Trở lại trang chánh của Website Thiên Lư Bửu Ṭa
|
LÊ ANH DŨNG 5.Tôn
thánh tôn hiệu Ngoài tên tự là Trường Sinh, Thọ Trường, và Vân Trường, qua nhiều triều đại và thời đại, Quan Vũ đă được tôn thánh, phụng thờ và do đó c̣n được biết tới qua nhiều tôn hiệu khác nhau. 1. Ngài c̣n
có các hiệu là: - Quan đế, - Quan công, - Quan thánh, - Quan Lăo gia, - Quan Phu tử, hay - Sơn Tây Quan Phu tử, v́ quê quán ở tỉnh Sơn Tây. [Mathews' Chinese-English dictionary, Harvard University Press, Cambridge, Massachusetts, 1971, tr. 528, mục từ 3571 (f).] 2. Mỹ
nhiêm công V́ Ngài có bộ râu năm cḥm dài quá rốn, trông rất đẹp, nên c̣n được gọi là Mỹ nhiêm công tức là ông râu đẹp. La Quán Trung chép: “[Tào]
Tháo thấy râu Quan công đẹp, hỏi: Râu Vân Trường
ước được bao nhiêu gốc? Quan
thưa: Được độ vài trăm gốc, cứ
mỗi năm đến mùa thu lại rụng mất vài
ba cái; đến mùa đông th́ phải lấy cái túi the
thâm mà bọc lấy để cho nó đỡ rụng. Tháo
sai lấy gấm may ngay một cái túi hiến Quan công
để phủ râu. Sáng
sớm hôm sau, Quan Vũ vào chầu vua. Vua [Hán Hiến
đế] thấy trước ngực đeo một túi
gấm, phán hỏi để làm ǵ. Quan công thưa
rằng: Râu tôi hơi dài, nên thừa tướng [Tào Tháo]
cho túi để bọc lại. Vua
sai đứng trước điện mở ra vuốt xem,
th́ dài quá bụng. Vua phán rằng: Thực là ông tốt râu! Từ
đấy ai cũng gọi Quan công là “ông tốt râu”.
[La Quán Trung II, 1994: 415-416] 3. Hán
thọ đ́nh hầu Sau khi thất thủ trận Hạ B́, Quan Vũ tạm thời khuất thân tá túc bên Tào Tháo đợi tin Lưu Bị, Trương Phi. Trong một lần đánh quân Viên Thiệu, Quan chém được Nhan Lương, Tháo làm biểu tâu lên, triều đ́nh phong Ngài là Hán thọ đ́nh hầu, đúc ấn giao cho [La Quán Trung I, 1994: 126]. (Một số bản kinh Minh thánh thường in là Hán Hán thọ đ́nh hầu, và giải thích rằng khi đúc ấn, Quan Vũ yêu cầu phải có hai chữ Hán đó, ngụ ư là ông chỉ quy Hán, chứ chẳng chịu hàng Tào. Khi bỏ Tào đưa hai chị về t́m Lưu Bị th́ “phàm những đồ kim ngân, châu báu gói hết cả lại bỏ vào trong kho, ấn Hán thọ đ́nh hầu th́ đem treo ở trên thềm” [La Quán Trung I, 1994: 435]. Các tranh tượng thờ Quan thánh ngày nay vẫn vẽ Quan B́nh đứng sau lưng Quan thánh, phía bên trái, tay giữ ấn này (pḥ ấn). Có câu đối nhắc tích hàng Hán bất hàng Tào như sau: Thân
tại Tháo doanh, tâm tại Hán: Trung
vi vũ thánh, nghĩa vi thần. [Xem
Câu đối về Quan thánh.] 4. Nhân
đức Thánh quân Khi dựng miếu thờ Quan Vũ ở
quận Tiêu, quê nhà Tào Tháo, Tháo đích thân viết
bốn chữ Nhân đức
Thánh quân làm hoành phi treo ở chính điện.
[Ngoại truyện II, 1993: 209] 5. Tráng
mậu hầu Thời Tam quốc, năm 260, Hậu chúa nhà Hán tôn Ngài là Tráng mậu hầu. [Werner 1969: 229] 6. Trung
huệ công Vua Tống Huy tông (1101-1126) tôn Ngài là Trung huệ công, có lẽ để đề cao ḷng trung nghĩa và nhân hậu của Ngài. [Mayers 1971: 93], mục từ 297, cho là tôn hiệu này có vào đầu thế kỷ XII. Werner, sđd, tr. 228, cho là tôn hiệu này có vào năm 1120. 7. Tráng
mậu Vũ an vương Vua Tống Cao tông (1127-1163) tôn là Tráng mậu Vũ an Vương, có lẽ để đề cao vơ công hiển hách. [Mayers 1971] và [Werner 1969] đều ghi là năm 1128. 8. Đời vua Văn đế (1330-1333) nhà Nguyên, Ngài cũng có tôn hiệu. [Werner 1969: 228] dịch tôn hiệu này sang tiếng Anh là “Warrior Prince and Civilizer”, chưa rơ chữ Hán là ǵ. 9. Năm 1594, triều Minh Thần tông (1573-1620), niên hiệu Vạn Lịch, Ngài được tôn là Đế. Từ đó trở đi, nhất là vào đời nhà Thanh, việc thờ Quan Vũ là Vũ đế được xác lập. [Mayers 1971] dịch Vũ đế là God of War. Có lẽ cũng từ đấy trở đi mà Quan B́nh, con nuôi Quan Vũ, được dân gian tôn là Thái tử. Werner nói rơ tôn hiệu là Đại đế, và cho rằng vua Minh coi Ngài là vị thần hộ quốc. [Werner 1969: 228] viết: “... the title of Faithful and Loyal Great Ti, Supporter of Heaven and Protector of the Kingdom.” 10. Trung
nghĩa Vũ thần Đại đế Đời nhà Thanh, vua Càn Long (1736-1796) tôn Ngài là Trung nghĩa Vũ thần đại đế, có lẽ để đề cao ḷng trung nghĩa lẫn vơ công của Ngài. 11. Đời nhà Thanh, theo Werner, nhân v́ sự kiện năm 1856, Ngài hiển hiện trên trời phù trợ quân binh Măn Thanh đẩy lui một cuộc tấn công của quân giặc, vua Hàm Phong (1851-1862) đă tôn Ngài lên ngang tầm đức Khổng tử [Một người thứ ba là Nhạc Phi, được tôn là Nhạc đại phu tử. Xem Thờ Quan thánh]. Có lẽ ở đây Werner muốn nói tới tôn hiệu Quan Phu tử, v́ Khổng tử được tôn là Khổng Phu tử; và h́nh như sau Khổng tử th́ Quan Vũ là nhân vật thứ hai được tôn xưng là Phu tử. [Werner 1969: 228] viết: “In 1856 he is said to have appeared in the heavens and successfully turned the tide of battle in favour of the Imperialists, for which service the Emperor Hsien Fêng (A.D. 1851-62) raised him to the same rank as that accorded to Confucius.” Các câu đối về Quan Vũ cũng hay nhắc đến tôn hiệu Phu tử [Xem Câu đối về Quan thánh]: -
Anh hùng kỷ kiến xưng Phu tử; Hào
kiệt như tư năi thánh nhân. -
Hán nhi hậu do xưng Phu tử; Sơn
dĩ Tây tái xuất thánh nhân. -
Khổng Phu tử, Quan Phu tử, vạn thế lưỡng
Phu tử; Tu
Xuân thu, độc Xuân thu, thiên cổ nhất Xuân thu. 12.Phong
đô Đại đế Sau khi Ngài ĺa trần, theo kinh Minh thánh, v́ là bậc anh hùng trung liệt nên Ngài được Thượng đế sắc phong là Phong đô Đại đế, có nhiệm vụ giáo hóa các âm hồn cơi U minh. Kinh chép:
Thượng đế lân ngă trung cảnh,
Độc sắc tuyên hóa U minh.
Lịnh ngă nhật du thiên hạ,
Giám biệt trung nịnh phân phân. (Thượng đế thương ta ḷng trung tỏ rạng, Đọc sắc chỉ cho đi giáo hóa cơi U minh. Lịnh cho ta ban ngày tuần du các chốn, Xem xét phân biệt người trung kẻ nịnh.) 13.
Phục ma Đại đế, Đại thánh Phục ma
Đăng khấu Cứu khổ Cứu nạn Đại
thiên tôn Lúc sinh thời, Ngài dày công chiến trận. Kinh Minh thánh chép:
Thập dư niên,
Giáp bất ly thân,
Đao vô khiết tịnh.
Dạ vô ổn thụy tam canh,
Nhật bất bảo xan nhất đốn.
Đông chiến tây chinh,
Bách chiến nhi giang san tài định.
Bạch liễu tu tấn tinh tinh,
Lực quyện, mă lôi, đao độn. (Mười năm dư, Áo giáp chẳng rời ḿnh, Thanh đao không sạch máu. Đêm ngủ ba canh không trọn, Ngày ăn một bữa chẳng no. Đánh đông dẹp tây, Trải trăm trận giang sơn mới định. Tóc râu đều bạc trắng như sương, Sức ṃn, ngựa mỏi, đao cùn lụt.) Sau khi hiển thánh rồi, Ngài lại tiếp tục dụng thần oai trừ tà khử quái, tiêu diệt yêu ma. Do đó, theo kinh Minh thánh, Ngài được tôn là Phục ma Đại đế, hay là Đại thánh Phục ma Đăng khấu Cứu khổ Cứu nạn Đại thiên tôn. Kinh Minh thánh chép:
Phục ma đăng khấu, lũ đại trưng
kỳ kỳ huân,
Giác thế dũ dân, hoàn vũ bị kỳ minh
huấn. (Trừ ma dẹp cướp, đời đời rành rạnh công nghiệp lớn, Tỉnh thế giáo dân, xứ xứ khắc ghi lời dạy sáng.) 14.
Thần oai Viễn trấn V́ khi sinh thời cũng như khi về
trời, uy linh Ngài chấn động mọi nơi, nên Ngài
được tôn là Thần
oai Viễn trấn. Có một bài thơ c̣n truyền
lại như sau:
Linh hiển bốn mùa độ chúng dân
Tà ma khiếp vía ẩn tàng thân
Muôn trùng lộ thượng dài thăm thẳm
Dạy dỗ dân Trời biết nghĩa nhân
Mười ải Diêm phù xem thiện ác
Một thiên Minh thánh gội nhuần ân
Chín trùng bố đức an lê thứ
Bốn biển thi nhơn viễn cận thần Bài thơ được phân tách thành tôn hiệu Thần oai Viễn trấn Quan thánh Đế quân: - Bốn mùa linh hiển là chữ Thần - Tà ma khiếp vía là chữ Oai [uy: oai] - Muôn trùng lộ thượng là chữ Viễn - Dạy dỗ dân Trời là chữ Trấn - Mười ải Diêm phù là chữ Quan [ải: quan] - Một thiên Minh thánh là chữ Thánh -
Chín trùng bố đức là chữ Đế - Bốn biển thi nhơn là chữ Quân [Tam nguơn 1953: 35] 15. Tam thiên
môn Đại nguyên soái Ngày mùng 9 tháng 9 âm lịch, theo kinh Minh thánh, Ngài được ngọc sắc của Thượng đế phong làm đại nguyên soái cai quản ba cửa trời phía đông, nam, và tây (c̣n phía bắc là chỗ ngự của Thượng đế). Do đó Ngài được phong là Tam thiên môn Đại nguyên soái. 16.
Chân nguyên Hiển ứng Chiêu minh Dực Hán Thiên tôn V́ Ngài một ḷng trung nghĩa pḥ giúp nhà
Hán, nên theo kinh Minh thánh, c̣n có tôn hiệu là Chân
nguyên Hiển ứng Chiêu minh Dực Hán Thiên tôn. 17. Già
lam phật, Cái thiên Cổ phật Ngài cũng được tôn là Phật Già lam. V́ uy linh trùm cả trời đất nên c̣n có tôn hiệu Cái thiên Cổ phật. Trong kinh Minh thánh tôn hiệu là Cái thiên Cổ phật Chiêu minh Dực Hán . 18. Quan tráng
mậu hầu Ở huyện Thái Hưng, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc, những năm sau Cách mạng Tân hợi (1911), Ngài được thờ trong miếu với tôn hiệu Quan tráng mậu hầu. [Werner 1969: 229] 19. Thiên
cổ Vĩ nhân Ở đền Quan công, huyện Thọ Xương, Hà Nội, Việt Nam, xây dựng vào thời bị nhà Đường xâm chiếm, trùng tu thời Chúa Trịnh, có tấm biển đề bốn chữ Thiên cổ Vĩ nhân để xưng tán Ngài. [Ngô Đức Thọ 1993: 549] 20. Đức
sùng Diễn chính Tại Vĩnh nguyên tự (chùa Cao đài) ở xă Long An, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, Việt Nam, không thờ Ngài bằng chân dung, mà thay bằng bốn chữ Đức sùng Diễn chính, mượn trong kinh Minh thánh:
Thái thượng thần uy.
Anh văn hùng vũ.
Tinh trung đại nghĩa.
Cao tiết thanh liêm.
Vận hiệp hoàng đồ.
Đức sùng diễn chính. (Thần uy tột bực. Văn đẹp vũ dũng. Trung nghĩa lớn ṛng. Tiết cả ḷng trong. Vận số thuận mệnh trời. Đức lớn theo đường chính.) 21. Tam
trấn Oai nghiêm Hiệp thiên Đại đế Trong đạo Cao đài ngày nay, Ngài được tôn là Hiệp thiên Đại đế Quan thánh Đế quân, đứng vào hàng Tam trấn Oai nghiêm, đại diện cho đạo Nho, đồng đẳng với Nhứt trấn Oai nghiêm Giáo tông Vô vi Đại đạo Tam kỳ Phổ độ Lư Thái bạch, đại diện cho đạo Tiên, và Nhị trấn Oai nghiêm Thường cư Nam Hải Quan âm Như lai, đại diện cho đạo Phật. Theo
đạo Cao đài, các vị thay mặt cho Tam giáo
Tổ sư (Thích ca, Lăo tử, Khổng tử), và trên bàn
thờ (Thiên bàn), cách bài trí như sau:
LÊ ANH DŨNG |
Thiên-Lư Bửu-Ṭa, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674 Website: www.thienlybuutoa.org Email Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT
|