Trở lại trang chánh của Website Thiên Lư Bửu Ṭa

 

NIÊN BIỂU HUỆ LƯƠNG TRẦN VĂN QUẾ (1902-1980)

LÊ ANH DŨNG

 

1902: 01.11 (02.10 Nhâm dần), sanh tại làng Phước Long, quận Long Thành, tỉnh Biên Ḥa. Là con áp út (thứ tám) trong số tám anh chị em (năm trai, ba gái). Cha: Trần Văn Được; mẹ: Nguyễn Thị Là.

1909: Học chữ Hán với đông y sĩ Trương Văn Thuần, Hội đồng Địa hạt.

1910: Ông Thuần mất; học quốc ngữ và tiếng Pháp tại trường tổng Phước Long.

1916: Học lớp Nh́ (cours moyen) trường tỉnh Biên Ḥa.

1919: Đậu chứng chỉ sơ học Pháp-Việt (certificat d'études primaires franco-indigènes). Học nội trú trường Ecole normale primaire d’instituteurs (trường đào tạo giáo viên tiểu học), Sài G̣n.

1922: Thân phụ tạ thế.

1923: Đậu bằng thành chung (diplôme de fin d'études complémentaires franco-indigènes) và bằng cao đẳng tiểu học (brevet élémentaire). Học ban tú tài bổn quốc (enseignement secondaire local) tại Collège Chasseloup-Laubat.

Chú: Ngày 10.7.1871 Pháp lập trường Ecole normale colonial (trường sư phạm thuộc địa); ngày 12.8.1871 Pháp lấy địa phận chùa Khải tường để xây trường. Năm 1874 trường này đổi tên thành Collège indigène (trường bản xứ); năm 1876 lại đổi tên thành Collège Chasseloup-Laubat, chia ra khu Âu (quartier européen) và khu học sinh bản xứ (quartier indigène). Ngày 15.7.1927 tách khu bản xứ nhập sang trường Collège de Cochinchine (trung học Nam kỳ). Năm 1928 Collège Chasseloup- Laubat đổi tên thành Lycée Chasseloup-Laubat, c̣n Collège de Cochinchine đổi tên thành Lycée Petrus Kư. [Nguyễn Đ́nh Đầu, “Giáo dục dưới triều Nguyễn và dưới thời Pháp (1698-1955)”, trong Địa chí văn hóa thành phố, tập II: Văn học - Báo chí - Giáo dục. 1998, tr. 696, 730]. Năm 1966 Lycée Chasseloup- Laubat đổi tên thành trường trung học Lê Quư Đôn [Nguyễn Q. Thắng, Khoa cử và giáo dục Việt Nam. Hà Nội: Nxb Văn hóa-Thông tin, 1994, tr. 268.]

1925: Đậu bằng tú tài bổn quốc (baccalauréat local; baccalauréat franco-indigène, hay certificat de fin d'études secondaires franco-indigènes) và bằng brevet d'enseignement primaire supérieur.

Tháng 10, ra Hà Nội học ban Toán lư hóa trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương (Ecole supérieure de Pédagogie de l'Indochine).

1927: Tháng 11, về quê cưới vợ (Nguyễn Thị Đính, mười sáu tuổi, con bà Nguyễn Thị Nguyệt), người làng Ḥa An, quận Cao Lănh.

1928: Tháng 5, tốt nghiệp trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương (đậu hạng ba). Về Sài G̣n. Đậu thêm bằng brevet supérieur.

30.8, được bổ về trường Petrus Kư, dạy học mười sáu năm liền, phụ trách các môn toán, lư hóa, sử, địa, và tiếng Việt.

1928: Mẹ và anh cả (Trần Văn Tồn) nhập môn Cao Đài tại thánh thất Mỹ Hội (người tiến dẫn là hội viên Hội đồng Địa hạt Nguyễn Phát Đạt, anh em bà con trong họ).

1929: 19.8 (15.7 Kỷ tỵ), nhập môn Cao Đài tại thánh thất Phú Hội ở quê nhà. Thường sinh hoạt ở thánh thất Cầu Kho (Sài G̣n).

1930: Đậu bằng Ngôn ngữ phương Đông (brevet de Langues orientales).

1933: Đậu bằng Khả năng Sư phạm (certificat d'Aptitude pédagogique). Tuy đủ điều kiện để chuyển sang ngạch giáo sư sơ học Pháp (enseignement primaire français, mức lương bằng 10/17 so với người Pháp cùng bực) nhưng ông Quế chỉ được xếp ở ngạch giáo sư trung học Việt Nam (mức lương khoảng phân nửa so với ngạch giáo sư sơ học Pháp) bởi v́ ông theo đạo Cao Đài, và bị Pháp nghi kỵ. Giám đốc Học chánh Taboulet từng có lời lưu ư người Pháp phải giữ chân ông Quế ở Sài G̣n để giám sát ông tốt hơn: “Laissez Monsieur Quế à Saigon pour mieux le surveiller.” (Lời ông Trần Văn Quế kể.)

1936-1940: Tổng thơ kư của Liên ḥa Tổng hội, vận động thống nhất các chi phái Cao Đài.

1943: Tháng 11, tham gia Liên đoàn Ái quốc hội, bị Pháp kết án hai mươi năm khổ sai, hai mươi năm biệt xứ, lưu đày Côn Đảo, tịch biên gia sản.

1945: 25.8, từ Côn Đảo trở về đất liền. Sau đó làm phó chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chánh tỉnh Biên Ḥa (chủ tịch là ông Hoàng Minh Châu).

1948: Giám đốc Dân huấn vụ ở Hà Nội. Khâm sai Bắc tông đạo (Ṭa thánh Tây Ninh).

1951: Bộ trưởng Nghiên cứu và Cải cách ở Sài G̣n (bốn tháng), rồi về trường Sư phạm Sài G̣n.

1953: Tham gia Ban điều động Cao Đài Thống nhứt (văn pḥng tạm ở Tam giáo điện Minh tân). Hội trưởng Cơ quan Truyền giáo Cao Đài (miền Trung).

1955: 01.8, Trưởng đoàn của Cơ quan Truyền giáo Cao Đài qua Nhật dự Hội nghị các Nhà tôn giáo Thế giới (the Conference of the World's Religionists) khai mạc tại Tokyo.

08.8, tại Ayabe (?), tham gia Chủ tịch đoàn Hội nghị các Nhà tôn giáo Thế giới.

1956: 08.7 (01.6 Bính thân), Chủ tọa lễ lạc thành Trung hưng Bửu ṭa (Đà Nẵng). Thọ thiên phong Ngọc phối sư (sau thăng Ngọc đầu sư) của Hội thánh Truyền giáo Cao Đài vừa mới ra đời, và được công cử làm chủ trưởng Hội thánh.

Chú: Đạo Cao Đài truyền ra miền Trung từ năm 1934. Lập hai thánh tịnh đầu tiên tại phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (1935). Lập thánh thất Trung thành ở Đà Nẵng (1938). Lập Hội thánh Truyền giáo Cao Đài (1956) với trụ sở trung ương là Trung hưng Bửu ṭa.

1957: Thăm các tỉnh đạo miền Trung của Hội thánh Truyền giáo, như: Phú Yên, B́nh Định, Quảng Ngăi, Quảng Nam, Thừa Thiên...

1961: Dạy Việt sử tại Đại học Văn khoa Sài G̣n. Cũng dạy tại Đại học Vạn Hạnh.

1962: Phó ban của Ban Phổ thông Giáo lư (văn pḥng tạm  tại Tam giáo điện Minh tân, năm 1964 dời về 171 Cống Quỳnh, quận 1), sau là Cơ quan Phổ thông Giáo lư Cao Đài giáo Việt Nam (1965).

1966: Thọ thiên phong tổng lư minh đạo Cơ quan Phổ thông Giáo lư.

1969: Thọ thiên phong vĩnh tịnh sư Minh lư Thánh hội. (1)

1980: 21.11 (14.10 Canh thân), quy thiên lúc 17.30. Quàn tại Hội trường Cơ quan Phổ thông Giáo lư. Lễ viếng và truy điệu trọng thể tại đây. An táng tại nghĩa trang của thánh thất Trung minh, thuộc Hội thánh Truyền giáo, ở xă B́nh Hưng Ḥa, huyện B́nh Chánh, Saigon. (2)

1981: 08.7 (07.6 Tân Dậu), đức Ngọc Hoàng Thượng đế viết Cao Đài sắc lịnh:

“Công hạnh ấy, tâm đức ấy, Huệ Lương Trần Văn Quế đă hy sinh đóng góp thật nhiệt thành, bôn ba khắp nước, thiết tha với sự ḥa hiệp. Chí hướng ấy trọn đời ôm ấp để thực hiện hai chữ Dung ḥa". Mặc dầu chưa thành công, nhưng ư chí đă thành. Thầy phong: Quảng Đức Chơn tiên, gia ân quyền pháp trở lại Hội thánh Truyền giáo, Cơ quan Phổ thông Giáo lư, giữ nguyên vị, vận dụng thần lực  điều hành quyền pháp đến khi hai nơi ấy có người đủ tài đức.”

Trước đó, Đức Bát Nhă Thiền sư Tam tông Pháp chủ đă giảng giải: Quảng Đức Chơn tiên là một Thiên vị cao cả của hàng Thiên ân, Bần tăng tạm xin giải sơ cho chư hiền hữu được thông đạt thánh ư, rơ được trí thức, đạo đức và tài năng của Người, tuy chưa được viên túc cả ba, nhưng Chí tôn muốn phó chúc cho Người để tấn tới hoàn mỹ đúng như trong Dịch lư, Hệ từ thượng truyện ở Chương 6 là:

Quảng đại phối thiên địa.

Biến thông phối tứ thời.

Âm dương chi nghĩa phối nhựt nguyệt.

Giản dị chi thiện phối chi đức.

Vậy là Quảng Đức gồm bốn câu rất tinh yếu.”

(Bấm vào đây để coi nguyên bài đàn cơ)

 

CHÚ THÍCH:

(1) VỀ MINH LƯ THÁNH HỘI (TAM TÔNG MIẾU)

Đầu thập niên 20, ở Sài G̣n có một số cư sĩ tu học theo huyền cơ đạo Lăo theo chỉ dẫn của một nhà sư người Hoa tại Phước an Hội quán (trên đường Hùng Vương, quận 5 ngày nay), về sau chuyển sang dùng đại ngọc cơ cho thuận tiện, dễ dàng hơn.

Các vị ấy khai sáng một phái tu gọi là Minh lư đạo, chính thức thành lập vào giờ Tư (23.00) ngày Bính tư, tháng Bính tư, năm Giáp tư (27.11 âm lịch, nhằm thứ Ba 23.12.1924). Lúc đầu không có chùa riêng, khi cần hội họp, họ mượn chùa Linh sơn (nay ở đường Cô Giang, Cầu Muối.)

a. CƠ SỞ: Minh lư đạo lập chùa ở khu Bàn Cờ, tên là Tam tông miếu (1926), trùng tu Tân tỵ 1941 và Đinh dậu 1957, nay ở số 82 Cao Thắng, quận 3. C̣n có Bát nhă Thiền đường ở Long Hải, và nghĩa địa ở Phú Lâm. Minh lư.

b. THỜ PHỤNG: Chùa thờ Tam cực (Vô cực, Thái cực, Hoàng cực tức là Phật mẫu Diêu tŕ, Ngọc hoàng Thượng đế, Hồng quân Lăo tổ). Cũng thờ Tam giáo Tổ sư (Thích ca, Lăo tử, Khổng tử), bốn vị bồ tát (Quan âm, Văn thù, Phổ hiền, Địa tạng), năm vị tinh quân và một số vị khác nữa.

c. TÁM PHẨM TU phái nam (tương ứng bát chánh đạo): (1) tín đồ: hướng tịnh sư [tương ứng chánh kiến]; (2) môn sanh: chí tịnh sư [chánh tư duy]; (3) môn sanh: tâm tịnh sư [chánh ngữ]; (4) môn sanh: thanh tịnh sư [chánh nghiệp]; (5) giáo sư: khiết tịnh sư [chánh mạng]; (6) giáo sư: vĩnh tịnh sư [chánh tinh tấn]; (7) giáo sư: siêu tịnh sư [chánh niệm]; (8) tổ sư: giác tịnh sư [chánh định].

Tám phẩm của phái nữ tên cũng như vậy, nhưng thay chữ sư bằng cô. Từ khi thành lập Minh lư đạo, chưa có ai lên được phẩm tổ sư (giác tịnh sư).

d. ĐẠO PHỤC: Áo dài đen, khăn đóng đen, nam quần trắng, nữ quần đen.

e. ĐẠO HIỆU: Pháp danh của môn đệ qua mỗi đời lần lượt được ghép với một trong các chữ Minh, Khai, Tường, Đại, Đạo. Hiện nay đă sang đời thứ tư (Đại).

f. NHÂN VẬT: Trụ tŕ đầu tiên là ông Âu Kiệt Lâm (1896-1941), pháp danh Minh Chánh, cũng gọi Âu Minh Chánh. Đệ tử đời thứ nhất là Minh Truyền có công làm lịch Tam tông miếu, bày cách coi ngày giờ lành để xây dựng, cưới hỏi, tang ma... Lịch nổi tiếng khắp Nam kỳ Lục tỉnh cho măi tới những năm 60, 70.

Kế tục Minh Chánh là Minh Thiện (1897-1972), cũng gọi Định Pháp, bút danh Nguyễn Minh Thiện, phẩm siêu tịnh sư, quả vị Bát nhă Thiền sư. Ông họ Tôn, nhưng khai sinh ghi tên là Nguyễn Văn Miết, cũng gọi Huyện Miết, v́ làm công chức tới hàm huyện, sau thăng lên phủ. Giỏi tiếng Pháp, thông chữ Hán, nên ngoài việc trứ tác ông c̣n có công dịch nhiều kinh sách đạo Lăo dạy về tu đơn (thiền), bản thảo chưa xuất bản hết.

(2) Niên biểu này chưa liệt kê được các sách đă xuất bản của ông Huệ Lương Trần văn Quế.

LÊ ANH DŨNG

 

 

Thiên-Lư Bửu-Ṭa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674

Website: www.thienlybuutoa.org     Email    Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT

Thông bạch in Kinh