyện bất lương, bất chánh, nhiểu
hại người lành. Kính
thưa Huynh Đệ Tỷ Muội, Trên
đây, Đạo Muội đă
sơ lược về Thiên Khai Huỳnh Đạo; và sau
đây là Lư Huyền Thông: -
Trong thời kỳ binh đao khói lửa khắp nơi trên
thế giới, nhứt là tại VN sau năm 1975;
nhiều gia đ́nh ly tan, kẻ c̣n, người mất,
đói khổ khôn cùng; các việc tu học đều
bị bế tắc, ngăn chận; Đ́nh, Chùa, Thánh
Thất, Giáo Đường,Tu viện đều bị
đóng cửa, tịch thu….Ngày “Chuyển
Thế” đă cận
kề mà nhân sanh vẩn c̣n trầm luân trong biển
khổ, nguyên căn c̣n đang đọa lạc nơi
miền dục giới. Vào
ngày 17 tháng 5 năm Mậu Ngọ 1978, Đức Linh-Quang Địa
Tạng Vương giáng bút tại Linh-Quang Đạo
Thục ở Sài-g̣n như
sau: THI
BÀI
Thiên Khai Huỳnh Đạo “Tân Sinh” Diêu
Tŕ hóa độ nhất t́nh chủng nhân Đạo sinh Huỳnh Đạo bảo thân Trau
dồi hạnh đức thoát lần oan ương Bền tâm vửng trí sân trường Hành
xong sứ mạng là đường Long Hoa Chủng nhân hiệp hội chung nhà Đạo
sinh hóa độ nhân ḥa nước yên Phật tâm vửng chí vửng thuyền Thiên
Tôn Di Lạc Quản Quyền Phật Vương Hạ phàm ban rải t́nh thương Ngự
đàn phán xét đo lường tội công Đạo sinh Huỳnh
Đạo giử ḷng Tạo
công, giải oán, ân hồng hiển linh Công phu, Công quả, Công tŕnh Đạo
đời hiệp nhứt thệ minh chứng nguyền Không nương cửa Phật an nhiên Thiên
Khai Huỳnh Đạo Lư Huyền Pháp Thông Đạo sinh tầm đạo một ḷng Linh
Quang Đạo Thục” mở “Ṿng
Nguyên Sinh” Ân hồng vạn tải pháp linh Ban
tṛ chơn pháp, hiệp t́nh khai hoa Đường tu trên bước Long
Hoa Thượng
Ngươn Thánh Đức,
đăng khoa hội kỳ Đạo sinh đoàn trẻ trở về Hành
xong sứ mạng trọn thề khi đi Tâm vàng sỉ đạo khắc ghi Song
toàn Thiên Sứ ân thi
độ đời…
Củng vào năm 1978, Đức Chưởng Giáo
Huỳnh Đạo, Thiên Ngọc Như Lai lâm đàn
chuyển Đạo Muội về chưởng ṭa Châu Đốc
để học đạo và thọ thiên ân bái
mạng trước Điện Ṭa; minh thệ để
lảnh sứ mạng nhiệm hành, chuẩn bị cho Cơ
Lư Huyền Thông ra đời. Vào ngày 27
tháng 6 năm Canh Thân 1980, Đức Quan-Âm Nam-Hải giáng bút
khai Cơ Lư Huyền Thông
như sau:
THI BÀI
“LƯ HUYỀN THÔNG”
muôn nơi chưa có Pháp nhiệm mầu công khó gian lao Con
ơi! Huỳnh Đạo bước vào Trải
bao khảo thí, tâm xao không thành Đường đạo quả nêu danh vạn thế
Dạy con hiền “Tâm
-Thể” hồi qui Quan
Âm cứu khổ từ bi Ḷng
thành vửng chắc chứng tri tâm vàng
Khi cơn khảo, đừng than con hởi
Ráng miệt mài v́ bởi “Nhẩn-Tâm”
Nếu không chịu nổi, niệm thầm Nam
Mô sáu chử, th́ tâm tịnh liền
Gặp cơn khảo liên miên kéo đến Ráng tŕ tâm, đốt nến mà đi Rồi
qua khảo thí, lôi tŕ Hồng
ân ban bố Huyền Vi Điện
Đài Giả tất cả an bài việc đạo Khai Lư Huyền Thông
thạo cao siêu Pháp Huyền Lư
đạo muôn điều Mừng
đàn con trẻ nhiệm siêu “Đạo
Vàng”. Đến
ngày mùng 9 Tháng 10 Canh Thân 1980, được sắc
lệnh của Đức Diêu-Tŕ Kim-Mẩu khai mở “Diêu-Tŕ
Điện” tại Sài-g̣n và thượng thờ
Ngọc-Sắc; c̣n được gọi là “Ṿng Nguyên Sinh Vô Cực”. Ṿng Nguyên
Sinh Vô Cực gồm có năm màu chính: Trắng, Đen,
Xanh, Đỏ, Vàng. Tượng trưng cho 5 bậc
tiến hóa: Nhơn, Thần, Tiên, Thánh, Phật. Đó là một biểu đồ nói lên nguyên
lư của Càn Khôn Vủ Trụ, giải thích được
tất cả qui luật Tam Ngủ và sự sinh hóa của
Đấng Tạo Hóa: “Nhứt Bổn Tán Vạn Thù”.
Ṿng nguyên sinh c̣n chỉ dẩn cho chúng ta về Pháp Đạo
để tu luyện tâm thể hầu trở về
với khối Đại Linh Quang của Thượng Đế. Các đạo
sinh Lư Huyền Thông lần lượt được
chuyển tu học và đi hành hóa các nơi, có khi
phải vào tận rừng sâu hay lên cao núi thẳm...;
những cuộc hành hóa trong thời gian này thật vô cùng
vất vả, gian nguy. Sau
đó, các điện đài lần lượt được
khai mở tại Sài-g̣n và các tỉnh: Chơn-Tâm Điện, Lư-Thái-Bạch Điện,
Chuẩn-Mẩu Điện, Hồng-Quang Điện, Liên-Hoa Đạo
Tràng…
Vào Ngọ thời ngày mồng 9 tháng 5 năm Nhâm Thân 1992,
Đức Vô Cực Từ Tôn lệnh chuyển Ngủ
Chi hợp nhất, lập Cơ Đại- Đồng Nguyên Chơn
Lư gồm có: Lư
Huyền Thông, Tổ Tiên Chính Giáo, Tân Chiếu Minh, Nhị
Thiên Pháp và Vô Vi Pháp với nhiệm hành trong 21 ngày
khai mở các cửa sông, cửa biển của thánh địa
miền Nam…
Và kể từ Tư thời Tết Nguyên Đán ngày
mồng 1 tháng giêng năm Quí Dậu 1993, các Cơ Đạo
Quốc Ngoại lần lượt được
chuyển về để hợp cơ, mở đầu
cho các cuộc hành nhiệm của Cơ
Đại Đồng. Và
củng trong năm nầy, Đức Từ Mẩu chuyển
Đạo Muội sang Mỷ Quốc để phối
hợp cùng các cơ đạo tại đây, lần lượt
khai mở các Điện Đài: Ngọc
Châu, Thái Châu, Hoàng Kim Tịnh Thất, Thiên Kim Tịnh
Thất, Pháp Hoa Đạo Tràng và Linh Quang Bửu Điện…
Sau đó, từ năm 1993 cho đến nay Lư
Huyền Thông trong Cơ Đại Đồng, nhận Thánh
Lệnh đă khai mở những cuộc hành nhiệm liên
tục trong suốt thập niên vừa qua.
Môn sinh Huỳnh Đạo
LHT đă không quản ngại vạn dặm của
Vạn Lư Trường Thành trong cơ “Qui
Linh Vạn Lư”; đă vượt qua các đoạn
đường dài để t́m về Nguồn Gốc
Tổ Tiên Bách Việt và các nơi khởi thủy
của Tam Hoàng, Ngủ Đế, Nử Oa Thái Mẫu…;
đă ngược ḍng huyền sử trở về
với Kinh Dương Vương
Tổ Phụ, Thượng Ngàn Long Mẫu, với Cha
Lạc Long Quân và Mẹ Âu Cơ; với Thập Bát Hùng Vương;
tam cố Bạch Vân Am với Trạng Tŕnh Nguyển
Bỉnh Khiêm, với các vị Tổ
Quốc Công Thần: Phù Đổng Thiên Vương,
Trần Hưng Đạo Vương,
Tả Quân Lê văn Duyệt, Hỏa Hồng Nguyển Trung
Trực…; với các Vương Triều: Thục, Trưng,
Triệu, Ngô, Đinh, Lê, Lư, Trần, Hậu Lê,
Nguyễn…trong cơ “ Tổ
Quốc Công Thần ”, “
Hồn Thiêng Sông Núi ”, “
Về Nguồn và Qui Linh Bách
Việt ”.
Đoàn Lư Huyền Thông
đă xuyên rừng lướt bụi vào tận đến
đền hai vua Đế Thiên , Đế
Thích; nhiều đêm Tư Thời tuyết đông giá
lạnh lên tận đỉnh Cửu Long Sơn, Thiếu
Thất Sơn, Tung Sơn, Quân Sơn, Ngủ Lỉnh Sơn,
Phụng Hoàng Sơn, Fan Si Pan, Hoàng Liên Sơn, Yên Tử Sơn,
Tam Đảo, Ba V́, Âm Dương Sơn, Hồng Lỉnh Sơn,
Ngủ Hành Sơn, B́nh Linh Sơn, Vệ Nữ Sơn,
Kỳ Vân Sơn, Long Sơn, Dinh Sơn, Huyền Thiết Sơn,
Thất Sơn , Thượng Nghị Sơn, Ma Thiên
Lảnh …trong cơ “Cửu Cửu Càn Khôn Chuyển”, “Cửu Vị
Tinh Quân Chuyển Thế”; lúc
th́ vượt sóng gió ba đào nơi Hoàng Hà, Động
Đ́nh Hồ, Trường Giang, Dương Tử Giang, Tương
Giang, Tam Giang, Côn Sơn, Cửu Long Giang, Biển Hồ…và
đă năm lần tuần du Vịnh Hạ Long, Bái
Tử Long, Phú Quốc trong
cơ “ Khởi Ḍng Nguyên Sinh Thánh Thủy ”, “Khai Nguồn
Thiếu Âm - Thiếu Dương ”; hay nhiều lần
nhập định giửa Ngọ thời nắng cháy
phồng da và Tư thời lộng gió của sa mạc Mojavie
- California nơi hiện thân của Đức Mẹ Maria hoặc
tại Hỏa diệm sơn Hilo của Big
Islands-Hawaii…trong cơ “Hồi
Sinh Thánh Thể”, “Bát Quái Hợp Thiên”. Trong
những công tŕnh này, Đoàn đă hợp cơ với Chư
Huynh Đệ Tỷ Muội trong Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh,
Ban Chỉnh Đạo, Minh Chơn Đạo, Hội Thánh Tiên
Thiên, Bạch Y Đoàn, Tam Giáo Ṭa Phinom…nhất là đă tích
cực trong công tŕnh xây dựng Điện Thờ Phật
Mẫu tại Liên Hoa Cửu Cung Thủ Đức và trùng tu
Liên đài của Đức Hộ Pháp tại Nam-vang. Ngoài ra, Đoàn củng đă phối hợp hành
nhiệm với các tôn giáo khác như Phật Giáo, Thiên Chúa,
Tin Lành, Chính Thống Giáo, Mạc Môn… Bửu Sơn
Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Đại Đồng
Cứu Thế…Gần đây, Đoàn đă có làm việc
với Huynh Đệ Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lư và
Chiếu Minh Tam Thanh và cũng đă không ngừng nghỉ,
vượt ngàn dặm đường trường để
kịp ngày giờ Qui Linh
đă định trong “Ngày
11 Tháng 9 Năm 2002” tại Washington DC và NewYork vừa
qua.
Kính thưa HĐTM,
Ngày hôm nay, các Đệ Muội Huỳnh Đạo LTH
rất lấy làm vui mừng được có cơ
hội tỏ bày những công tŕnh hành nhiệm đă qua
và rất mong rằng trong những nhiệm hành sắp
tới đây, thiên cơ vận chuyển các Chư Huynh
Đệ Tỷ Muội sẽ cùng nhau liên giao hợp cơ hành
đạo đễ chuyển hóa quả địa
cầu 68 nầy sớm được trở về đời
Thượng Ngươn Thánh Đức và mang lại ḥa b́nh
an lạc vĩnh cửu cho nhân loại. Đệ Muội LHT rất ngưỡng mộ
và xin đa tạ công đức của các chư vị
đă bỏ nhiều thời giờ, nhân lực, vật
lực để tổ chức Khóa Hạnh Đường
2003 nầy được thành công mỷ măn để phát
triển nền Đại Đạo khắp nơi trên hải
ngoại. Trước
khi dứt lời nếu có điều ǵ sơ xuất,
xin các HĐTM cũng niệm t́nh tha thứ cho. Trân
trọng kính chào tất cả HĐTM.
|
Thiên-Lư Bửu-Ṭa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674 Website: www.thienlybuutoa.org Email Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT
|