Trở lại trang chánh của Website Thiên Lư Bửu Ṭa

 

RA ĐỜI, VÀO ĐẠO

Bác Sĩ Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ

Càng ngày tôi càng trông tỏ hai nẻo đường, mà nhân loại bắt buộc phải băng qua:

1.- Nẻo đường hướng ngoại: để thích ứng với hoàn cảnh.

2.- Nẻo đường hướng nội: để tiến hóa; để đắc Đạo, phối Thiên.

- Nẻo đường 1, tôi gọi là Âm Lộ, v́ càng ngày nó càng tiến vào hôn trầm, ám muội.nẻo đường 2 là nẻo đường tiến vào tâm linh, sẽ đưa đến giải thoát con người. Tôi gọi con đường này là Dương Lộ, v́ càng ngày nó càng tiến tới ánh sáng, tới quang minh.

Hai nẻo đường trên người Trung Hoa xưa đă đề cập đến:

Nơi đầu quyển Kỳ Môn Độn Giáp, ta đọc thấy:

“ÂM DƯƠNG THUẬN NGHỊCH BẤT ĐỒNG ĐỒ.”

(ÂM DƯƠNG XUÔI NGƯỢC KHÁC ĐƯỜNG NHAU).

Chương 33 Trung Dung viết:

“Thơ rằng:

Gấm mặc trong, ngoài phủ áo sa,

Là v́ ngại gấm đầy hoa ḷe loẹt.

Nên đạo quân tử ám nhiên, ẩn ước,

Sau dần dần mới sáng rực măi lên.

Đạo tiểu nhân mới ngó ngỡ là đèn,

Nhưng càng ngày càng tối đen tối sẫm...”

Nẻo đường hướng ngoại suy cho cùng trớ trêu thay lại là nẻo đường của các đạo giáo công truyền trên thế giới. Phẩm chất của các đạo giáo công truyền, của các “NGOẠI ĐẠO” này là những phẩm chất ngoại tại: Thượng thần ngoại tại, chân lư ngoại tại, luật lệ ngoại tại, quyền uy ngoại tại, thưởng phạt ngoại tại, đền đài miếu mạo ngoại tại, kinh sách ngoại tại, định luật nhân sinh toàn là những qui ước ngoại tại. Những người đă bước chân vào con đường này dần dần bị cấm suy, cấm nghĩ, cấm so sánh, càng ngày càng bị “viễn cách chỉ huy” (remotely controlled), và dần dà trở thành những h́nh nộm trên sân khấu đời...mang danh đi đạo, mà suốt đời chẳng biết thế nào là đạo.

Con người được đổ vào những khuôn sáo mà xă hội đă tạo dựng nên. Những khuôn sáo này chính là chiếc giường cố định của Procruste. Ai lùn, ai ngắn th́ kéo cho xương khớp ĺa tan, miễn là phải vừa với khổ giường; ai dài, ai lớn, th́ chặt bớt đi cho ngắn lại. Đi vào con đường này, chỉ thấy toàn là kỷ luật, c̣n tự do, hạnh phúc chỉ là những danh từ hăo, hữu danh vô thực.

Những đạo giáo công truyền này hết sức khác biệt nhau, nhưng đều được giảng dạy cho con người từ lúc ấu thơ, từ khi c̣n ấu trĩ. Chính v́ đối tượng của chúng là CON NGƯỜI ẤU TRĨ nên dĩ nhiên chúng cũng phải ấu trĩ.

Suy kỳ cùng, chúng cũng có ích cho nhân loại, v́ chúng đóng góp nhiều vào công cuộc giữ ǵn an ninh trật tự xă hội, giúp con người đối xử hẳn hoi với con người, giúp con người ăn ngay ở lành, ít là trên h́nh thức bên ngoài, và theo tầm nh́n lối nghĩ của các giáo hội.

Theo đạo giáo công truyền cũng là một cách thích ứng với ngoại cảnh, và cũng thỏa măn phần nào niềm khao khát siêu nhiên của con người.

Con đường thứ hai, là con đường hướng nội, là con đường giải thoát thực sự, mà Ấn Độ xưa đă dùng những tiếng như là Yoga, Moksa, Kriya Yoga, mà ngày nay người ta dùng những tiếng như là SELF-REALIZATION, hay GOD-REALIZATION (THỰC HIỆN TỰ TÁNH, THỰC HIỆN THIÊN CHÚA) v,v...

Phẩm chất của đạo giáo mật truyền này - một NộI GIÁO duy nhất của nhân quần - là phẩm chất nội tại: Thượng thần nội tại, chân lư nội tại, luật lệ nội tại, quyền uy nội tại, thưởng phạt nội tại, kinh sách nội tại, đền đài miếu mạo nội tại: Thượng thần chính là Căn Nguyên con người, Nguồn sinh con người; kinh sách, lề luật chính lương tâm con người; tất cả đều là thiên nhiên, vĩnh cửu. Đền đài chính là thân tâm con người. Con người được khuyến khích suy tư, khuyến khích t́m cầu, khuyến khích thoát khỏi những ǵ tù túng, trói buộc thân phận con người. Nó có mục đích giúp con người vươn vượt lên trên thân phận con người, trở thành thần minh, ngay từ khi c̣n ở gian trần này, hưởng hạnh phúc tâm linh ngay từ khi c̣n ở gian trần này: Thực vậy, muốn biết ḿnh chứng đạo hay không chỉ cần kiểm điểm xem ḿnh có được hạnh phúc thực sự hay không, quang minh chính đại hay không, tiêu sái hay không, hồn nhiên hay không.

V́ nó không đ̣i hỏi con người phải sống cố định theo những khuôn khổ gian trần nào, mà chỉ đ̣i hỏi phát huy những khả năng vô biên vô tận sẵn có nơi ḿnh, thực hiện tinh hoa c̣n tiềm ẩn nơi ḿnh, nên con người càng ngày càng cảm thấy ḿnh có thể triển dương, tiến hóa vô biên tận.

Loại đạo giáo này dành cho những tao nhân, mặc khách, những tâm hồn cao siêu, khoáng đạt. Con người thường chỉ t́m ra được NộI GIÁO này lúc đầu đă hoa râm, lúc tuổi đă khoảng 40, và thường là có may mắn gặp được chân sư chỉ dạy.

Những đạo giáo công truyền ngày nay có rất nhiều. Nguyên Thiên Chúa Giáo cũng có vô số giáo phái.

Ngoài ra chúng ta c̣n có Phật giáo, Ấn Giáo, Bà La Môn giáo, Hồi giáo.

Mới nh́n, ta thấy chúng hết sức khác nhau. Nhưng suy nghĩ thêm một chút, ta thấy chúng rất là giống nhau.

1.- Trước hết chúng là đạo giáo của đại đa số quần chúng. Đạo nào cũng hănh diện v́ có hàng triệu triệu tín đồ.

2.- Đạo nào cũng có đền đài miếu mạo.

3.- Đạo nào cũng có một vị Thượng thần, hay nhiều vị thần; nhiều vị Phật, hay nhiều vị thánh để ca tụng, tôn thờ, hương hoa cúng quải.

3.- Đạo nào cũng có những nghi lễ để hành, những kinh để đọc, những bài ca để hát, cũng x́ xụp van vái.

4.- Đạo nào cũng đ̣i hỏi sự đóng góp của giáo dân: xem lễ, dự lễ, cầu kinh chung, góp công, góp của.

5.- Đạo nào cũng thường có những lễ nghi đặc biệt để đánh dấu các thời điểm quan trọng của cuộc đời như: tử, sinh, quan, hôn, tang, tế v.v...

6.- Đạo nào cũng tạo ra những thiên đường riêng, những địa ngục riêng, và cũng có những vị thánh thần, hay những yêu ma, quỉ quái, đầy nhóc trong đó. ở thiên đừờng th́ ca hát, ở địa ngục th́ khóc than. Cả ở hai nơi, cuộc sống đều vô vị, vô ư nghĩa như nhau.

7.- Đạo nào chung qui cũng cốt là để Thờ TRỜI, Thờ ALLAH, Thờ PHẬT.

Tất cả những đạo giáo trên đều có giáo tŕnh, giáo sử, và theo đà thời gian cũng có thăng trầm, và rồi ra cũng có thể có sinh, có diệt.

Có điều lạ là đạo nào cũng cho ḿnh là Chân đạo, c̣n đạo khác là tà đạo, là ngoại đạo, mặc đầu chính bản chất của ḿnh vốn là tà đạo, là ngoại đạo: tà đạo v́ không nh́n ra được chân bản thể của con người, chân bản thể của vũ trụ, chân giá trị của con người, mục đích chân chính của cuộc tiến hóa quần sinh; ngoại đạo, v́ chỉ biết những lễ nghi h́nh thức hời hợt bên ngoài, chạy theo những ǵ phù phiếm, phiến diện bên ngoài, mà ù cạc về những điều trọng yếu, những lư sự tiềm ẩn bên trong vũ trụ và con người.

Từ năm tôi 36 tuổi, tôi bắt đầu t́m ra được con đường nội giáo:

- Tôi cảm nghiệm một cách mănh liệt rằng con người có Thiên tính.

- Tôi xác tín rằng con người phải đi vào tâm mà t́m Đạo. t́m Trời.

- Con người có giá trị vô biên và có những khả năng vô biên, vô tận, cần được khai thác.

- Con người v́ có hai phương diện nội ngoại, hằng biến, nên có nhiều loại bổn phận:

a.- Thích ứng với ngoại cảnh, khai thác ngoại cảnh, để sống một cuộc đời vật chất sung sướng, khỏe mạnh, thoải mái.

b.- Ăn ở cho xứng đáng với danh nghĩa con người, có một đời sống cá nhân, gia đ́nh, xă hội, quốc gia, quốc tế hẳn hoi trật tự trong một bàu không khí, tương ái, tương kính, tương thân, tương trợ.

c.- Vươn vượt lên trên thân phận con người, thoát ṿng kiềm tỏa của không gian thời gian, của biến thiên, ảo hóa, để sống một cuộc đời thần linh, siêu tuyệt.

Đại Đạo Tâm Linh này chỉ có một mục đích duy nhất là THÀNH PHẬT, THÀNH TRỜI, THÀNH THẦN, chứ không chủ trương LẠY TRỜI, LẠY PHẬT, LÀM TÔI TỚ CHO TRỜI, CHO PHẬT.

Nó không có lễ nghi, h́nh thức, nó không chủ trương x́ xụp van vái, mà chỉ có chủ trương sống với mọi người, với quần sinh vũ trụ, thế nào cho hay, cho phải, chỉ chủ trương tương kính, tương ái, tương thân, và hợp sức cùng nhau cải thiện ngoại cảnh, tổ chức gia đ́nh xă hội, quốc gia cho ngày một thêm hoàn mỹ. Chưa thực hiện được một cuộc sống cá nhân và cộng đồng lư tưởng, chưa lơi công tŕnh...

Nó chỉ có một mục đích duy nhất là giúp con người t́m cho ra cái bản chất thần linh siêu tuyệt nơi ḿnh. Chúng ta muốn gọi cái Bản thể thần linh ấy là ǵ cũng được: Là Tuyệt đối, là Chúa, là Allah, là Oum, là Brahman, là Atman, là Chân Như, là Đạo, là Nhất, là Hư, là Vô, hay là Không. Danh hiệu không cần, nhưng đừng bao giờ quên nó, xa ĺa nó, chối bỏ nó...

Cũng nên nhận chân rằng con đường đi vào nội tâm mà t́m Đạo, t́m Trời là một con đường có thực, nhưng rất ít người t́m ra.

Không t́m ra được, v́ nhiều lư do:

1.- Con người đă bị thôi miên, bị nhồi sọ từ tấm bé bằng cái đạo công truyền sẵn có ở xă hội bên ngoài.

2.- Lười biếng không chịu t́m cầu. Sống phù phiếm, không biết trầm tư mặc tưởng.

3.- Không có căn cơ, hay chưa có cơ duyên.

4.- Cho rằng đi vào tâm để t́m Đạo, t́m Trời là điều không tưởng.

5.- Cái đạo cao siêu này thường chỉ truyền thụ cho những người thực tâm tha thiết t́m cầu, chứ không vơ bèo, gạt tép, truyền dạy ẩu tả.

Huyền thoại Ấn Độ có ghi: Xưa kia mọi người đều là thần minh. Nhưng v́ ăn ở bất xứng, lạm dụng danh tước đó, nên Tối Thượng Thần Brahman nhất định cất bản chất thần minh ra khỏi con người. Nhưng đem bản chất thần linh đó ra rồi, sẽ đem dấu cất nơi đâu. Chúng thần bàn tới, bàn lui, đề nghị dấu trên đỉnh non cao, hay chôn trong ḷng đất, hay thả ch́m đáy biển. Thượng Thần Brahma nói dẫu dấu chỗ nào bên ngoài con người cũng đều không ổn, v́ một ngày nào đó, con người sẽ t́m lại được, chi bằng đem dấu vào một chỗ kín đáo nhất mà không bao giờ con người có thể nghĩ tới mà đi t́m, đó là dấu ngay ở chính giữa ḷng sâu tâm hồn con người... (1)

Mặc dầu các vị giáo chủ đă cố giảng dạy rằng Chúa, rằng Trời, rằng Nước Trời ở ngay trong ta, nhưng chẳng có ai tin. Chẳng những thế lại cho rằng tin như vậy là lầm lẫn lớn. Thật đáng buồn thay! (2)

Từ đây sắp xuống tôi sẽ bàn về mục đích cuộc đời, về cái nh́n siêu tuyệt của những bậc thượng trí thượng nhân từ cổ chí kim, không phân biệt đông tây, về Nội Giáo mật truyền của thiên hạ.

Thực ra, từ trước đến nay, dù nói xa, nói gần, tôi vẫn thường đề cập đến cái Đại Đạo tâm truyền ấy, khi th́ tôi gọi đó là Đại Đạo, khi th́ tôi gọi đó là Tinh Hoa các tôn giáo, khi th́ tôi gọi là đạo Huyền Đồng. Cái Đạo này thực ra nó đă tiềm ẩn sẵn trong ḷng mọi người, tôi chỉ muốn khơi động nó lên, chứ thực ra nó đă có từ muôn thủa.

Cái Đại Đạo này bắt đầu có từ khi mà Bản Thể vô biên tế của vũ trụ này bắt đầu phóng phát, tán phân, bắt đầu h́nh hiện thành quần sinh vũ trụ.

Khi đă phóng phát, tán phân thành quần sinh vũ trụ này rồi, th́ Đại thể vô biên, linh minh huyền diệu ấy lại tiềm ẩn sẵn trong ḷng sâu của vũ trụ, quần sinh và của con người.

Như vậy vũ trụ, quần sinh, và con ngưười có hai b́nh diện:

- Một là b́nh diện Bản thể, duy nhất bất khả phân, thường hằng vĩnh cửu, siêu việt, tuyệt đối.

Tùy cung cách tŕnh bày, cảm nghĩ của các bậc thánh hiền, mà Bản Thể đấy mang nhiều danh hiệu: Hư, Vô, Vô Cực, Thái Cực, Chân Tâm, Chân Như, Thượng đế, Allah, Trời, Jehovah, Elohim, Adonai, Ahura Madza, Brhaman, Atman, Niết Bàn, Nước Trời v.v...Đó cũng là Cơi Thiêng, siêu sinh tử, siêu không gian, thời gian...

- Hai là b́nh diện Hiện Tượng, h́nh tướng biến thiên, đa tạp, lệ thuộc vào ṿng h́nh danh, sắc tướng, không gian, thời gian, ṿng duyên nghiệp, sinh tử, luân hồi, có danh mà không có thực, phù du, hư ảo, như những áng mây bồng bềnh trên khung trời thẳm, hay như những bọt bèo biến hiện trên mặt trùng dương vô biên, vô tận. Đây là thế giới của cá nhân, cá tính, của những ǵ vô minh, của những ǵ hư ảo. Đây là 'Nước thế gian', theo danh từ Tân ước; hay Cơi Tục, hay hồng trần tục lụy, bể khổ bến mê, nói theo kiểu Á Đông.

Khi đă nh́n tỏ được hai phương diện này, tự nhiên một câu hỏi được nêu lên: Giữa cái Khổ và cái Lạc, cái Biến và cái Hằng, cái Giả và cái Chân nói trên, ta sẽ chọn cái ǵ?

Dĩ nhiên là ta phải chọn cái ǵ là Thường Hằng, vĩnh cửu, cái ǵ là Chân thực, cái ǵ là Quang Minh Chính Đại, cái ǵ là Lư tưởng.

Tất cả những phương tiện dẫn từ Phù Sinh, đến Trường sinh, từ Hiện Tượng tới Bản Thể, đó gọi là Đại Đạo, v́ nó là con đường duy nhất, mà nhân loại bắt buộc phải băng qua để tiến tới trường sinh vĩnh cửu.:

Các đạo sư Ấn Độ là những người có công đi tiên phong trong công cuộc t́m Đạo, t́m Trời nói trên. Bộ Veda, bộ Upanishads, bộ Bhagavad Gita là những bộ kinh cổ xưa đă cho ta rất nhiều chi tiết về con đường thành chân, chứng thánh đó. Ấn Độ, ngay cả bây giờ vẫn c̣n có những đạo sư, những kỳ nhân đóng vai hướng đạo thế giới trên con đường tâm linh...Nói thế không có ư nói rằng chỉ có Ấn Độ giáo mới có nhiều vị thánh hiền. Nếu chúng ta chịu t́m cầu, th́ đâu đâu cũng gặp những bậc siêu nhân như trên. Đọc Đạo Tạng của Lăo Giáo, khảo các Mật Tông ÂSu Châu như Kabala, Free-Masonry, Rosicrucianism, Theosophy, Gnosticism, Neo-Platonism, Transcendentalism, ta thấy tràn đầy những tư tưởng đó...

Chúng ta sẽ chứng minh điều đó sau đây.

Khi một con người tiến từ Phù Sinh lên tới Trường Sinh, từ Hiện Tượng vào tới Bản Thể, th́ sự kiện ấy được mệnh danh là:

- Giải thoát.

- Nhập Niết Bàn.

- Phối Thiên.

- Đắc Đạo.

- Trở thành Atman-Brahman.

- Thực hiện Thượng đế (God-realization).

- Thực hiện Tự Tính; thực hiện Đại Ngă (Self-Realization).

Cuộc tiến hóa này, mỗi một người đều phải thực hiện lấy. Một kiếp chưa xong, th́ tiếp tục tiến hóa trong nhiều kiếp. Các vị Giáo Chủ xưa nay chỉ là những vị tiên phong, những bậc dẫn đạo, chứ chẳng ai cứu rỗi nổi ai....

Vũ trụ này đều được chi phối bằng những định luật vĩnh cửu.

Như vậy, mục đích công cuộc tu tŕ là:

- T́m cho ra những định luật vĩnh cửu của đất trời để mà theo mà giữ. Ta có thể gọi đó là GIỚI, GIỚI LUẬT, hay LỄ, hay Ư CHÚA.

- T́m ra con đường, t́m ra cách để thoát ṿng không gian, thời gian, thoát ṿng biến thiên. Con đường đó, Bà La Môn gọi là Kriya Yoga (Con đường thực hiện Thượng đế), là Yoga mà ta thường gọi là Thiền, là Thiền Định.

- Thiền là tham thiền là mài miệt suy tư về Bản thể siêu tuyệt, về Thiên Tính, Phật tính của ḿnh, để luôn cảm thấy ḿnh chẳng hề rời xa Đạo, xa Trời.

Định là thu thần định trí, là thu nhiếp tâm linh về một điểm. Đó là Chân Tâm, đó là Điểm Khởi Nguyên đă tung tỏa ra thành vũ trụ, và con người, và đó cũng là Điểm Hội Tụ của mọi biến hóa, và là Cùng Đích của ṿng Càn Khôn sinh hóa của muôn loài.

Thiền định để phát ra đại trí, đại huệ.

- Phát ra Đại Trí, Đại Huệ để nh́n tỏ Căn Nguyên và Cùng Đích của Vũ Trụ, Quần Sinh và của Con Người.

Mục đích tối hậu của Giới Định Huệ là thể nhập với Bản Thể của vũ trụ.

Như vậy, tôi đă giải nghĩa lại ba chữ GIỚI, ĐỊNH, TUỆ của Phật giáo, cũng như của Bà La Môn, và của Thánh Hiền Đông Tây, kim cổ.

Nhưng Yoga, hay Thiền, hay Đơn Đạo, thực ra có những mục tiêu hết sức đa tạp:

- Mục tiêu tối hậu của nó là giúp con người sống phối hợp với Đạo, với Trời. Nhưng nó cũng có những mục đích gần gũi hơn, nhăn tiền hơn, chẳng hạn như là:

a.- Giữ ǵn sức khỏe bằng cách:

- Ở nơi trong sạch.

- Ăn uống thanh đạm.

- Động công (physical exercises=tập thể dục) (nhất là phía Lăo giáo).

- Án Ma (Massage) (Lăo giáo)

- Yết tân (Nuốt nước bọt) (Lăo)

- Khí công: (Điều ḥa hơi thở).

- Hoặc điều ḥa 'phàm tức' (thở điều ḥa bằng phổi).

- Hoặc vận 'chân tức' (vận chân khí qua hai mạch Nhâm, Đốc).

- Hoặc 'đ́nh tức' (ngưng thần tụ khí nơi năo thất 3, tức Nê Hoàn Cung).

b.- Luyện trí bằng cách:

- Điều chế tư lự.

- Mài miệt suy tư về một vấn đề ǵ nhất là để t́m cho ra Chân Bản Thể, thân thế và định mệnh con người.

c.- Luyện tâm, bằng cách:

- Chế ngự thất t́nh, lục dục.

d.- Luyện thần bằng cách:

- Tập trung thần trí.

- Đại định, nhập vào Đại Thể vũ trụ.

Tóm lại người thường sống trong loạn lạc, hỗn tạp.

- Hành động hỗn loạn, thân thể bất an.

- Loạn tư, loạn lự: Suy tư hỗn loạn.

- T́nh cảm hỗn loạn: hốt hỉ, hốt nộ, yêu cuồng sống vội, phóng túng vô độ.

 

Các Yogi, các đạo sư thời sống an b́nh, trật tự, tĩnh lăng.

- An tọa.

- Điều tức.

- Tâm b́nh, khí ḥa, điềm đạm, hư vô.

- Hư tâm, vô niệm.

- Đi sâu vào đời sống các đạo sĩ, ta c̣n thấy một hiện tượng lạ lùng sau:

1.- Mới đầu, họ thở bằng mũi, bằng phổi, thở điều ḥa. Phương pháp thở này gọi là :'PHÀM TỨC' (Lối thở của kẻ phàm phu).

2.- Vận Chân Khí qua hai mạch Nhâm, Đốc. Lúc này th́ hơi thở qua phổi giảm đi, và có thể đ́nh lại. Cả Yoga Ấn Độ, cả Lăo giáo đều đề cập đến các phương pháp này. Huỳnh Nguyên Kiết có câu:

Phàm tức đ́nh, nhi chân tức hiện”: Phàm tức (Lối thở bằng mũi) có ngưng, th́ chân tức (Lối thở bằng xương sống) mới hiện.

3.- Cuối cùng là “đ́nh tức” (Ngừng thở bằng phổi, ngừng vận động chân khí), sau khi đă vận được THẦN, KHí tụ về Nê Hoàn cung. Người xưa gọi thế là ĐẠI ĐỊNH, là THAI TỨC (cách thở của thai nhi khi c̣n trong bào thai).

Nhập đại định đối với người xưa tức là:

- Nhập vào Đại Thể của vũ trụ.

- Trở về với Chân Nhất.

- Thoát ṿng hiện tượng biến thiên.

- Thoát ṿng không gian thời gian.

- Siêu nhân, hợp Thiên.

- Phối Thiên.

- Đắc Đạo.

- Nhập Niết Bàn.

- Giải Thoát.

- Trở thành Chân Nhân. (3)

V́ trọng tâm của Đại Đạo nói trên là trở thành con người toàn diện, là t́m cho ra những định luật đất trời mà theo, mà giữ; t́m cho ra những môi trường thuận tiện mà sinh sống, cho nên người theo đại đạo:

- T́m những nơi có không khí trong lành mà sinh sống.

- Những nước b́nh trị mà cư trú.

- ăn uống thanh cảnh, giữ ǵn sức khỏe.

- Sống điều độ, mực thước, không làm ǵ quá mức, quá lạm.

- Giữ cho óc chất quang minh.

- Giữ cho tâm hồn tĩnh lăng.

- Giữ cho tinh thần thanh sảng.

Họ thích những nơi tịch mịch, như những lùm cây, những núi non hưu quạnh, hay những pḥng ốc thang vắng, v́ ở những nơi đó, tâm thần họ đỡ bị tản lạc, và sự ḥa đồng với Trời, với Đạo dễ dàng hơn. Cũng có người chủ trương rằng có những linh địa, thánh địa như Thiên Thai, Nga Mi (Tàu), Tarakeswar (Aẽn Độ), hay Hi Mă Lạp Sơn có thể phả ra những làn sóng điện giúp con người trở nên thanh sảng, dễ xuất thần.

Họ muốn sống lại bằng thân ánh sáng của Bản Thể, nên cố gắng rũ bỏ cái thân “từ điện” của hiện tượng. Thân 'từ điện' là thân có yêu có ghét, có chấp, có cầu. Nên muốn rũ bỏ được thân “từ lực”, phải hoạt động trong vô chấp, vô cầu, phải sống vượt lên trên yêu ghét thường t́nh. Thân 'Từ Lực' chính là vọng tâm, vọng ngă, luôn luôn sống trong ṿng nhân duyên, duyên nghiệp, luân hồi. Người xưa, khi viết các chữ DUYÊN, chữ TRIỀN, chữ PHƯỢC, đều có bộ TI là Tơ một bên. Tơ đây thực ra không phải là Tơ Tằm mà là Tơ DUYÊN từ điện, phát ra những từ trường, từ lực, từ tuyến. Những từ tuyến, từ lực, từ trường nói trên chính là những sợi dây kiên cố giam hăm tâm linh chúng ta. Rũ bỏ VỌNG TÂM, VỌNG ÛƠ chính thoát khỏi từ trường của nhân quần.

Đứng về một phương diện khác, họ cũng cố t́m cách thoát ṿng không gian, thời gian:

Muốn thoát ṿng không gian thời gian, phải thoát khỏi những ǵ biến thiên, sinh tử.

Muốn vậy:

1.- Phải sống vượt trên ngoại cảnh, bằng cách đóng khóa ngũ quan, để thoát ảnh hưởng của h́nh danh, sắc tướng, của ngoại cảnh, cũng như của ngũ quan.

2.- Phải dừng những suy tư về những công truyện gian trần, thường hay có tính cách làm cho loạn trí. Thế là sống Vô Niệm.

3.- Giữ cho tâm tư tĩnh lăng, hồn nhiên, không cho thất t́nh, lục dục tung hoành, thao túng.

4. Tập trung thần khí vào Nê Hoàn Cung. Người xưa gọi thế là Tam Hoa Qui Đỉnh, Ngũ Khí Triều Nguyên hay Nhập Đại Định.

Bốn phương cách này cũng na ná như bốn trạng thái Thiền mà Phật giáo đề cập tới (4).

Mục đích của Yoga là t́m cho ra Thượng đế nội tại, (5)

Mircea Eliade gọi các các thiền sư xưa nay là “cái điểm h́nh học” (the geometrical point), để Trời người gặp gỡ, ḥa hà́ với nhau. (6)

Chữ “điểm h́nh học” trên làm tôi liên tưởng đến công tŕnh suy khảo của tôi để t́m cho ra chỗ TRỜI NGƯỜI HỜA HÀI (THIÊN NHÂN HỢP NHẤT) nơi con người. Lạ lùng thay trong đầu có một cung mà đạo Lăo gọi là Động Pḥng, Âu Châu gọi là Thalamus, mà Thalamus cũng có nghĩa là Động Pḥng. Nhưng v́ Thalamus là cái ǵ có thể thấy được, nên tôi lại đi t́m sâu hơn, và tôi đă t́m thấy rằng nơi chính trung đầu năo con người có những động trống (ventricles), Đạo Lăo gọi động chính giữa là Thiên Cốc hay Nê Hoàn Cung. Lăo giáo cho rằng nơi ấy là nơi Thần trời đất ngự trị (7), Bà La Môn gọi đó là Liên Hoa Tâm (Sahasrara), hay Thiên Môn (Brahma-randhra Brahmagate) (8). Mircea Eliade c̣n cho rằng; nếu nh́n bảy luân xa của con người, từ trên xuống dưới, th́ thấy chúng họp lại thành một Mandala duy nhất, mà Tâm Điểm chính là Brahmarandhra (9). Thiết tưởng không c̣n cách nào xác định Tâm Điểm của đầu năo con người, tâm điểm tâm linh, tâm điểm vũ trụ chính xác hơn được nữa.

Cao Đài cũng gọi đó là Nê Hoàn Cung, Huyền Tẫn Môn, hay Thiên Môn (10)

Tuy nhiên cái 'Tâm điểm' trong đầu năo con người ấy không phải là ai cũng t́m được ra. Ngày nay, vô số người tu tŕ vẫn c̣n đặt trọng tâm vào Hạ Đơn Điền nơi dưới rốn.

Thời Trung cổ, bên Âu Châu có 'môn phái tu nh́n rốn'(Hesychasm). Họ chuyên tu nh́n rốn, trong khi kêu tên Chúa Jesus Christ, và họ cho rằng sau nhiều ngày đêm tu tŕ khổ hạnh như vậy, họ sẽ t́m ra 'tâm sở' (the place of the heart), nơi chứa đựng mọi điều huyền diệu (11).

Trên đây tôi đă chứng minh:

- Đạo giáo nội tại có đường hướng hẳn hoi: Đó là hướng nội.

Chủ trương, đường lối, sự diễn biến của nó đều theo những định luật bất biến của trời đất, và luôn luôn được cảm nghiệm nơi ḿnh. Tu đúng đường th́ xác thân sẽ cường tráng, con người sẽ yên vui sung sướng, óc chất sẽ quang minh, tâm tư sẽ ḥa hoăn, sảng khoái, lạc quan, tràn đầy nhựa sống.

- Đạo giáo nội tại v́ là con đường của các vị hiền thánh đă băng qua, v́ đă được chi phối bởi những định luật vĩnh cửu, nên khi hiểu rành rẽ về đại giáo nội tại này ta hiểu được tâm tư các vị giáo chủ, cách tu tŕ của quí vị cũng như lối sống thường nhật của các ngài. Có thể nói được rằng chúng ta đă được “tha tâm thông”. Lát nữa chúng ta sẽ áp dụng những hiểu biết của chúng ta để soi rọi vào đời sống của ít nhiều vị giáo chủ.

- Đạo giáo nội tại có mục đích đưa con người đến chỗ phối thiên, thành Trời, thành Phật, thành Thần, nên bao giờ cũng chỉ có ít người theo nổi.

- Nó đ̣i hỏi con người phải thành khẩn t́m cầu, ao ước vươn vượt, không cố chấp, không câu nệ, trọng kính chính ḿnh, tin tưởng vào giá trị vô biên của ḿnh, vào định mệnh sang cả của ḿnh, tin thật rằng ḿnh chẳng hề bao giờ ĺa xa khỏi Hóa Công.

Đọc lịch sử Đức Phật ta thấy ngài đă thụ giáo với đại sư Arada Kalama về học thuyết tiền-Samkya (đại khái là phép nội quan quán chiếu, na ná như Phân Tâm Học ngày nay) tại Vaisali, và với đại sư Udraka Ramaputra về căn bản và mục đích của Yoga (12).

Chúng ta cũng đă thấy rằng chính nhờ thiền định trong 49 ngày dưới gốc Bồ Đề mà Ngài đă giác ngộ.

Trong quyển Đức Phật và Phật Pháp, của Narada Maha Thera, Phạm Kim Khánh dịch, nơi Chương 13, khi thuật lại đời sống hằng ngày của Đức Phật, tác giả ghi: “Đời sống bên trong là tham thiền nhập định và chứng nghiệm hạnh phúc Niết Bàn c̣n bên ngoài là phục vụ vị tha, và nâng đỡ phẩm hạnh của chúng sinh trong khắp thế gian” (Sách trích dẫn, tr, 233).

Nếu Ngài chủ trương Niết Bàn đă sẵn có trong tâm linh con người, th́ rơ ràng là ngài dẫn chúng ta vào Nội Giáo.

Chúa Giê Su với chủ trương: Nứơc trời ở trong anh em (Luke 17, 21), và khi đọc kinh chớ ra ngă ba đầu chợ, mà hăy vào buồng đóng cửa lại (Mat.6,6) hay không c̣n thờ Chúa ở núi này, hay ở Jerusalem, nhưng v́ Chúa là Thần, nên phải thờ Ngài bằng thần (John, 4:22-24; thánh Paul khi dạy rằng Thần Chúa ở trong ta, ta là đền thờ Chúa (1 Cor.6, 19-20) rơ ràng là dạy chúng ta nội giáo: T́m CHúa Đáy Ḷng..

Đạo Lăo với những chủ trương : Thiên tại nội, nhân tại ngoại (Nam Hoa Kinh, Chương 17, Thu Thủy, đoạn 1);

hoặc : “Ngoại du giả cầu bị ư vật, nội quan giả, thủ túc ư thân” (Đi ra bên ngoài, là cầu cạnh vào ngoại vật mới mong thành toàn; nội quan quán chiếu là thấy trong tâm có đầy đủ tất cả) (Liệt Tử, Xung Hư Chân Kinh, Ch.4, Trọng Ni đệ tứ, đoạn G. Xem Léon Wieger, Les Pères du Système Taoiste, pp. 122-123).

Trong Nam Hoa Kinh, ta thường thấy đề cập đến trạng thái 'xuất thần, nhập định', mà tác giả gọi là Táng Ngă (Sách trích dẫn, Chương 2, Tề vật luận, đoạn 1.)

Như vậy mục đích đạo Lăo cũng cốt là chỉ vẽ cho ta nội giáo chân truyền.

Nho giáo với chủ trương:

“Cả vạn vật ở trong ta đó,

Quay vào ta, ta cố tinh thành.

Kiện toàn, hoàn thiện tinh anh,

Vui nào hơn đươc vui ḿnh đang vui.”(13)

của Mạnh Tử; và:

Quay vào ta mà t́m đạo ấy,

T́m đáy ḷng sẽ thấy chẳng sai,

Dẹp tan cám dỗ bên ngoài,

Căn lành sẵn có đồng thời khuếch sung (14)”

của Trung Dung, rơ ràng là chủ trương nội giáo.

Có điều lạ là theo đà thời gian tất cả các đạo giáo lớn đều biến từ nội giáo chân truyền thành ngoại giáo công truyền, v́ thấy rằng có làm như vậy mới có người theo!

Mới đầu tôi cứ tưởng rằng Nội Giáo Tâm Truyền là của Á Đông, nhưng càng ngày tôi càng thấy rằng từ cổ xưa không biết bao nhiêu là môn phái Âu Châu, và ngày nay cũng có rất nhiều giáo phái Âu Mỹ chủ trương nội giáo:

Dưới đây tôi xin đan cử một số giáo phái, triết phái, mật tông, mật giáo chủ trương NỘI GIÁO:

- Neo-Platonism (Tân Bá Lạp Đồ).

- Gnosticism (Giác Ngộ).

- Kabala (Mật tông, huyền học Do Thái).

- Free-Masonry (Tam Điểm).

- Theosophy (Thông Thiên Học

- Rosicrucianism (Hồng Hoa Hội).

- Sufism (Bạch Y Phái của Hồi Giáo).

- Alchemy (Luyện đan phái- Nội đan phái) - Trancendentalism (Siêu việt phái).

- Modern Gnosticism (Tân Giác Ngộ phái)

- The Ramakrishna Mission and Vedanta Societies.

- The Self-Realization Fellowship.

- The Maharishi Mahesh Yogi's Transcendental Meditation.

- Internatioanl Sivananda Yoga Society

- The International Society for Krishna Consciousness v.v...

Tôi không thể đi vào chi tiết các giáo phái này, nhưng đại khái họ cũng có những nét chính yếu mà tôi đă phác họa về Nội Giáo.

Tôi chỉ xin giới thiệu hai cuốn sách trong nhiều cuốn sách nói về các giáo phái trên:

1.-Religious and Spiritual Groups in Modern America của Robert's Ellwood, Jr., Prentice Hall Inc., Englewood Cliff, New Jersey, 1973.

2.- The Kingdom of The Cults của Walter R. Martin, Bethany House Publishers, Minneapolis. Minnesota 55438, 1982

Mục đích tôi viết bài này, cốt là để chứng minh rằng con đường nội tâm chính là con đường chắc nhất, gần nhất để về với Đạo với Trời.

Chỉ có Nội giáo này mới đem lại giá trị siêu việt lại cho con người, giải thoát thực sự con người, đem lại hạnh phúc thực sự cho con người, và đồng thời cũng cho thấy sự thông minh siêu tuyệt sự sắp đặt siêu tuyệt của Trời, là đă dựng nên con người với những khả năng vô biên vô tận, đă chia sẻ cho con người chính Bản Thể ḿnh, và đă cho con người thời gian vô tận, không gian vô tận, và những nguồn năng lực vô tận của vũ trụ để thực hiện sứ mạng sang cả của ḿnh là biến trần ai tụy lụy thành thiên đường, biến con người ngày nay thành những con Trời, những Phật Tiên mai hậu. Thật là cao siêu vô cùng, đẹp đẽ vô cùng.

 

1.- Herbert B. Puryear, Ph.D., Edgar Cayce Reflections on the Path, Bantam Books, Toronto, New-York, 1979, p. 13, 14.

2.- Luke, 17-21.- 1, Cor. 6, 19-20.

3.- Trong cuốn Yoga, Immortality and Freedom của Mircea Eliade, Bolinger Series, Princeton, 1958, ta c̣n thấy những tiếng đồng nghĩa sau đây:

- transcending the human condition, p. 4.

- Rebirth to a non-conditioned mode of being p. 4.

- The true union of the human soul with God p. 5.

- Moksa, Nirvana, Asamskrta... p. 6.

- Absorbed (or reabsorbed) into the primordial substance p. 9, 93.

- Final withdrawal from the phenomenal world p. 96.

- Reintegration of the different modalities of the real in a single modality - The undifferentiated completeness of precreation, the primordial Unity p. 98.

- The divinization of man p. 103.

- Return to the primordial unity p. 109.

- Union of the soul with the Cosmic Soul p. 141.

- Attain the unconditioned p. 179.

- Emergence from time p. 182.

- Entrance into the unconditioned p. 182.

- Withdraw to the center of oneself p. 193.

- Return to the Primordial Unity, pp. 45-46.

- Transcend the phenomenal world and pass into that non-conditioned and timeless state. p. 271.

- Transcend the opposites p. 271.

- Coincidence of time and eternity p. 271.

- Reconquest of the completeness that precedes all creation p. 271.

- Regression to the undiscriminated state of the original Totality p. 270.

- Coincidentia oppositorum p. 272.

- Recover the 'paradisial” state of primordial man p. 272.

4.- a.-To purify the mind and the sensibility from “temptations”-that is, to isolate them from external agents; in short, to obtain a first autonomy of consciousness;

b.- to suppress the dialectical functions of the mind, obtain concentration, perfect mastery of a rarefied consciousness;

c.- to suspend all 'relations” both with the sensible world and with memory, to obtain a placid lucidity without any other content than “consciousness of existing”;

d.- To reintegrate the “opposites,” obtain the bliss of 'pure consciousness.”

Ib. p. 171.

5.- Yoga through which divinity is found within, is doubtless the highest road.

Paramahamsa Yogananda, Autobiography of a Yogi, Self-Realization Fellowship, 3880 San Rafael Avenue, Los Angeles, California, 90065, USA, 1981, p. 136.

6.- Clearly, his (the yogin's) situation is paradoxical. For he is in life, and yet liberated; he has a body, and yet he knows himself and thereby is purusa; he lives in duration, yet at the same time shares in

immortality; finally, he coincides with all Being, though he is but a fragment of it, etc. But it has been toward the realization of this paradoxical situation that Indian spirituality has tended from its beginnings. What else are the “men-gods” of whom we spoke earlier, if not the “geometrical point” where the divine and the human coincide, as do being and non-being, eternity and death, the whole and the part?

Mircea Eliade, Yoga, Immortality and Freedom, Bolingen Series, Princeton University Press, 1958, p. 95.

7.- Đầu hữu Cửu cung trung hữu Nê Hoàn. (Kim Đơn Đại Thành Tập, tr. 4)

Nhân đầu hữu cửu cung, trung hữu nhất sở, danh viết Thiên Cốc, thanh tịnh vô trần, năng tương nguyên thần an trí kỳ trung, hào bất ngoại tŕ, tắc thành chân chứng thánh...(Huỳnh Nguyên Kiết, Lạc Dục Đường ngữ lục,Chân Thiện Mỹ xuất bản xă, ấn hành, 1936, tr. 87.

8.- The seventh center, the “thousand-petaled lotus” in the brain, is the throne of the Infinite Consciousness. In the state of divine illuminatipon the yogi is said to perceive Brahma or God the Creator as Padmaja, “the One born of the lotus.”

Paramahamsa Yogananda, Autobiography of a yogi, p. 158n.

9.- Dr. Vasant G. Rele, in analyzing the word Brahmarandhra, reminds his readers that the word randhra may as well be translated “cavity” as “hole”. He, therefore, visualizes the Brahmarandhra not as an opening but as a cavity surrounded “by a chakra or plexus of a thousand branches, known as sahasrara.

10.- Xem Đại Thừa Chân Giáo, nơi các tr. 56, 61 (ấn bản cũ) hoặc 322, 432 (ấn bản mới.).

11.-Cf. Mircea Eliade, Yoga, Immortality and Freedom, Bolingen, Princeton p. 63.

12.- Asvaghosa, Buddhacarita, XII, 17ff.- id. Saundarananda, XV-XVII; Majjhima-nikaya, I, 164ff.

13.- Vạn vật giai bị ư ngă hỹ, phản thân nhi thành, lạc mạc đại yên.- Mạnh tử Tận tâm chương cú thượng, câu 4.

14.-Cái dục học giả ư thử, phản cầu chư thân nhi tự đắc chi, dĩ khử phù ngoại dụ chi tư, sung kỳ bổn nhiên chi thiện.- Trung Dung, Chương Nhất.

 

Thiên-Lư Bửu-Ṭa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674

Website: www.thienlybuutoa.org     Email    Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT

Thông bạch in Kinh